Kỹ thuật nuôi cá tai tượng

Kỹ thuật nuôi cá tai tượng (Osphronemus Gouramy Lacepede)

Tại Việt Nam cá tai tượng phân bố tự nhiên ở sông Đồng Nai, khu vực La Ngà. Trên thế giới cá tai tượng có ở Borneo, đảo Sumatra (Indonesia), Thái Lan, Campuchia, Lào.

I. Đặc điểm sinh học:

  • Môi trường sống: Cá tai tượng sống ở ao hồ, đầm nước ngọt, cá có cơ quan hô hấp nên cá sống được ở nước tù, bẩn, thiếu oxy (hàm lượng oxy 3mg/lit). Cá tai tượng sống được ở nước lợ, độ mặn 6%o ngưỡng nhiệt độ 16-42oC, sinh trưởng tốt ở 25-30oC; pH=5.
  • Thức ăn: Cá trưởng thành ăn tạp thiên về thực vật (các loại rau, bèo?). Khi mới nở cá sống nhờ dinh dưỡng từ noăn hoàng; sau 5 – 7 ngày sử dụng hết noăn hoàng cá bắt đầu ăn thức ăn bên ngoài là luân trùng Cladocera, trùng chỉ (Tubifex) cung quăng (Chironomus), ấu trùng côn trùng khác. 1 tháng tuổi cá chuyển sang ăn tạp, nghiêng về động vật, sau đó chuyển dần sang ăn thực vật. Trong ao nuôi, cá ăn được những loài thực vật mềm ở dưới nước và trên cạn, các phụ phẩm từ nhà bếp, sản phẩm ḷ mổ và phân động vật.
  • Sinh sản: Cá tai tượng thành thục lần đầu sau 2 năm. Cá nhỏ nhất tham gia sinh sản là 300-400 g. Cá đẻ có chất lượng tốt nhất từ 3 – 7 tuổi nặng 2-5 kg. Mùa vụ sinh sản, đẻ tập trung vào tháng 2-5, giảm đẻ từ tháng 6 trở đi. Tuy nhiên, nếu chăm sóc tốt, môi trường nước sạch, mật độ nuôi vừa phải, mùa sinh sản sẽ sớm hơn hay kéo dài hơn. Sức sinh sản 1 lần đẻ khoảng 3000-5000 trứng. Khoảng cách giữa hai lần đẻ là 2 tháng. Nếu ao nuôi có thức ăn đầy đủ, khoảng cách giữa hai lần đẻ là 25 ?40 ngày.
  • Sinh trưởng: sau 1 năm nuôi ở ao cá dài 15 cm, nặng 120 ? 450g; 2 năm dài 25cm nặng 450-680g; 3 năm dài trên 30cm nặng 2.400g; 4 năm nặng 3.800g. Ở ĐBSCL nuôi ở ao có thức ăn đủ, mật độ vừa phải sau 1 năm cá đạt 500-600 g/con.

II. Kỹ thuật nuôi:

Sản xuất giống bằng cách cho đẻ tự nhiên. Ở miền Nam, mùa vụ sinh sản từ tháng 3-10; 1 năm cá có thể đẻ 3-4 lần.

  1. Nuôi vỗ cá bố mẹ:
  • Diện tích ao: 100-500m2, nước sâu 0,8-1,2m. Cần cải tạo thật sạch để không c̣n cá tạp. Bón vôi: 5-10kg/100m2.
  • Phân biệt cá đực, cá cái: Cá đực: trên trán có khối u lớn, hàm dưới và môi dưới phát triển hơn con cái; cá cái: gốc vây ngực có màu đen.
  • Mật độ thả: 0,5-0,7kg/m2, tỷ lệ đực/cái là 1:3 hay 1/1. Thả thêm cá mè trắng để lọc sạch nước (cá mè trắng không ăn tranh mồi của cá tai tuợng).
  • Thức ăn: Cho ăn thức ăn xanh gồm rau, bèo? 30%, thức ăn tinh 70% (60% cám, ngô + 10% bột cá hay ruốc). Định kỳ bổ sung thêm premix và vitamin. Khẩu phần ăn bằng 3-5% trọng lượng thân/ngày.
  • Làm tổ: Dùng xơ dừa cho vào rọ để cá làm tổ đẻ trứng. Hàng ngày kiểm tra để biết thời gian cá đẻ. Khi nh́n thấy giọt dầu nổi trên mặt nước là cá đẻ xong, cá đực bảo vệ tổ thường xuyên. Ta cần làm động tác gạt nước để cấp oxy cho trứng.
  1. Ấp trứng:

Trứng cá tai tượng là trứng nổi, cá đẻ xong ta vớt tổ lên, gỡ trứng cho vào chậu, thau để ấp. Mật độ: 200 trứng/lít. Hàng ngày thay nước trong thau và vớt trứng bị hỏng. Sau 24-36 giờ ấp trứng nở thành cá bột. Sau 6-7 ngày cá tiêu hết noăn hoàng, cho cá ăn bằng ḷng đỏ trứng gà luộc bóp nhuyễn. Cá 10 ngày tuổi ăn được động vật phù du và ta chuyển sang ao ương. Trong quá tŕnh ấp cá dễ bị bệnh ngoại kư sinh, nhất là lúc trời lạnh.

  1. Ương từ cá bột lên cá giống:
  • Chuẩn bị ao: cá tai tượng có thể được ương ở ao hoặc ruộng, diện tích từ 500-5000m2. Mức nước: 0,4-1,2m. Cá c̣n nhỏ hoạt động chậm chạp, nên khâu cải tạo ao rất quan trọng: tát cạn, vét bùn đáy ao, bắt hết cá tạp cá dữ, lấp hang hố, diệt lươn, chạch bằng thuốc dipterex. Bón vôi: 5-10kg/100m2, quây lưới cao 1m xung quanh bờ ao. Khi cấp nước vào ao ta phải lọc bằng lưới thật kỹ. Tạo màu nước bằng cách bón phân để có nhiều động vật phù du 2-3 ngày trước khi thả cá.
  • Thả cá: Khi cá bột lặn xuống đáy chậu th́ có thể thả trực tiếp xuống ao. Mật độ ương 50-100 con/m2.
  • Chăm sóc quản lư: từ ngày1-15, thức ăn chủ yếu là trứng nước (Monina), bột đậu nành và bột cá, bón theo tỷ lệ 2 kg/100m2, cho ăn 2 ngày/lần. 
  • Cách cho ăn: cho thức ăn vào rổ hoặc sàn thức ăn để dễ kiểm soát. Từ ngày 15-25 cho ăn thức ăn tinh: 30% cám + 20% bột đậu nành + 40% bột cá. Từ ngày 45 trở đi: 40% cám + 20% bột đậu nành + 40% bột cá. Sau 15 ngày định kỳ thay nước ao.
  • Đối với ương trên ruộng: Vào mùa nắng rong nhớt hay phát triển mạnh nên phun thuốc sunfat đồng. Sau thời gian ương 30 ? 35 ngày cá đạt chiều dài thân cao nhất là 0,8-1,4 cm. Tỷ lệ sống trung b́nh: 30-60%.
  1. Phòng trị bệnh:

Trong quá trình ương tốt nhất là cho cá ăn đầy đủ và luôn giữ môi trường nước sạch. Nếu cá bị nấm thủy mi, sử dụng thuốc Malachite Green (loai thuoc nay da bi cam su dung) theo liều 0,05g/m3 hoặc sunfat đồng 5g/m3 cho vào ao. Nếu cá bị trùng mỏ neo ta dùng thuốc Dipterex liều 0,5-1g/m3 .

III. Nuôi cá thương phẩm:

  1. Chuẩn bị ao:
  • Nơi có nguồn nước tốt, dồi dào không bị ô nhiễm, có thể cung cấp suốt thời gian nuôi. Cải tạo ao; dọn sạch bùn, cây cỏ mục, lấp các hang cua mọi, tu sửa bờ ruộng có lưới chắc chắn, bờ cao hơn mực nước cao nhất 0,5m, chặt bỏ cây để không che quá 25% diện tích mặt nước.
  • Có thể sử dụng mương vườn, liếp rẫy có mặt nước từ 100 đến vài ngàn mét vuông để nuôi cá. Mức nước sâu hợp lư từ 1-2m. Sau khi đă vét bùn, bón vôi bột 10- 15kg/100m2 ao. Nếu c̣n cá tạp, dùng dây thuốc cá đập dập lấy nước, rải theo tỷ lệ 4kg/100m2 mặt nước, phơi khô 5-7 ngày, bón phân lợn, phân ḅ: 20-30 kg/100m2, phân gà: 10-15 kg/100 m2, rải đều ao. Cho nước vào ao khoảng 40cm, sau 1 tuần, khi nước có màu xanh đọt lá chuối non, cho thêm nước vào tới 0,8-1m.
  1. Thả cá và cho cá ăn:

a) Giống cá: Chọn cá đều cỡ khoẻ mạnh, không bị xây xát, bị dị tật hoặc mang bệnh. Mật độ nuôi: 3-10 con/m2; nếu thả ghép tai tượng với cá mè trắng, cá hường th́ mật độ 1 con/1m2 (để tận dụng thức ăn rơi văi và làm sạch môi trường nước).

b) Thức ăn cho cá: sau 1 tháng ương cá tai tượng lớn thành cá giống và chuyển dần sang ăn thực vật là chính, giai đoạn đầu ta cho ăn thực vật nhỏ như; bèo cám, hoa đậu lá cải, lá rau muống, lá ḿ (sắn). Cá lớn hơn ăn hầu hết các loại rau, thực vật thủy sinh, phế phẩm nhà bếp. Cá ăn rau sẽ lớn chậm (2-3 năm đạt trên 1 kg); nếu có thức ăn tinh kèm theo rau, cá sẽ lớn nhanh hơn (1 năm đạt trên 1 kg). Tỷ lệ cho ăn rau khoảng 2-5% trọng lượng cá. Ngoài ra ta c̣n thả rau xanh trên mặt nước cho cá ăn:

  • Thức ăn tinh (bột cá, đầu tôm, cá biển tươi, ruột ốc, cá con 30% + cám, xác đậu nành 30% + tấm, bắp 7% + bột lá g̣n 3%) + rau xanh 30%.
  • Thức ăn tinh (50% cám + 15% bột cá + 25% bánh dầu) và 10% rau muống.
  • Chế biến thức ăn: Rau muống, lá ḿ, rau lang thái nhỏ. Ốc, cá, cua nghiền nhỏ. Nấu cháo tấm với cá, cua, ốc, sau đó cho rau muống vào kết hợp với bột lá g̣n, xác đậu nành nấu riêng rồi trộn chung, để nguội trộn cám vừa đặt dính cho vào máng ép viên. 
  • Cho cá ăn: Thời gian đầu cá c̣n nhỏ dùng sàn cho cá ăn, ngày 2 lần. Khi cá lớn dần ta phân đàn, rải đều thức ăn để cá lớn nhỏ đều ăn được.
  1. Chăm sóc và quản lư cá nuôi:

Nếu trong thời gian nuôi mà cá lớn không đều ta kéo lưới, tuyển chọn cá lớn nuôi riêng để đạt cỡ thương phẩm, cá c̣n lại trong ao đều cỡ sẽ mạnh và lớn nhanh hơn. Cách 45 ngày ta tuyển chọn cá 1 lần.

  • Cá có thể ăn phân gà, phân lợn. Cần thay nước thường xuyên. Vứt bỏ rau xanh mà cá ăn dư, cho rau mới vào. Nước được thay hàng tuần, tối thiểu nửa tháng/lần, nước phải sạch, tốt, có màu xanh lá chuối non. Giữ mức nước ổn định ở ao nuôi từ 1,2-1,5m.
  • Hàng ngày kiểm tra hoạt động của cá để xử lư kịp thời, kiểm tra bọng bờ, chống trộm cá.
  1. Thu hoạch cá:

Chặn từng khúc mương hoặc từng phần ao, kéo lưới nhẹ nhàng, bắt cá bằng vợt, cho cá vào thùng chứa nước hay cho vào dèo (giai) chứa. Tuyệt đối không để cá bị khô.

Nguồn: SNN Cần Thơ

Mô hình nuôi cá tai tượng sinh sản trong mương vườn

Thị xã Cai Lậy (tỉnh Tiền Giang) là địa phương phát triển về nuôi thủy sản nước ngọt, với diện tích ương nuôi cá giống khoảng 350 ha, có nhiều đối tượng được bà con quan tâm nuôi như tai tượng, trê lai, diêu hồng, rô phi, cá sặc rằn, cá tra…Trong đó, cá tai tượng là một trong những đối tượng có nhiều lợi thế như: thịt ngon, dễ tiêu thụ, giá bán cao, nên cá tai tượng đang được bà con đầu tư nuôi từ khâu nuôi cá bố mẹ cho đẻ, đến ương cá giống, nuôi cá thịt.

Hiện số hộ nuôi cá tai tượng sinh sản ở Thị xã Cai Lậy khoảng 200 – 300 hộ, với đàn cá bố mẹ từ 15.000 – 18.000 con, sản lượng cá bột tai tượng hàng năm từ 35 – 40 triệu cá bột. Trong đó, khoảng 50% cá bột được bà con để lại ương thành cá giống, còn 50% bán cho người nuôi ở trong tỉnh và ngoài tỉnh. Nhờ đó, góp phần tăng thu nhập, giải quyết việc làm cho bà con nông dân… 

Mô hình nuôi cá tai tượng sinh sản được bà con nuôi chủ yếu ở các xã: Phú Qúy, Nhị Quí, Nhị Mỹ, Tân Bình, Long Khánh…, nhiều năm qua đã mang lại hiệu quả cao cho người dân, góp phần thay đổi diện mạo nông thôn. Điển hình như hộ anh Phạm Văn Tâm, (sinh năm 1974), ngụ tại ấp Phú Hưng, xã Phú Qúy.

Gia đình anh Tâm có 5 nhân khẩu, trong đó có 2 lao động chính, diện tích canh tác 9.000m2. Là một nông dân chí thú làm ăn, trước đây anh làm 3 vụ lúa mỗi năm, nhưng lãi không nhiều, đời sống còn nhiều khó khăn. Qua chương trình tập huấn và theo dõi tham quan những mô hình nông dân sản xuất giỏi tại địa phương, sau khi bàn bạc với gia đình, anh quyết định chuyển đổi 5.000m2 diện tích lúa, lên liếp trồng sầu riêng và thiết kế mương để nuôi cá tai tượng. Anh thiết kế 4 mương (rộng 3m, dài 120m, sâu 1,2 m), anh dùng lưới ngăn mỗi mương thành 4 ô, mỗi ô dài 30m; như vậy tổng cộng anh có 16 ô nuôi cá.

Trong mỗi ô anh thả tổng cộng 20 con cá bố mẹ tai tượng, trong đó 15 con cá cái và 5 con cá đực. Số cá bố mẹ thả tổng cộng là 320 con. Chi phí ban đầu từ mô hình gồm: Cá bố mẹ gần 500 kg, khoảng 30 triệu, với 240 con cá cái, mỗi năm đẻ gần 960 ổ trứng, số cá bột đạt khoảng 2,5 triệu con. Năm vừa qua, anh cho cá tai tượng đẻ, trừ đi chi phí anh thu lãi được 70 triệu đồng từ mô hình này.

Anh Tâm cho biết, nuôi cá tai tượng sinh sản phải được chuẩn bị cẩn thận theo các bước như sau:

  • Cải tạo mương: Vét sạch bùn, bón vôi liều lựợng 3 – 5 kg/100m2 mương, phơi mương 2 – 3 ngày, phải làm cẩn thận không để cá tạp, cá dữ còn lại trong mương, sau đó cấp nước đến độ sâu 1,2 m.
  • Chọn cá bố mẹ: Phải kỹ lưỡng, tuổi cá bố mẹ phải trên 2 năm tuổi, trọng lượng đạt từ 1,2 kg trở lên, không dị hình hay xay sát.
  • Thời gian nuôi vỗ: Từ tháng 10 – 11 âm lịch năm trước. Giai đọan đầu cho cá ăn thức ăn viên 26 – 28% đạm, với liều lượng 1 – 1,5% trọng lượng đàn, sau 2 tháng nuôi tích cực thì cá bắt đầu đẻ vào cuối tháng 12 âm lịch.
  • Làm ổ đẻ: Vật liệu cho cá đẻ được làm bằng xơ dừa; sử dụng những cây trúc để đan thành những giỏ hình nón, đường kính của miệng tổ dài khoảng 25cm, cắm tổ vào bờ để cố định sao cho miệng tổ thấp hơn mặt nước 20cm, cắm nghiêng xuống 15 – 20 độ so với mặt nước.
  • Cho cá đẻ: Cá thường đẻ vào thời điểm từ 16 – 18 giờ chiều. Khi quan sát thấy có giọt dầu nổi trước ổ hay có mùi tanh của trứng là cá đã đẻ, anh tiến hành thu trứng. Mỗi ngày anh thu được từ 4-5 ổ cá đẻ, mỗi ổ cá đẻ từ 2.000 – 6.000 trứng.
  • Ấp trứng: Sau khi thu trứng, đem trứng vào ấp trong thau. Hàng ngày anh thay nước và vớt trứng cá hỏng ra khỏi thau nhằm tránh ô nhiễm môi trường nước ấp và tránh lây lan nấm bệnh từ những trứng ung sang những trứng khỏe. Sau 3 ngày thì anh xuất bán cá bột, đầu vụ anh bán với giá 40 – 45 đồng/con cá bột.

Anh lưu ý, phải định kỳ cấp thêm nước mới vào mương cá bố mẹ để bù lại lượng nước bị thất thoát (khoảng 7 – 10 ngày/lần).

Khi cây sầu riêng 4 – 5 năm tuổi, anh chuyển cá bố mẹ sang mương khác vì cần lấy nước tưới cho sầu riêng, hơn nữa ao có nhiều bóng mát, sẽ ảnh hưởng tới sức sinh sản của cá. Khi sử dụng thuốc xịt sầu riêng, anh chỉ dùng thuốc sinh học không độc cho ao nuôi cá.

Toàn ấp Phú Hưng, xã Phú Qúy có gần 50 hộ chuyên nuôi cá tai tượng sinh sản, đã giúp bà con có cuộc sống ngày càng khấm khá hơn. Tuy nhiên, hiện nay, mô hình này có lúc cũng trầm lắng do cá tai tượng bị dịch bệnh thích bào tử trùng hay người dân còn gọi là bệnh “sùi bọt cua”, làm cho cá bố mẹ chết hàng loạt, đến nay chưa có thuốc đặc trị, người nuôi chỉ có biện pháp phòng bệnh như: cải tạo ao đúng kỹ thuật, chăm sóc cá bố mẹ tốt, khi cá bệnh phải trôn xác cá, không xả ra nguồn nước cá bệnh ra môi trường, có thể ngưng nuôi một thời gian là 6 tháng hoặc chuyển đối sang nuôi đối tượng khác. 

Đặng Tấn Bá – Trạm Khuyến nông Thị xã Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang, 19/11/2014

Mô hình nuôi cá tai tượng an toàn sinh học

Hiện nay, cá tai tượng là một trong những loài thủy sản mang lại hiệu quả cao cho nông dân. Tuy nhiên, thời gian qua, người nuôi cá tai tượng chưa chú ý nhiều đến chất lượng sản phẩm và môi trường nuôi, nên sản phẩm tạo ra chưa đáp ứng được yêu cầu của thị trường. Trước tình hình đó, nuôi cá tai tượng an toàn sinh học được xem là mô hình sản xuất đáp ứng được yêu cầu người tiêu dùng, mang lại hiệu quả cao và bền vững.

Hoàn thiện kỹ thuật cho người nuôi cá

Những năm trước đây, nông dân chủ yếu sử dụng phương pháp truyền thống để nuôi cá tai tượng như: Cho ăn rau xanh, ít sử dụng thức ăn công nghiệp… nên thời gian nuôi kéo dài đến 2-3 năm mới thu hoạch, chất thải trong nuôi cá rất nhiều mà không có biện pháp xử lý. Bên cạnh đó, một số nông dân nuôi cá không tuân thủ nguyên tắc sử dụng kháng sinh đã ảnh hưởng rất lớn đến nghề nuôi thủy sản nói chung, trong đó có cá tai tượng.

Cá tai tượng đã được nuôi tập trung chủ yếu ở một số xã của huyện Cai Lậy, Châu Thành, Chợ Gạo (Tiền Giang), trong đó xã Phú Kiết là cái nôi của nghề nuôi cá tai tượng thịt và là nơi nuôi cá tai tượng nhiều nhất của tỉnh. Việc nuôi cá tai tượng không đòi hỏi diện tích ao lớn, nên rất phù hợp với điều kiện thực tế của địa phương và rất thuận lợi thực hiện mô hình nuôi cá tai tượng an toàn sinh học.

Ông Đỗ Hiếu Liêm, Chi hội trưởng Chi hội Nghề cá xã Phú Kiết, huyện Chợ Gạo, tỉnh Tiền Giang cho biết: “Trong những năm qua, nông dân nuôi cá tai tượng đã được cán bộ kỹ thuật chuyển giao khoa học – kỹ thuật về nuôi thủy sản an toàn sinh học, nhưng chúng tôi vẫn chưa áp dụng đầy đủ quy trình vào thực tế vì sợ không hiệu quả”. Từ những thực tế đó, nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm và bảo vệ môi trường, giữa năm 2011, Trung tâm Khuyến nông tỉnh đã triển khai thực hiện dự án “Nuôi cá tai tượng an toàn sinh học” tại ấp Phú Thạnh B và ấp Phú Khương B, xã Phú Kiết với quy mô 8 hộ tham gia, tổng diện tích thực hiện 2.400m2.

Các biện pháp kỹ thuật đã được cán bộ khuyến nông hướng dẫn áp dụng mang lại hiệu quả cao, nổi bật nhất là việc đầu tư, chăm sóc quản lý ao nuôi cá tai tượng hiệu quả hơn trước rất nhiều. Cá tai tượng được thả nuôi mật độ vừa phải với 7 con/m2 và ghép cá sặc rằn 3 con/m2. Đặc biệt, khâu cải tạo, vét bùn, bón vôi, phơi ao phải thực hiện trên 10 ngày mới tiến hành lấy nước vào ao rồi xử lý nước bằng hóa chất và dùng chế phẩm sinh học để ổn định môi trường nước. Đây là khâu mà lâu nay nông dân nuôi cá tai tượng chưa áp dụng trước đây nên khi thực hiện mô hình đã giúp tỷ lệ cá sống cao hơn so với trước.

Trong quá trình nuôi, nông dân định kỳ sử dụng hóa chất và chế phẩm sinh học để xử lý môi trường nước. Bên cạnh đó, sử dụng thức ăn công nghiệp chiếm 50-70% khẩu phần thức ăn, còn lại vẫn là rau muống, rau lang cắt nhuyễn, bèo cám, ngò gai. Trong quá trình nuôi, đặc biệt là 6 tháng đầu sau khi thả giống, định kỳ 1-2 tuần đo các yếu tố môi trường 1 lần để có biện pháp xử lý kịp thời các yếu tố thủy lý hóa như: pH, Oxy, NH3 và định kỳ tùy theo màu nước xử lý nước bằng vôi, muối hoặc BKC.

Tạo ra sản phẩm chất lượng cao

Theo các hộ nuôi cá tai tượng theo mô hình an toàn sinh học ở ấp Phú Thạnh B, nhờ thực hiện tốt các yêu cầu của quy trình kỹ thuật nuôi an toàn sinh học, nên kết quả nuôi cá đạt được rất khả quan. Trong suốt quá trình nuôi cá ít bệnh, ngoại trừ một số ao do mưa nhiều, ao sát kênh bị rò rỉ nước vào ao thường xuyên làm môi trường nước trong ao không ổn định.

Trước đây, do không xử lý môi trường nước nên khi đem giống về nuôi, nhất là trong 3 tháng đầu cá hao tụt rất nhiều, có ao cá chết hết. Mặt khác, do ít đầu tư thức ăn công nghiệp nên cá chậm lớn, thời gian nuôi kéo dài. Nhìn chung, khi thực hiện mô hình nuôi cá tai tượng an toàn sinh học cho thấy cá phát triển tốt hơn so với trước đây tự nuôi, vì thế lợi nhuận cao hơn. Cụ thể, qua 18 tháng nuôi cá đạt cỡ trung bình 600-750 g/con, cá biệt có 1 hộ cá đạt trung bình 860 g/con; tỷ lệ cá sống trung bình 80%. Sau khi trừ chi phí, tính ra nông dân thực hiện mô hình có lợi nhuận từ 20-40 triệu đồng/công (1.000m2) tùy theo giá cá tại mỗi thời điểm.

Qua mô hình cho thấy, tỷ lệ sống cá nuôi đã được nâng lên, rút ngắn thời gian nuôi, hướng dẫn nông dân nuôi cá biết cách ghi chép sổ nhật ký đầy đủ trong quá trình nuôi và hạch toán chính xác kết quả nuôi, sử dụng các loại hóa chất cho phép. Đã thay đổi tập quán sản xuất của nông dân vì nuôi theo an toàn sinh học sẽ giảm việc sử dụng thuốc kháng sinh phòng trị bệnh cho cá nuôi, đặc biệt hướng dẫn nông dân sử dụng các loại chế phẩm sinh học định kỳ, nhằm đảm bảo sức khỏe cho người sản xuất, người tiêu dùng và môi trường theo hướng ổn định bền vững.

Theo ông Đỗ Hiếu Liêm, mô hình nuôi cá tai tượng an toàn sinh học phù hợp với điều kiện thực tế tại nhiều địa phương, là cơ sở để nhân rộng ra nhiều người cùng thực hiện để tạo ra sản phẩm an toàn vệ sinh thực phẩm, đáp ứng yêu cầu về chất lượng và số lượng cho thị trường. Vừa qua, một số công ty chế biến thủy sản ở TP. Hồ Chí Minh đến đặt hàng Chi hội Nghề cá xã Phú Kiết một lượng lớn cá tai tượng nuôi theo mô hình an toàn sinh học, nhưng không có đủ số lượng lớn cung cấp. Ông Liêm đề nghị thời gian tới, các ban ngành, đoàn thể, chính quyền các cấp cần tạo điều kiện, xúc tiến thành lập các tổ hợp tác sản xuất giống có chất lượng cao để cung cấp giống tốt cho người nuôi. Đồng thời, thành lập tổ liên kết sản xuất trong Chi hội Nghề cá để đẩy mạnh việc tiêu thụ cá thương phẩm…

Thành Công – Tiền Giang, 04/06/2014

Các tin có liên quan