Kỹ thuật nuôi cá lăng, cá lăng nha, cá lăng vàng, cá lăng chấm

Kỹ thuật nuôi cá lăng nha thương phẩm

Lăng nha (Mystus wyckiioides) là loài cá nước ngọt, thịt trắng chắc, không xương dăm, mùi vị thơm ngon, giá trị thương phẩm cao. Trước đây, loại cá này chủ yếu được đánh bắt, khai thác từ tự nhiên. Tháng 7/2006, Trung tâm Khuyến ngư và Giống thủy sản An Giang đã sản xuất giống cá lăng nha thành công với sự trợ giúp của Khoa Thủy sản (Trường Đại học Nông – lâm TP.Hồ Chí Minh). Xin giới thiệu cùng bà con kỹ thuật nuôi cá lăng nha thương phẩm.

Điều kiện ao, bè nuôi

Để nuôi cá lăng nha đạt hiệu quả, có thể áp dụng hình thức nuôi bán thâm canh trong ao hoặc trong bè. Tuy nhiên, nuôi trong bè cá lớn nhanh hơn.

Ao nuôi rộng 1.000m2 trở lên, sâu 1,5 – 2m. Độ che phủ mặt nước không quá 30%. Lớp bùn dày 10 – 15cm, có thể chủ động cấp – thoát nước.

Nếu nuôi bè, bè phải có thể tích 10m3 trở lên, đặt ở nơi có dòng chảy vừa phải.

Nguồn nước dùng để nuôi cá lăng nha phải đảm bảo các thông số: Độ pH từ 6 – 8 (tốt nhất 6,5 – 7,5); ôxy hòa tan trên 3mg/l; độ trong 30 – 40cm; độ mặn 0 – 50/00, hàm lượng NH3 dưới 0,01mg/l.

Chuẩn bị ao, bè

Việc chuẩn bị ao, bè có ý nghĩa quyết định đến kết quả nuôi. Nếu tẩy trùng ao, bè tốt thì mầm bệnh khó có cơ hội phát triển.

Tẩy dọn ao: Sau khi tháo cạn nước, dùng vôi nông nghiệp (CaCO3) rải đều khắp đáy ao với lượng 10 – 15kg/100m2.

Ngay sau khi bón vôi, sử dụng sản phẩm chuyên dùng để hấp thụ khí độc hoặc chế phẩm sinh học Environ AC của Công ty Vĩnh Thịnh xử lý ô nhiễm nền đáy ao với liều 1 – 1,5kg/1000m3 nước để thúc đẩy việc phân huỷ chất hữu cơ và khử khí độc.

Phơi nắng đáy ao 1 – 2 ngày rồi khử trùng ao một lần nữa bằng một trong các sản phẩm BKC, liều 0,7 – 1lít/1000m3 hoặc Sanmolt F, liều 1 – 1,5 lít/1000m3. Không nên bón lót ao bằng phân chuồng.

Đối với bè, kiểm tra, gia cố bè thật kỹ trước khi thả cá. Dùng BKS hoặc Sanmolt F phun vào bè để diệt mầm bệnh. Đặt bè nơi ít sóng gió, dòng chảy vừa phải, thuận lợi trong việc vận chuyển cá, thức ăn.

Thả cá giống

Tiêu chuẩn: Cá không mất nhớt, đuôi và râu không bạc màu; cỡ đồng đều.

Mật độ: Nếu nuôi trong ao bán thâm canh (nuôi ghép): 4-5 con/m2 (trong đó cá lăng nha chiếm 20-30% tổng số cá thả). Thâm canh (nuôi đơn): 6-8 con/m2. Ngoài ra, cần thả thêm 3-5% cá rô phi thường để làm thức ăn cho cá. Nếu nuôi trong bè, mật độ 60-70 con/m3.

Thời gian thả: Tốt nhất vào buổi sáng (8-11 giờ).

Phòng bệnh cho cá bằng cách sát trùng (tắm cá) trước khi thả xuống ao, bè bằng muối ăn (1 muỗng canh pha trong 1 lít nước) hoặc BKS, Sanmolt F theo liều hướng dẫn.

Thức ăn

Có thể cho cá ăn bằng một trong các loại sau: cá tạp, cắt khúc vừa cỡ miệng. Thức ăn tự chế 50% cám + 50% cá. Thức ăn viên độ đạm ít nhất 35%.

Cho ăn 3 lần/ngày (sáng, chiều và tối). Cữ tối chiếm 40-50% tổng lượng thức ăn trong ngày.

Nên bổ sung chất bổ vào thức ăn để giúp cá tăng sức đề kháng, tiêu hoá tốt, lớn nhanh hơn như: Các loại Vitamin C; chế phẩm vi sinh vật, men tiêu hoá (Aqualact 1g/kg thức ăn); các sản phẩm chứa axít amin, sorbitol (Hepatofish 2,5g/kg thức ăn); khoáng vi lượng (Vitatech F liều lượng 1 – 2g/kg thức ăn).

Chăm sóc

Nếu nuôi ao, thường xuyên theo dõi hoạt động của cá, nhất là vào sáng sớm để xử lý kịp thời. Định kỳ (15 – 20 ngày) thay nước ao một lần.

Từ tháng thứ 2 trở đi, định kỳ 10 -15 ngày tiến hành khử trùng nước và khử khí độc ở đáy ao bằng BKC liều 0, 5 lít/1.000m3 nước hoặc Sanmolt F liều 0, 7 – 1 lít/1.000m3.

Trong điều kiện nuôi bè, thường xuyên theo dõi hoạt động ăn mồi của cá, nhất là vào lúc nước đứng, nước đổ để xử lý kịp thời.

Phòng bệnh cho cá bằng cách: Treo túi vôi ở đầu bè. 15 ngày khử trùng bè 1 lần bằng BKC (phun trực tiếp xuống bè).

Hiện, Trung tâm Khuyến ngư và Giống thủy sản An Giang có thể cung cấp con giống và tư vấn kỹ thuật cho những hộ có nhu cầu. 

Trần Thế Tường (KTNN, 22/9/2009)

Nuôi cá lăng nha – ngư dân đầu nguồn phát lên

Nuôi cá lăng nha đuôi đỏ trong lồng bè là một mô hình hiệu quả, đem lại thu nhập cao cho ngư dân vùng sông nước đầu nguồn huyện An Phú. Cá lăng nha đuôi đỏ đặc sản mở ra triển vọng mới trong nghề nuôi thủy sản ở An Giang…

Nằm cặp sông Bình Di thuộc thị trấn Long Bình, huyện An Phú, giáp ranh với huyện Kỏ Thum, tỉnh Kandal (Campuchia), làng bè nuôi cá lăng nha với hàng trăm bè nuôi lớn nhỏ liền kề trông giống hệt như làng bè Châu Đốc. Một cán bộ địa phương dẫn chúng tôi đến bè cá của chú Nguyễn Văn Vàng (Tư Vàng), ngụ ấp Tân Khánh, thị trấn Long Bình, khi chú đang loay hoay chạy máy xay ép gần 200 kg cá mồi chuẩn bị cho cá lăng nha ăn. Tiếp chuyện chúng tôi, chú Tư Vàng tỏ ra rất vui vì năm nay 2 bè cá lăng nha của chú đạt sản lượng cao và trúng giá. Chỉ tay về thau mồi, chú Tư Vàng khoe: “Mồi này xay để vỗ béo cho bè thứ hai, cá cũng lớn hết rồi, trung bình khoảng 1 kg/con, hơn tháng nữa tôi sẽ kêu lái bán. Còn hôm qua thương lái đã chạy ghe vô cân bè thứ nhất. Với 5 tấn cá, giá bán 60.000 đồng/kg, sau khi trừ chi phí, tôi bỏ túi ngót nghét trên 120 triệu đồng”.

Chú Tư Vàng nhớ lại khoảng năm 1999, nhà không ruộng rẫy nhưng chú mạnh dạn vay nóng bên ngoài đầu tư đóng một cái bè, ngang 4m, dài 8 m rồi mua 60.000 con cá tra giống về thả. Lúc đó môi trường nước còn trong lành lắm nên cá lớn nhanh như thổi, nhưng do giá cả thị trường “tuột dốc” còn khoảng 8.000 đồng/kg, chú lỗ đến sạt nghiệp. Nghỉ nuôi một thời gian, chú lại tiếp tục bắt tay vào nuôi cá ba sa, rồi nuôi cá lóc bông nhưng kết quả cũng không khả quan. Năm 2006, trong một lần sang thăm người thân bên tỉnh Kandal (Campuchia), chú Tư Vàng thấy nhiều hộ dân ở đây nuôi cá lăng nha đuôi đỏ trong lồng bè, trọng lượng đạt gần 2 kg/con. Chú liền tìm hiểu kỹ thuật nuôi và mua 5.000 con giống về nuôi với giá 4.800 đồng/con (cỡ 2,5 phân/con). Sau gần 12 tháng bỏ công chăm sóc, bè cá đạt sản lượng 6 tấn, chú xuất bán với giá 60.000 đồng/kg, sau khi trừ tất cả chi phí, chú nắm trong tay cả trăm triệu đồng. Chú Tư Vàng bộc bạch: “Ban đầu tôi làm liều bắt cá lăng nha giống về nuôi chứ chưa biết bán được hay không. Vì đây là loại cá ở tỉnh nhà chưa ai nuôi, chỉ tiêu thụ cá ở chợ hoặc quán ăn, nhà hàng. Nhưng nhờ nguồn cung khan hiếm mà giá bán cá rất cao…”. Với bè cá thứ hai sắp xuất bán, chú ước tính mức lời tổng cộng của hai bè cá khoảng 300 triệu đồng.

Thấy chú Tư Vàng nuôi cá lăng nha có hiệu quả, nhiều hộ trong xóm đẩy mạnh đầu tư vào việc nuôi cá lăng nha và cũng có thu nhập đáng kể. Anh Huỳnh Văn Tốt trước đây chỉ biết bám vào ruộng đồng với trên 3 công đất toàn làm lúa nhưng đời sống vẫn khó khăn. Nhiều lần đến bè cá của chú Tư Vàng chơi, anh Tốt học hỏi cách nuôi và mạnh dạn đầu tư mua gỗ đóng 2 bè khoảng 24m2, rồi mua 10.000 con giống cá lăng nha về thả. Anh Tốt nhẩm tính: “Chi phí đầu tư nuôi cá lăng nha thấp hơn so với nuôi cá tra nhiều lần. Cá lăng nha ăn tạp nên nguồn thức ăn cũng dễ tìm, chủ yếu là cá biển hoặc cá linh mùa nước nổi. Trung bình cho ăn khoảng 6 kg mồi, cá đạt trọng lượng trên 1 kg. Nếu tính 1 kg mồi giá 5.000 đồng/kg trong khi cá lăng nha đạt trọng lượng 1 kg bán với giá 60.000 đồng/kg, xem như một lời một. Loại cá này thích hợp với môi trường nước chảy nên phải nuôi trong lồng bè cá mới mau lớn. Ngoài ra, cá còn có đặc điểm là ít bệnh, nếu nuôi hết cỡ, cá đạt trọng lượng từ 3-4kg/con…”. Hiện nay, hai bè của anh Tốt cá đạt trọng lượng khoảng hơn 1kg/con. Dự kiến trong tháng tới anh cho xuất bán 2 bè khoảng 10 tấn cá này, sau khi trừ tất cả chi phí, anh còn lời khoảng 250 triệu đồng. Hiện nay, mô hình nuôi cá lăng nha đang trở thành thế mạnh đặc thù của vùng đầu nguồn huyện An Phú. Toàn huyện có khoảng 30 hộ nuôi cá lăng nha trong lồng bè, tập trung chủ yếu ven sông Bình Di, trong đó có trên 10 hộ nuôi tập trung, còn lại là những hộ nuôi tự phát. Tuy nhiên, để nghề nuôi cá lăng nha không bị rơi vào cảnh khủng hoảng thừa rồi lao đao như con cá tra, cá ba sa, bà con nơi đây rất cần chính quyền địa phương và ngành chức năng sớm quy hoạch vùng nuôi hợp lý. Qua đó, hỗ trợ vốn, kỹ thuật, tổ chức đầu ra ổn định, tránh tình trạng thương lái ép giá người nuôi, để bà con an tâm phát triển nghề mới.

Trao đổi với chúng tôi về vấn đề này, bà Trương Thị Hoa, Phó Chủ tịch Hội Nông dân huyện An Phú, cho biết: Vài năm gần đây, mô hình nuôi cá lăng nha đuôi đỏ trong lồng bè được xem là mô hình mới có hiệu quả cao của bà con nơi đây. Cái khó của người nuôi hiện nay là đầu ra con cá lăng nha chưa ổn định, thương lái thường xuyên ép giá, do trên địa bàn huyện chỉ có duy nhất một thương lái thu mua cá lăng nha. Vì vậy, chúng tôi đã khuyến cáo người dân cần tính toán kỹ, không phát triển diện tích nuôi một cách tự phát trong khi đầu ra vẫn còn hẹp…

LƯU MINH (Báo Cần Thơ, 24/04/2009)

Cách nuôi cá lăng thương phẩm hiệu quả cao

ThS. Ngô Văn Ngọc (Khoa Thủy sản, Đại học Nông Lâm TP. HCM) cho sinh sản nhân tạo thành công các giống cá lăng quý hiếm, và sản xuất hàng loạt cá giống cung cấp cho người dân. Công nghệ này cũng được chuyển giao cho nhiều địa phương sản xuất cá giống thành công, để nuôi thành cá lăng thương phẩm hiệu quả cao.

Cách nuôi thương phẩm cá lăng nha (lăng đuôi đỏ) và cá lăng hầm:

Cá lăng nha, lăng hầm có thể nuôi theo hai hình thức: thâm canh hoặc bán thâm canh (ao đất). Trong nuôi thâm canh (nuôi đơn), có thể nuôi trong ao đất hoặc nuôi trong bè. Thời gian nuôi cá lăng nha, lăng hầm từ 1,5 – 2 năm. Năm đầu tiên cá đạt trọng lượng 0,7 – 1kg/con. Năm thứ hai cá đạt 2-2,5kg/con.

Chuẩn bị ao, bè: Ao có diện tích trên 1000 m vuông, độ sâu mực nước 1,2 – 2m. Tẩy ao bằng vôi bột thật kỹ: 10 – 15kg vôi/ 100 m vuông. Phơi nắng 1-2 ngày rồi lọc nước cho vào ao. Thả bè thì kiểm tra bè thật kỹ trước khi thả cá nuôi.

Thả cá: Chọn cá khỏe mạnh, không gãy đuôi, cỡ đồng đều, chiều dài 4-5cm. Mật độ thả ao: Nuôi thâm canh: 8 – 10con/m vuông (ao chủ động nước). Nuôi thâm canh cũng nên thả thêm khoảng 3-5% cá rô phi thường (không cần cá đơn tính đực). Nuôi bán thâm canh: 4-5 con/m vuông (ao chủ động nước). Nuôi chung với các loài cá khác, có thể theo tỉ lệ: Cá lăng nhà 20 – 30% tổng đàn, cá khác 70-80% (mè, trôi, trắm, chép, rô phi …) Mật độ nuôi bè 60 -80con/ m khối (cỡ cá lớn hơn mắt lưới bè). Thời điểm thả cá lúc nước mát.

Cho cá ăn: Nuôi ao và nuôi bè cho ăn giống nhau và lượng thức ăn phải điều chỉnh theo khả năng ăn của cá. Cho cá ăn như sau:

Ba tháng đầu: Thức ăn tự chế gồm: cá tạp tươi: 60-70% + cám gạo hoặc thức ăn viên 30 – 40% + vitamin C: 1mg/kg thức ăn. Trộn thật đều rồi vo thành viên bỏ vào sàn chìm trong nước để cá ăn.

Khẩu phần: 7-10% tổng trọng lượng cá. Ngày cho ăn 3 lần, cữ tối chiếm khoảng 40 – 50% tổng lượng thức ăn trong ngày. Sau ba tháng đầu, thay đổi thành phần thức ăn: Cá tạp tuơi 50% + cám gạo hoặc thức ăn viên 50% + vitamin C: 1mg/kg thức ăn. Trộn thật đều rồi vo thành viên bỏ vào sàn chìm trong nước để cá ăn.. Ngày cho ăn 3 lần, cữ tối chiếm khoảng 40 – 50% tổng lượng thức ăn trong ngày.

Khi cá đạt chiều dài khoảng 30cm trở lên có thể cho cá ăn bằng một trong hai loại thức ăn sau:

Thức ăn tự chế gồm: Cá tạp tuơi 50% + cám gạo hoặc thức ăn viên 50% + vitamin C: 1mg/kg thức ăn. Trộn thật đều rồi vo thành viên bỏ vào sàn chìm trong nước để cá ăn.. Khẩu phần ăn 3-4% tổng trọng lượng cá. Ngày cho ăn 3 lần, cữ tối chiếm khoảng 40 – 50% tổng lượng thức ăn trong ngày.

Thức ăn viên (độ đạm trên 30%): Khẩu phần ăn: 2-3% ng trọng lượng cá.Ngày cho ăn 3 lần, cữ tối chiếm khoảng 40 – 50% tổng lượng thức ăn trong ngày. Cá lăng nha thích ăn chìm hơn ăn nổi nên muốn sử dụng thức ăn viên phải tập cho cá quen dần rồi mới thay toàn bộ thức ăn tự chế.

Chăm sóc: Đối với ao, định kỳ 15-20 ngày thay nước một lần, mỗi lần khoảng 30% lượng nước cũ. Định kỳ 15 ngày/lần khử trùng ao nuôi bằng vôi bột (3-5kg/100 m khối nước) hoặc BKC hoặc formol (liều lượng theo hướng dẫn). Đối với bè, treo túi vôi ở đầu bè để khử trùng nước hoặc phun BKC hoặc ormol (liều lượng theo hướng dẫn).

ANH ĐỨC, Thủy sản ĐH Nông Lâm TP. HCM – KHPT, 2/06/2006

Nuôi cá lăng nha trong lồng bè

Cá lăng nha có tên khoa học là Mystus Wyckiioides, là loài cá nước ngọt, sống nhiều ở các nước châu Á, đặc biệt là các nước thuộc vùng châu thổ sông Mê Kông.

Ở nước ta cá lăng nha thích hợp với khu vực ĐBSCL, nơi được hưởng nguồn nước ngọt của sông Tiền và sông Hậu. Cá lăng nha có thịt trắng chắc, ít xương dăm, mùi vị thơm ngon. Hiện nay cá lăng nha thương phẩm có giá từ 120.000-150.000 đ/kg.

Trước đây loài cá này chỉ được đánh bắt trong tự nhiên. Hiện nay, Trung tâm giống thủy sản An Giang đã cho sinh sản thành công nhân tạo cá lăng nha, vì vậy nguồn giống nuôi chủ yếu là từ sinh sản nhân tạo.

Môi trường nước thích hợp cho cá lăng là: pH từ 6-8 (thích hợp nhất là 6,5-7,5), ô xy hòa tan trên 3 mg/lít, độ mặn từ 0-50%o, hàm lượng NH3 dưới 0,01 mg/lít. Cá lăng nha có thể nuôi trong ao, trong lồng bè. Chúng tôi xin giới thiệu kinh nghiệm nuôi cá lăng nha trong lồng bè của một số người nuôi cá thành công.

  1. Làm lồng nuôi cá: Tuỳ theo khả năng kinh tế của mỗi người mà có thể làm lồng có kích thước to hoặc nhỏ khác nhau, thể tích tối thiểu của bè là 10m3, độ sâu mực nước trong lồng phải đạt 2m. Lồng cần có mái che để che mát cho bè. Dùng bó tre hoặc thùng phuy làm phao để giảm độ chao lắc của bè, nên đặt lồng ở nơi có nước chảy vừa phải, không quá mạnh. Phía dưới của bè cần đổ một lớp đất sét mềm khoảng 10-15 cm để cho cá chui rúc khi động, đất sét được khử trùng bằng vôi và muối, liều lượng là 10kg đất trộn với 100-150gr muối và 50-100gr vôi bột.
  2. Cá giống: Cần biết rõ nguồn cá giống. Nên mua cá giống ở những nơi bán có uy tín. Cá giống tốt là cá không mất nhớt, đuôi và râu không bạc màu, đồng cỡ, cá bơi lội khỏe, cỡ cá thả khoảng 5-7cm, trọng lượng 30 con/kg.
  3. Chăm sóc: Cần làm sàn ăn cho cá, cách làm này sẽ quản lý được lượng thức ăn và nắm được sức tăng trọng của cá. Liều lượng mồi cho ăn hằng ngày bằng 5-7% trọng lượng cơ thể cá. Thức ăn của cá là cá tạp xay nhỏ hoặc cắt khúc vừa miệng cho cá ăn. Thức ăn tự chế gồm 50% cám + 50% cá tạp xay nhỏ, ép thành viên cho cá ăn. Cần cho cá ăn thêm thức ăn công nghiệp để bổ sung hàm lượng đạm. Một ngày cho cá ăn 3 lần vào lúc sáng, chiều và tối. Lượng thức ăn buổi tối khoảng 40-50% tổng lượng thức ăn trong ngày. Trong quá trình cho ăn cần quan sát lượng mồi thừa thiếu trong sàn mà điều chỉnh tăng hay giảm lượng thức ăn cho mỗi ngày. Cần đưa ra khỏi bè cá thức ăn còn dư để tránh ô nhiễm môi trường nuôi cá. Đầu mùa dịch bệnh, khoảng tháng 10, 11 cần thêm vào thức ăn vitamin C với lượng 5 mg/100 kg cá.
  4. Phòng và trị bệnh: Thường xuyên kiểm tra, gia cố bè thật chắc trước và sau khi thả cá. Dùng BKS hoặc Sanmolt F phun vào bè để diệt mầm bệnh. Đặt bè nơi ít sóng gió, tốc độ nước chảy nhẹ, thuận lợi cho việc vận chuyển cá và thức ăn. Trước khi thả cá cần tắm cho cá bằng dung dịch muối ăn 2-3%o. Thường xuyên theo dõi hoạt động ăn của cá, nhất là lúc nước đứng để có biện pháp xử lý kịp thời. Phòng bệnh bằng cách treo các túi vôi ở đầu bè, khoảng 15-20 ngày phun khử trùng bè một lần bằng BKS (phun trực tiếp xuống bè).

KS Phương Thanh, NNVN, 24/10/2008

Kỹ thuật nuôi cá lăng nha thương phẩm trong lồng trên hồ chứa thủy lợi tại Bình Định

Cá lăng nha (Hemibagrus wyckioides, Fang & Chaux, 1949) là loài cá nước ngọt phân bố ở châu Á, đặc biệt là các nước Việt Nam, Lào, Campuchia và Thái Lan. Ở Việt Nam, cá lăng nha phân bố nhiều ở Đông Nam Bộ và đồng bằng sông Cửu Long.

Đây là loài có giá trị kinh tế cao, thịt cá trắng, dai, giòn và có hương vị đặc trưng, là nguồn thực phẩm ưa thích của người dân ở các quốc gia thuộc khu vực Đông Nam Á. Bình Định với lợi thế nhiều hồ chứa lớn rất thích hợp cho việc phát triển loài nuôi mới này.

  1. Thiết kế lồng bè

1.1. Khung lồng

Lồng có dạng khối hình hộp chữ nhật có kích thước 24 m3 (4 x 3 x 2 m) hoặc 40 m3 (5 x 4 x 2 m). Khung lồng là phần kiên cố nhất, giữ cho lồng có hình dạng cố định và chống chịu với sóng nước. Khung lồng làm bằng gỗ, các thanh gỗ có kích cỡ 5 x 10 cm, dài 3 – 5 m được liên kết với nhau.

1.2. Lồng nuôi

Lồng được làm bằng gỗ, tre hoặc lưới đảm bảo yêu cầu dễ vệ sinh, dễ khử trùng và không gây ô nhiễm cho môi trường cá nuôi.

  • Lồng tre hoặc gỗ (24 m3): Kích thước lồng làm bằng tre hoặc gỗ: 4 x 3 x 2,5 m; dung tích ngập nước 4 x 3 x 2 m (24 m3). Các mặt lồng nuôi được ghép kín bằng các thanh gỗ hoặc các thanh tre (rộng 2 – 3 cm) và cách nhau 1 – 1,5 cm. Đóng các thanh tre hoặc gỗ theo chiều đứng của lồng. Trên lồng có 1 ô cửa có nắp đậy để cho ăn và theo dõi hoạt động của cá.
  • Lồng lưới (40 m3): Lồng làm bằng lưới, hình hộp lập phương hoặc hình chữ nhật, có 01 mặt đáy và 04 mặt xung quanh, mặt để hở gọi là miệng lồng.Kích thước lồng lưới: 5 x 4 x 2,5 m, dung tích ngập nước 40 m3 (5 x 4 x 2 m).Lưới làm lồng là loại cước sợi PE 380 D1/8 dệt không gút để mắt lưới có kích cỡ (2a) = 15 – 18 mm, có chiều dài, rộng bằng khung ô nuôi, chiều cao 2,5 – 3 m.Cố định lồng bằng dây giềng và neo.Áp lớp lưới ruồi vào mặt trong của lồng nuôi. Chiều cao lớp lưới ruồi 50 – 60 cm, cao hơn mực nước trong lồng 20 – 30 cm.

Hệ thống lồng nuôi tại hồ Định Bình – huyện Vĩnh Thạnh

1.3. Hệ thống phao

Các lồng được giữ nổi bằng hệ thống phao làm bằng thùng phuy sắt hoặc nhựa (60 x 90 cm) và được liên kết với khung lồng bằng dây thép, dùng khoảng 8 thùng cho một lồng nuôi. Một bè nuôi có thể có nhiều lồng nuôi và được cố định bằng hệ thống dây neo, đường kính dây neo khoảng 2 – 3 cm.

  1. Lựa chọn địa điểm nuôi
  • Địa điểm đặt lồng nuôi phải có nguồn nước sạch, không bị ô nhiễm bởi nước thải sinh hoạt, chất thải công nghiệp.
  • Đặt bè nuôi thuận lợi cho việc vận chuyển thức ăn và cá giống.
  • Nơi đặt lồng nên có dòng nước chảy nhẹ (lưu tốc nước 0,2 – 0,5 m/s), tránh những nơi nước chảy quá mạnh.
  • Môi trường nuôi phải đảm bảo các yếu tố sau: pH: 6,0 – 8,0; tốt nhất là từ 6,5 – 7,5; Oxy hòa tan > 5 mg/lít; NH3 < 0,01 mg/lít; độ trong 50 – 80 cm.
  • Chọn nơi thông thoáng, không nên nuôi tại các điểm cuối của eo ngách. Nơi đặt lồng nuôi phải có độ sâu lớn hơn 4 m tại thời điểm mực nước hồ xuống thấp nhất.
  1. Chọn giống
  • Cá giống khỏe mạnh, không dị hình, không xây xát, không bị mất nhớt, kích cỡ đồng đều.
  • Cá bơi lội linh hoạt, nhanh nhẹn, tập trung theo đàn.
  • Cá lăng nha giống có đuôi và râu không bị bạc màu.
  • Kích cỡ giống thả: 50 g/con.
  • Mật độ cá thả: 60 con/m3.
  1. Mùa vụ thả giống
  • Có thể thả giống bất kỳ thời điểm nào trong năm, tốt nhất nên thả giống vào tháng 3 – 4 dương lịch. Không thả giống vào thời điểm bất lợi như mưa gió, áp thấp nhiệt đới,…
  • Thả giống vào lúc trời mát, tốt nhất là vào lúc sáng sớm. Trước khi thả giống nên ngâm bao cá trong nước khoảng 15 phút, sau đó thả cá từ từ vào lồng nuôi.
  1. Cho ăn và quản lý thức ăn
  • Thức ăn dùng nuôi cá lăng nha thương phẩm là thức ăn viên công nghiệp độ đạm 30%.
  • Cần bổ sung thêm vitamin C, men tiêu hóa, chế phẩm sinh học,… vào thức ăn giúp cá tiêu hóa tốt hơn và tăng cường sức đề kháng.
  • Trước khi cho ăn, thức ăn phải được nhào trộn với nước và khẩu phần ăn trung bình 3 – 4 % so với khối lượng thân.
  • Từ tháng thứ 1 đến tháng thứ 2, cho cá ăn 3 lần/ngày vào sáng, chiều, tối.
  • Từ tháng thứ 2 trở đi, ngày cho ăn 2 lần vào sáng sớm và lúc chiều mát.

Bảng 1 – Khẩu phần thức ăn cho cá

Giai đoạn nuôi (gam/con)

Tỷ lệ thức ăn hàng ngày theo trọng lượng thân

< 150 g

5 – 7 %

150 – 500 g

3 – 5 %

> 500 g

2 – 3 %

  • Lượng thức ăn buổi tối chiếm 50% tổng lượng thức ăn trong ngày. Phương pháp tính lượng thức ăn: Lượng thức ăn cho cá ăn hàng ngày = Số lượng cá trong ao (con) x khối lượng thân trung bình (g/con) x % thức ăn theo khối lượng.
  • Thức ăn được cho vào sàn ăn (1 x 1 m) làm bằng tre, được đặt dưới mặt nước 20 – 40 cm.
  • Sau 2 giờ cho ăn, kiểm tra sàn ăn. Qua đó ta có thể điều chỉnh lượng thức ăn phù hợp để tránh hiện tượng thiếu hoặc thừa thức ăn.
  • Phải chà rửa sàn ăn mỗi ngày để tránh nấm, sinh vật ký sinh, vi khuẩn bám làm ảnh hưởng đến sức khỏe của cá.
  1. Quản lý môi trường nước

Các yếu tố môi trường nước (nhiệt độ, pH, hàm lượng oxy hoà tan, độ trong) được theo dõi thường xuyên và đo bằng các dụng cụ chuyên dùng theo định kỳ để điều chỉnh lượng thức ăn và di chuyển vị trí đặt lồng.

Bảng 2 – Quản lý các yếu tố môi trường nước

Các yếu tố môi trường

Giá trị thích hợp

pH

6,0 – 8,0

Oxy hòa tan

> 5 mg/lít

NH3

< 0,01 mg/lít

Độ trong

50 – 80 cm

  1. Quản lý lồng nuôi
  • Treo các túi vôi ở các góc lồng nuôi nhằm khử khuẩn, ổn định môi trường nước, phòng mầm bệnh.
  • Khử trùng lồng nuôi 15 ngày/lần bằng BKC 0,5 lít/1000 m3 nước hoặc Sanmolt F 0,7 – 1 lít/1000 m3, phun trực tiếp xuống bè.
  • Hàng ngày quan sát hoạt động của cá trong các lồng nuôi, khả năng bắt mồi và các hiện tượng bất thường khác để có biện pháp xử lý kịp thời.
  • Thường xuyên vệ sinh lồng nuôi (1 lần/tuần), đặc biệt vào mùa mưa nước trong hồ mang nhiều phù sa và lắng đọng nhiều ở đáy lồng. Việc vệ sinh lồng diễn ra trước khi cho ăn.
  • Loại bỏ rác trôi nổi và các vật cứng.
  • Vào mùa mưa lũ, phải kiểm tra các dây neo bè, di chuyển lồng bè vào vị trí an toàn.
  1. Thu hoạch

Sau 13 tháng nuôi, cá lăng nha đạt kích cỡ thương phẩm 1 kg/con thì có thể bắt đầu thu hoạch.

Bảng 3 – Các chỉ tiêu kỹ thuật

TT

Chỉ tiêu

ĐVT

Giá trị

1

Kích cỡ giống

gam/con

50

2

Mật độ

con/m3

60

3

Tỷ lệ sống

%

90

4

Kích cỡ cá thương phẩm

kg/con

1

5

Năng suất

kg/m3

54

6

Hệ số chuyển đổi thức ăn (FCR)

 

3,45

7

Thời gian nuôi

tháng

13

Lưu ý: Sử dụng thức ăn viên công nghiệp (CP,UP hoặc Grobest) độ đạm 30%.

Thành Nguyên – Trung tâm Khuyến nông Bình Định, Khuyến Nông VN, 21/12/2018

Kỹ thuật sinh sản nhân tạo cá lăng chấm

  1. MỞ ĐẦU

Cá lăng chấm Hemibagrus guttatus (Lacépede, 1803) là loài cá có giá trị kinh tế cao của hệ thống sông Hồng. Trong những năm 1960-1970, sản lượng cá lăng chấm chiếm tỷ lệ khá lớn trong sản lượng cá đánh bắt tự nhiên của một số tỉnh miền núi. Tuy nhiên, những năm gần đây, do ảnh hưởng của điều kiện môi trường và chủ yếu là do khai thác quá mức nên sản lượng cá lăng chấm đã giảm nghiêm trọng. Hiện tại, cá lăng chấm được xếp vào mức nguy cấp bậc V, cần phải bảo vệ gấp.

Trước thực trạng đó, việc nghiên cứu sinh sản nhân tạo cá lăng chấm để gia hoá trong điều kiện nuôi là biện pháp hữu hiệu nhất để bảo tồn loài cá này thoát khỏi nguy cơ tuyệt chủng.

Nghiên cứu kỹ thuật sinh sản nhân tạo cá lăng chấm được thực hiện từ năm 2002. Năm 2004, nhờ áp dụng một số cải tiến trong kỹ thuật nuôi vỗ cá bố mẹ nên đã thu được 194.000 cá bột, ương được trên 12 vạn cá hương và cá giống. Bài báo này trình bày một số kết quả nghiên cứu chủ yếu về sinh sản nhân tạo cá lăng chấm tại Viện nghiên cứu NTTS I trong năm 2004.

  1. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.1. Vật liệu nghiên cứu

Cá được thu mua tại hai địa điểm chính là thị xã Hoà Bình và thị xã Tuyên Quang do ngư dân khai thác, có trọng lượng trên 1,5kg, tuổi 3+ trở lên, sức khoẻ tốt, không bị thương tật và xây sát.

2.2. Phương pháp nghiên cứu

2.2.1. Thí nghiệm nuôi vỗ cá bố mẹ

Nuôi vỗ cá bố mẹ theo 3 công thức khác nhau. Sử dụng 3 ao F6 (1030m2), D4 (950m2) và B2 (1020m2) để nuôi vỗ cá bố mẹ. Các ao có mức nước sâu 1,2 – 1,5m, bờ ao lát bê tông có các góc lượn tròn, độ sâu bùn đáy 0,25 – 0,30m.

Công thức 1 (CT1):

Trong ao nuôi 50 cá bố mẹ, tổng khối lượng 201kg, tỷ lệ đực/cái 1/1. Tạo dòng chảy trong ao bằng 2 máy bơm công suất 1,5kw đặt chéo 2 góc ao, thời gian tạo dòng chảy trong ao như sau: tháng 12 bơm nước 2 ngày/lần, mỗi lần bơm 4giờ/ngày, tháng 1 bơm nước 8giờ/ngày, tháng 2 bơm nước 16giờ/ngày, từ tháng 3 6 bơm nước 24/24giờ. Tạo mưa nhân tạo trong ao bằng 3 máy bơm công suất 0,75kw và dàn phun mưa đảm bảo phun mưa đều khắp mặt ao. Tháng 1 2, phun mưa từ 13giờ đến 16giờ, tháng 3 – 6 phun mưa từ 3giờ đến 6giờ.

Công thức 2 (CT 2):

Trong ao nuôi 54 cá bố mẹ, tổng khối lượng 195kg, tỷ lệ đực/cái 1/1. Tạo dòng chảy như CT1, thời gian tạo dòng chảy trong ao từ tháng 3 – 6 với thời gian bơm nước 24/24giờ. Chế độ phun mưa như CT 1.

Công thức 3 (CT 3).

Thay nước định kỳ trong ao, giữ nước luôn sạch. Không tạo dòng chảy và phun mưa nhân tạo trong ao.

Cho cá ăn (áp dụng cho cả 3 công thức)

Từ tháng 7 -11 cho cá ăn thức ăn tươi sống gồm cá mè và cá tạp. Từ tháng 12 đến khi cá đẻ xong cho cá ăn thức ăn tươi sống gồm cá và tôm theo tỷ lệ khối lượng là 3 cá/1 tôm. Cho ăn theo mức ăn hết của cá (dao động từ 2-5%). Cho thức ăn vào các sàng để có thể kiểm soát mức tiêu thụ của cá.

2.2.2. Thí nghiệm sinh sản nhân tạo

Vào cuối tháng 4, khi nhiệt độ nước ao nuôi vỗ đạt 26-300C là thời điểm có thể cho cá sinh sản. Chuyển cá bố mẹ thành thục đã được lựa chọn ở ao vào hệ thống bể xi măng tròn có đường kính 2,5m, giữ ở mức nước 0,5m, cho nước thường xuyên chảy nhẹ kết hợp sục khí đảm bảo hàm lượng O2 hoà tan luôn cao hơn 5,5mg/l. Nhốt cá riêng vào từng bể tránh hiện tượng chúng cắn lẫn nhau.

Dùng các loại kích dục tố LRHa, Domperidon, HCG, não thuỳ. Thực hiện tiêm 2 lần cách nhau 23-25giờ. Liều lượng tiêm cho cá đực bằng 1/3 cá cái. Liều tiêm cho lần 1 bằng 1/5 tổng liều.

Mổ cá đực lấy tuyến sẹ, thụ tinh cho trứng bằng phương pháp thụ tinh khô. Cá đực sau khi được khâu lại vết mổ có thể thả vào ao nuôi vỗ tiếp để sử dụng sau này. Tỷ lệ sống của cá đực sau khi mổ khoảng 60 – 70%.

2.2.3. Thí nghiệm ấp trứng

Thí nghiệm ấp trứng trong 4 loại dụng cụ sau:

Dụng cụ 1: Khay ấp có kích thước 0,37x 0,23 x 0,05m có đáy bằng nhôm, xung quanh là lưới có cỡ 25 mắt/cm2 đặt trong bể xi măng có kích thước 1,20 x 1,20 x 0,30, mực nước sâu 0,20m, trứng ngập sâu trong nước khoảng 3-5cm. Sục khí thường xuyên trong bể đảm bảo hàm lượng O2 hoà tan đạt trên 6mg/l. Trong quá trình ấp, loại bỏ trứng hỏng và trứng không thụ tinh, tránh hiện tượng nấm phát triển gây chết cả những trứng có chất lượng tốt. Thay nước định kỳ 8giờ/lần, mỗi lần thay 1/2-2/3 lượng nước trong bể ấp.

Dụng cụ 2: ấp trứng trong chậu có sục khí và thay nước định kỳ: Chậu men có dung tích 5 lít, ấp 8000 trứng/chậu.

Dụng cụ 3: Khay ấp trứng cá rô phi có kích thước 0,37 x 0,23 x 0,05m làm bằng nhôm, mỗi bên thành (chiều dài) có 6-8 lỗ thoát nước. Lưu lượng nước chảy qua khay là 0,5 lít/phút. Trong quá trình ấp, loại bỏ trứng không thụ tinh và trứng chết tránh hiện tượng nấm phát triển.

Dụng cụ 4: Lưới để rải trứng: Là loại săm Thái có cỡ 40 mắt/cm2 được gắn trên khung sắt có kích thước 0,37 x 0,23m. Rải trứng đã thụ tinh sau khi được rửa sạch trên lưới với mật độ 9,4 trứng/cm2. Trong quá trình ấp, sục khí và thay nước định kỳ 8giớ/lần, mỗi lần thay 1/3-1/2 lượng nước trong bể ấp.

Kết quả tại bảng 2 cho thấy cá lăng chấm nuôi trong ao có hệ số thành thục và sức sinh sản tương đối trung bình cao hơn hệ số thành thục và sức sinh sản trung bình của cá tự nhiên Kết quả này cho thấy cá lăng thành thục tốt khi nuôi trong ao.

Tỷ lệ nở (%) = (Tổng số cá bột thu được:Tổng số trứng thụ tinh)x100

Tỷ lệ dị hình (%) = (Số cá bột dị hình : Tổng số cá bột nở)x100

Năng suất cá bột thực tế = (Tổng số cá bột thực tế thu được:Tổng khối lượng cá cái cho đẻ (kg))

  1. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

3.1. Sức sinh sản của cá nuôi trong ao

Bảng 1. Sức sinh sản của cá cái nuôi vỗ trong ao

Ao

Ngày kiểm tra

Khối lưượng cá (kg)

Khối lưượng trứng

(kg)

Sức sinh sản tuyệt đối

(hạt)

Sức sinh sản tương đối (hạt/kg)

Hệ số thành thục(%)

D4

24/4/03

4,400

0,493

36419

8277

11,20

B2

29/4/03

5,700

0,768

31827

5583

13,47

D4

09/5/03

2,200

0,115

10238

4653

5,22

F6

18/5/04

4,500

0,412

27659

6146

9,15

F6

28/5/04

6,300

0,677

42459

6739

10,75

B2

04/6/04

3,800

0,325

22454

5908

8,55

Trung bình

4,483

0,465

28509

6217

9,72

* Cá tự nhiên

24717

3754

7,90

(* Số liệu cá tự nhiên theo kết quả điều tra trên 29 mẫu cá lăng từ 3 đến 11 tuổi có khối lượng 1,6-12,8 kg của Phạm Báu năm 1998).

3.2. Tỷ lệ cá thành thục và kết quả sinh sản nhân tạo tại các công thức nuôi vỗ

Tỷ lệ cá thành thục cao nhất đạt 91,67% đối với cá cái và 84,00% đối với cá đực tại CT1, thấp nhất tại CT3. Tuy nhiên sự sai khác về tỷ lệ thành thục giữa các công thức nuôi vỗ cá bố mẹ năm 2004 không đạt mức ý nghĩa thống kê (kiểm tra bằng phương pháp C2). Kết quả sinh sản nhân tạo thu được cho thấy tỷ lệ cá rụng trứng, sức sinh sản thực tế, tỷ lệ thụ tinh, tỷ lệ nở và năng suất ra bột cao nhất tại CT1, thấp nhất tại CT3.

Bảng 2. Tỷ lệ cá bố mẹ thành thục tại các công thức nuôi vỗ

Ao

Tỷ lệ cá cái thành thục

(%)

Tỷ lệ cá đực thành thục(%)

Tỷ lệ cá có trứng giai đoạn III

(%)

Tỷ lệ cá không phát triển trứng

(%)

CT 1

91,67

84,00

8,33

0

CT 2

88,89

82,14

0

11,11

CT 3
82,14

80,00

7,14

10,71

Nhìn chung, chất lượng sản phẩm sinh dục của các công thức nuôi vỗ năm 2004 khá tốt, thể hiện ở các chỉ tiêu kỹ thuật đều cao. Năng suất cá bột cao nhất tại CT1 trung bình 1784 cá bột/kg cá cái, thấp nhất tại CT3 đạt 98 cá bột/kg cá cái. Trong đó các chỉ tiêu đạt cao nhất tại ao nuôi CT1 (Bảng 3).

Từ kết quả thử nghiệm các công thức kích dục tố sử dụng trong năm 2003, đã cho thấy công thức có hiệu quả tốt nhất là 15 mgLRHa+6mg DOM/kg cá cái.

Năm 2004, chúng tôi đã sử dụng công thức này (gọi là CT1) và thử nghiệm thêm công thức 20mg LRHa+6mg DOM/kg cá cái (gọi là CT2) để kích thích cá bố mẹ sinh sản và đã 2 lần thu được tỷ lệ cá đẻ 100%, tỷ lệ thụ tinh trung bình cao nhất đạt 84,70%, tỷ lệ nở cao nhất 72,47% và tỷ lệ dị hình thấp nhất 9,38%. Năng suất ra bột cao nhất trong các lần cho đẻ là 2690,06 cá bột/kg cá cái, thấp nhất 69,29 cá bột/kg cá cái (Bảng 4).

Bảng 3. Kết quả cho cá đẻ nhân tạo tại các công thức nuôi vỗ

Ao

Số cá cái tham gia sinh sản (con) Khối lượng cá cái (kg)

Tỷ lệ cá rụng trứng (%)

Sức sinh sản thực tế (hạt/kg)

Tỷ lệ thụ tinh (%)

Tỷ lệ nở (%)

Tỷ lệ dị hình (%)

Số cá bột thu được (con)

Năng suất ra bột* (cá bột/kg cá cái)

CT 1

15

79,74

93,33

4432 ±1327

76,01 ±18,34

59,19 ±16,45

14,55 ±9,67

142290

1784,42

CT 2

22

97,30

72,72

3743 ±1205

45,66 ±19,39

36,61 ±25,33

23,38 ±10,60

41860

463,56

CT 3

21

100,60

61,90

3448 ±718

39,62 ±11,62

16,46 ±11,51

24,10 ±4,12

9850

97,91

Tổng cộng

58

277,64

194000

*Năng suất ra bột thực tế thu được từ các lần sinh sản nhân tạo

Bảng 4. Kết quả thử nghiệm kích dục tố

Công thức

Ngày tháng

Thời gian hiệu ứng (giờ)

Số lượng cá cái (con)

Khối lượng cá cái

(kg)

Tỷ lệ cá cái rụng trứng (%)

Sức sinh sản thực tế (trứng / kg cá cái)

Tỷ lệ thụ tinh

(%)

Tỷ lệ nở

(%)

Tỷ lệ dị hình

(%)

Năng suất ra bột *(con/kg cá cái)

23/5

27-30

4

28,50

100,00

4317

76,20

52,61

14,47

1074,73

CT1

29/5

31-33

5

19,00

80,00

2978

67,00

50,83

21,10

1317,89

16/5

27-30

8

34,70

75,00

3304

48,17

26,67

24,41

329,11

6/6

23-26

12

52,10

50,00

3304

43,00

13,30

26,09

69,29

10/5

27-33

5

32,20

100,00

5711

84,70

72,47

9,38

2690,06

CT2

12/5

28-31

6

25,40

66,67

4552

64,00

54,44

22,02

989,37

25/5

23-28

8

40,20

75,00

3599

30,91

22,46

23,46

132,09

30/5

24-29

11

48,50

63,73

3570

36,71

20,02

22,78

128,66

  • Năng suất ra bột tính theo thực tế số cá bột thu được.

3.3. Kết quả thí nghiệm ấp trứng

Trứng cá lăng chấm có đường kính và khối noãn hoàng lớn, thuộc dạng trứng chìm. Sau khi thụ tinh trứng hơi dính nhưng trong quá trình ấp, trứng mất dần tính dính. Do vậy, chúng tôi đã thí nghiệm ấp trứng trong 4 loại dụng cụ khác nhau nêu trong mục 2.2.3. Với mỗi dụng cụ lặp lại thí nghiệm 3 lần (Bảng 5).

Kết quả cho thấy ấp trứng bằng dụng cụ 1 và 2 đạt tỷ lệ nở khá cao, tỷ lệ nở thấp nhất khi ấp bằng dụng cụ

  1. Tỷ lệ dị hình thấp nhất khi ấp bằng dụng cụ 1, cao nhất khi ấp nằng dụng cụ 4.

ấp trứng bằng dụng cụ 1 có 2 ưu điểm là chỉ thay nước ít lần và rất thuận tiện khi loại trứng hỏng trong quá trình ấp, một khâu kỹ thuật quan trọng đảm bảo tỷ lệ nở cao. Trên thực tế trong một số lần cho cá đẻ, do ượng trứng thu được nhiều, đã ấp với số lượng 10000 trứng/khay (tương ứng với mật độ 11,8 trứng/cm2) thu được kết quả tốt.

ấp trứng bằng dụng cụ 3 sẽ bị tích luỹ nhiều chất cặn ở khay trong quá trình ấp, khi trứng gần nở và trong quá trình nở, nấm thuỷ mi phát triển mạnh gây chết khá nhiều trứng sắp nở thành cá bột nên tỷ lệ nở khá thấp.

Bảng 5: Kết quả thí nghiệm ấp trứng trong các loại dụng cụ khác nhau tại nhiệt độ nước 25-27 C

Dụng cụ

Số trứng lần ấp (quả)

Mật độ ấp (trứng/cm2)

Tỷ lệ nở (%)

Tỷ lệ dị hình (%)

1

8000

9,4

65,183,26

8,351,09

2

8000

9,4

54,431,17

9,870,42

3

8000

9,4

35,383,58

9,221,40

4

8000

9,4

5,721,62

10,320,85

Ấp trứng bằng dụng cụ 4 sau 8-10giờ rất nhiều trứng rơi xuống đáy bể. Sau khi ấp qua giai đoạn phôi vị một số trứng không thụ tinh bắt đầu chết nhưng không rơi khỏi lưới, là môi trường tốt cho nấm thuỷ mi phát triển gây chết cả những trứng khoẻ dẫn đến tỷ lệ nở rất thấp.

  1. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT

4.1. Kết luận

Cá lăng chấm bố mẹ có khả năng thành thục tốt trong điều kiện nuôi ao, hệ số thành thục và sức sinh sản cao hơn so với cá thành thục trong tự nhiên.

Công thức nuôi vỗ cá bố mẹ đạt hiệu quả cao nhất là trong điều kiện ao có phun mưa nhân tạo, tạo dòng chảy trong ao từ tháng 12 đến khi kết thúc vụ đẻ và sử dụng thức ăn tươi sống trong giai đoạn nuôi vỗ thành thục cá bố mẹ, tỷ lệ cá cái thành thục đạt 91,67%, tỷ lệ cá đực thành thục đạt 84,00%., tỷ lệ cá cái rụng trứng đạt 93,33%, tỷ lệ thụ tinh trung bình 76,01%, tỷ lệ nở trung bình 59,19%, sức sinh sản tương đối thực tế đạt 4432 trứng/kg cái cái và tỷ lệ dị hình chỉ là 14,55%.

Có thể dùng hỗn hợp kích dục tố là LRHa + DOM với liều lượng từ 15 – 20 mgLRHa + 6mgDOM/kg để kích thích cá bố mẹ rụng trứng và tiết tinh.

Phương pháp ấp trứng trong khay đáy làm bằng nhôm đặt trong bể nước sục khí và thay nước cho kết quả tốt nhất.

4.2. Ðề xuất

Ðề nghị các cơ quan có thẩm quyền xem xét và cho phép chuyển giao công nghệ sản xuất giống nhân tạo cá lăng chấm tới các địa phương nhằm bảo tồn và phát triển nuôi đối tượng này.

  1. TÀI LIỆU THAM KHẢO

Mai Ðình Yên, 1983. Các loài cá kinh tế miền Bắc Việt Nam. NXB Khoa học và Kỹ thuật Hà Nội.

Phạm Báu và ctv, 2000. Ðiều tra nghiên cứu hiện trạng và biện pháp bảo vệ, phục hồi một số loài cá hoang dã quý hiếm có nguy cơ tuyệt chủng trên hệ thống sông Hồng. Báo cáo tổng kết đề tài. Viện nghiên cứu NTTS I

Nguyễn Ðức Tuân, Viện nghiên cứu NTTS I

Hiệu quả bước đầu Sản xuất giống cá Lăng chấm ở Hòa Bình

Trên dòng sông Đà có nhiều giống cá hoang dã, quý hiếm như: Cá Chiên, cá Bỗng, Anh vũ, Lăng, Chày đất, cá Hỏa, Rầm xanh… Những năm gần đây, những giống cá quí hiếm này đang có nguy cơ tuyệt chủng. Việc chủ động sản xuất con giống, cung cấp giống nuôi cho các địa phương là việc làm cấp thiết.

Cá Lăng chấm là giống cá hoang dã có giá trị kinh tế cao của hệ thống sông Đà. Thịt cá Lăng chấm mềm, ít xương dăm, giá bán cao, được coi là loại cá đặc sản nước ngọt hàng đầu của miền Bắc. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, do ảnh hưởng của điều kiện môi trường bị suy thoái như nạn phá rừng, đắp đập, đào đãi vàng ở lòng sông và do khai thác quá mức bằng những phương tiện huỷ diệt như dùng xung điện, thuốc nổ, chất độc… sản lượng cá Lăng chấm đã giảm sút nghiêm trọng. Hiện tại, cá Lăng chấm được xếp vào mức nguy cấp bậc V, cần phải bảo vệ gấp (“Sách Đỏ” do Bộ Khoa học – Công nghệ và Môi trường công bố năm 1992).

Để tạo thêm đối tượng nuôi mới đáp ứng đư ợc nhu cầu ngày càng tăng của thị trường về sản phẩm thuỷ sản ngon và có chất l ượng cao, việc chuyển giao công nghệ để các địa phương có thể chủ động sản xuất con giống đáp ứng thị trường trong nước và xuất khẩu khi nuôi trên quy mô rộng là việc làm hết sức cần thiết trước mắt cũng nh ư lâu dài. Từ năm 2002- 2004, Viện nghiên cứu nuôi trồng thuỷ sản I đã thực hiện thành công đề tài “ Nghiên cứu kỹ thuật sản xuất nhân tạo cá Lăng chấm trong điều kiện nuôi”. Viện đã làm chủ được kỹ thuật sinh sản của cá Lăng chấm và chủ động cung cấp cá giống. Cuối năm 2007, được sự hỗ trợ kinh phí của Sở KH &CN tỉnh, đơn vị chuyển giao công nghệ là Viện nghiên cứu nuôi trồng thuỷ sản I – Bộ NN &PTNT, đề tài “Chuyển giao công nghệ sản xuất cá lăng chấm” được triển khai vào địa bàn tỉnh ta. Đề tài được triển khai tại Trung tâm giống thuỷ sản Hoà Bình. Ông Trần Hùng Cường, Cán bộ kỹ thuật Trung tâm giống thuỷ sản cho biết: Mục tiêu ban đầu của đề tài là chuyển giao công nghệ sản xuất giống cá Lăng chấm cho cán bộ Trung tâm thuỷ sản Hoà Bình. Sau đó, Hoà Bình sẽ tự chủ được sản xuất con giống nhằm phát triển nuôi cá thương phẩm rộng rãi cung cấp sản phẩm thuỷ sản có chất lượng cao cho thị trường tạo thêm công ăn việc làm tăng thu nhập cho người dân.

Tuy nhiên, nuôi cá Lăng chấm đòi hỏi quy trình kỹ thuật khắt khe. Cá Lăng chấm có điều kiện sinh sản khó, tỉ lệ đậu chỉ đạt từ 10- 20%. Để sản xuất giống cá Lăng chấm phải đảm bảo các chỉ tiêu từ tỷ lệ cá đẻ, tỷ lệ thụ tinh, tỷ lệ nở, tỷ lệ sống ương cá Bột, cá Hương đến cá giống. Đầu năm 2008, Trung tâm đã được cấp 30 cặp cá bố mẹ có trọng lượng trung bình 2,5 kg, con to nặng tới 6, 5kg. Đến nay, đàn cá đã đẻ kết quả thu được gần 11.600 cá bột, ương lên cá hương được trên 8.000 con, tỷ lệ sống đạt trên 71%, ương từ cá hương lên cá giống được trên 5.000 con, tỷ lệ đạt trên 64%. Hiện nay, cá đã đạt đã phát triển được khoảng 12cm. Anh Cường cho biết thêm: Hiện thị trường cá lăng chấm khan hiếm hàng, mở rộng cả trong và ngoài nước. Giá bán cá giống nhỏ từ 10.000- 14.000 đồng /con, cá nuôi thương phẩm là 350.000 đồng /kg. Từ kết quả ban đầu, việc chuyển giao công nghệ sản xuất cá Lăng chấm mở ra hướng bảo vệ, phục hồi các giống quý, giá trị kinh tế cao khác vùng lòng hồ Hoà Bình. Trong thời gian tới, Trung tâm giống thuỷ sản Hoà Bình tiếp tục phát triển nuôi cá Lăng chấm thương phẩm cung cấp cho thị trường sản phẩm đảm bảo chất lượng phục vụ nhu cầu trong và ngoài tỉnh.

Hương Lan (Báo Hòa Bình, 18/1/2009)

Kỹ thuật nuôi cá lăng vàng 

Cá lăng vàng là một trong những loài cá lăng hiện diện ở các thủy vực nước ngọt và lợ nhẹ thuộc miền Đông và đồng bằng sông Cửu Long. Đây là một trong những loài cá bản địa có thịt thơm ngon và bổ dưỡng. Hiện nay, cũng như các loài cá bản địa khác, cá lăng vàng ngày càng bị khai thác nghiêm trọng nên sản lượng cá tự nhiên ngày một giảm thấp. Do đó, giá cá thịt, cá lăng ngày càng cao, dao động từ 35.000 đ đến 80.000 đ/kg cá sống tuỳ thuộc vào trọng lượng cá và mùa vụ.

Vì vậy, nghề nuôi cá lăng vàng trong áo đất hứa hẹn nhiều thuận lợi về mặt kỹ thuật cũng như kinh tế. Để nuôi cá lăng vàng đạt hiệu quả như mong muốn, người nuôi có thể áp dụng một trong hai hình thức nuôi: nuôi thâm canh hoặc nuôi bán thâm canh. Dù là hình thức nuôi nào, người nuôi cũng nên thực hiện đúng các biện pháp kỹ thuật dưới đây.

  1. Điều kiện ao nuôi:

Trong nghề nuôi cá thâm canh, điều kiện ao nuôi là một trong những yếu tố quan trọng – quyết định đến kết quả của một vụ nuôi. Dưới dây là những tiêu chuẩn của một ao nuôi cá lăng vàng thương phẩm.

  • Diện tích ao ít nhất là 500 m2, độ sâu mực nước 1-2 m.
  • Ao thoáng mát, độ che phủ mặt nước ao không quá 30% tổng diện tích mặt nước
  • Đáy ao không nhiều bùn (lớp bùn dày 10-15 cm).
  • Nước có chất lượng tốt:
  • pH từ 6,5 – 7,5;
  • Ôxy hoà tan trên 3 mg/l
  • Độ trong từ 20-40 cm
  • Nước ngọt hoặc lợ nhẹ (độ mặn từ 0 đến 7%).
  • Chủ động trong việc cấp và tháo nước.
  1. Chuẩn bị ao nuôi:

Việc chuẩn bị ao nuôi có ý nghĩa quyết định đến kết quả nuôi. Nếu chuẩn bị ao đúng kỹ thuật thì mầm bệnh khó có cơ hội phát triển và diệt hết cá tạp, cá dữ. Chuẩn bị ao nuôi gồm các công việc sau:

  • Tẩy dọn ao: Sau khi tháo cạn nước, dùng vôi nông nghiệp CaCO3) rãi đều khắp đáy ao với lượng 7 -10 kg/100 m2. Nếu vùng đất nhiễm phèn, có thể bón vôi từ 10-15 kg/100 m2.
  • Ngay sau khi bón vôi, sử dụng sản phẩm chuyên dùng để thúc đẩy việc phân huỷ vật chất hữu cơ và khử khí độc ở đáy ao để tạo môi trường sống tốt nhất cho cá lăng như XORBS với liều 0,5 – 0,7 kg/1.000 m2 ao.
  • Phơi nắng ao từ 1- 2 ngày rồi khử trùng ao bằng một trong hai loại sản phẩm sau đây:
  • FIDIS: Lọc nước cho vào ao khoảng 10 cm rồi dùng FIDIS với liều từ 2 đến 2,5 lít/1.000 m2 phun đều khắp mặt nước và bờ ao. Một ngày sau đó lọc nước thật kỹ cho vào ao theo yêu cầu.
  • WPLMIDTM: Liều 0,3 kg/1.000 m3. Lọc nước cho vào ao rồi phun WOLMIDTM theo liều như trên. Từ 2-3 ngày sau mới thả cá giống.
  1. Thả cá giống
  • Tiêu chuẩn cá thả nuôi:
  • Khoẻ mạnh, không sây sát, mất nhớt;
  • Cỡ cá thả đồng đều và lớn (cá lồng 10);
  • Mật độ thả:
    +Nuôi thâm canh: 7-8 con/m3 nước;
  • Nuôi bán thâm canh: Mật độ thả từ 4-5 con/m3 nước theo tỷ lệ:
  • Cá giống các loại: 70 -80 %
  • Cá giống lăng vàng; 20-30%
  • Thời gian thả cá: tốt nhất buổi sáng ( 8-11 giờ sáng).
  • Sát trùng cá trước khi thả bằng BROOTTM 5X với liều 3ppm (3cc BROOT/m3). Hoà tan BROOT vào thau nước theo liều trên rồi nhúng vợt có cá vào thau khoảng 5 giây.
  • Ngay sau đó, thả cá vào ao nuôi. Không nên thả cá giống nhiều lần trong cùng một ao.

4.Thức ăn cho cá:

  • Có thể cho cá ăn bằng thức ăn viên hoặc thức ăn tự chế phụ thuộc vào hình thức nuôi.
  • Nuôi thâm canh:

Cho cá ăn bằng thức ăn viên có độ đạm ít nhất 25%.
Khẩu phần ăn 2-5% tổng trọng lượng cá nuôi
Một ngày cho ăn ba lần (sáng, chiều, tối). Cữ tối chiếm khoảng 60% tổng lượng thức ăn trong ngày.

  • Nuôi bán thâm canh (ghép với loại cá khác):

Cho cá ăn bằng thức ăn tự chế (tận dụng nguyên liệu tại chỗ).
Khẩu phần ăn 2-4% tổng lượng cá trong ao.
Một ngày cho ăn hai lần (sáng và chiều)

Thả cá rô phi GIFT thường, tép, cá tạp để chúng sinh sản nhằm làm mồi cho cá lăng vàng.

Nguồn: Trại Thực nghiệm Thủy sản, Khoa Thủy sản, Trường Đại học Nông Lâm T.p Hồ Chí Minh

Cho cá lăng vàng (Mystus nemurus) đẻ quanh năm

Thay vì thời gian có khả năng sinh sản chỉ khoảng 2-3 tháng/năm ở môi trường tự nhiên, giờ đây cá lăng vàng – Mystus nemurus – có thể “khai hoa nở nhụy” quanh năm… Thành công này nhờ bàn tay khéo léo của thạc sĩ Ngô Văn Ngọc (khoa thủy sản ĐH Nông lâm TP.HCM). Kết quả này cũng xứng đáng được trao huy chương vàng tại chợ công nghệ thiết bị quốc gia 2003…

Có lẽ vì gắn bó nhiều năm với nghề nuôi trồng thủy sản nên thạc sĩ Ngọc rất am hiểu nhu cầu thực tiễn và triển vọng của nhiều loài thủy sản nước ngọt. Và cá lăng vàng là một trong những đối tượng nghiên cứu được nhà khoa học này đánh dấu ưu tiên. Ông cho biết đây là loài cá trơn, giá trị kinh tế cao, thịt trắng, thơm ngon và đặc biệt loài cá này vốn là món khoái khẩu của biết bao thực khách sành ăn uống.

Cũng chính vì sự ưa chuộng của rất nhiều người, thêm vào đó bán được giá cao (35.000-45.000 đồng/kg), mà số lượng loài cá lăng vàng ở sông, suối, ao hồ… ngày một cạn dần, thậm chí đứng trước nguy cơ tuyệt diệt. Làm thế nào để bảo vệ loài cá này trong môi trường tự nhiên? Trước hoàn cảnh như thế, dường như không có lựa chọn nào khác hơn hướng nghiên cứu nhắm đến việc “sinh sản nhân tạo cá lăng vàng” – một lựa chọn mà nhiều nhà khoa học đã gặt hái thành công đối với nhiêu loài thủy sản nước ngọt khác.

Ngay lập tức mục tiêu của hướng nghiên cứu này được thạc sĩ Ngọc xác lập: tạo giống cá lăng vàng nhằm đa dạng hóa đối tượng nuôi và bảo vệ loài cá này ngoài tự nhiên; đồng thời xây dựng qui trình sản xuất con giống, đáp ứng nhu cầu nuôi cá thương phẩm đối với người dân.

Thời điểm tháng 3-2002, khuôn viên trại thực nghiệm thủy sản – ĐH Nông lâm TP.HCM rộn ràng công tác chuẩn bị “sinh sản nhân tạo cá lăng vàng”. Bước đầu tiên – thuần dưỡng và nuôi vỗ cá bố mẹ – của qui trình này được triển khai thực hiện. Loạt cá lăng vàng (bố mẹ) đầu tiên gồm 300 cá cái và 200 cá đực được đưa về từ hồ Sông Mây và Trị An (tỉnh Đồng Nai) để thuần dưỡng trong ao đất. Khá nghiêm ngặt, cá được chọn làm bố mẹ phải qua vòng sơ khảo về “ngoại hình”: không dị tật, ngoại hình cân đối, trọng lượng từ 300g/con trở lên…

Việc thuần dưỡng được thực hiện từng bước, từng bước một. Trong thời gian đầu thức ăn cho cá lăng vàng gồm 50% cá tạp tươi sống, 50% cám gạo. Đồng thời tập cho cá dùng thức ăn dạng viên nổi để cá dần quen với thức ăn công nghiệp; đến lúc thích hợp thì chuyển hẳn sang nuôi vỗ bằng 100% thức ăn công nghiệp. Cá đực và cái được sống chung một ao, với diện tích phù hợp, độ sâu 1,2-1,4m. Cứ định kỳ bảy ngày kiểm tra tốc độ tăng trưởng một lần. Và chỉ khoảng bốn tháng nuôi vỗ cá cái đã thành thục sinh dục và có thể tiêm kích dục tố để chúng sinh sản; cá đực cũng được thuần dưỡng tương tự.

Sau khi tiêm kích dục tố cho cá đẻ, trứng được ấp ở nhiệt độ trung bình 29-30OC trong bể composite (hoặc bình weis) liên tục 20 giờ liền thì trứng nở thành cá bột, tỉ lệ nở đạt trên 80%. Đặc biệt, theo kết quả nghiên cứu cho thấy sức sinh sản thực tế của cá lăng vàng dao động từ 126.364-142.000 trứng/1kg cá mẹ. Kết quả sản xuất cá giống trong thực tế cho thấy cứ 1kg cá mẹ thì có thể sản xuất được 10.000-15.000 cá giống. Qui trình sản xuất con giống cá lăng vàng do thạc sĩ Ngọc công bố có thể sản xuất và cung cấp giống quanh năm.

Theo kết quả nghiên cứu, một năm có thể cho cá lăng vàng đẻ 4-5 lần (giữa hai lần sinh sản cách nhau 2,5-3 tháng). Tuy nhiên để giữ sức cho cá bố mẹ chỉ nên cho đẻ khoảng 2 lần/năm là vừa. Chưa dừng lại, công trình nghiên cứu còn bố trí các thí nghiệm để đúc kết ra qui trình nuôi ương cá bột thành cá giống. Theo đó, chỉ cần chăm sóc cẩn thận trong một tháng cá bột sẽ phát triển thành cá giống với chiều dài đạt 5-5,5cm, có thể thả nuôi làm cá thịt.

Chắc chắn kết quả nghiên cứu sẽ rất có ý nghĩa nếu qui trình sản xuất giống cá lăng vàng bằng phương pháp sinh sản nhân tạo được chuyển giao đến tay nhiều nông dân, ở nhiều địa phương trên khắp đất nước.

“Chúng tôi đã sẵn sàng chuyển giao qui trình sản xuất giống và nuôi cá lăng vàng cho những đơn vị, cá nhân có nhu cầu”- thạc sĩ Ngọc vui vẻ thông báo.

QUỐC THANH (Trung tâm Thông tin Khoa học Công nghệ Quốc gia)

Cho cá lăng vàng sinh sản nhân tạo thành công

Thạc sĩ Ngô Văn Ngọc và nhóm nghiên cứu thuộc Khoa Thủy sản Trường Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh đã tiến hành nghiên cứu cho cá lăng vàng sinh sản nhân tạo và ương nuôi thành cá giống nhằm góp phần thúc đẩy nghề nuôi trồng thủy sản phát triển bền vững. Đến nay, công trình nghiên cứu này đã thành công tại trại thực nghiệm thủy sản của Trường Đại học Nông Lâm.

Cá lăng vàng có tên khoa học Mytusnemurus, là loài cá bản địa được phân bố, rộng trong các thủy vực nước ngọt và nước lợ nhạt như sông, suối, ao, hồ vùng cửa sông thuộc vùng Đông Nam Bộ và đồng bằng sông Cửu Long. Là một loài cá trơn cho thịt thơm ngon, có giá trị kinh tế cao (với giá thịt tươi sống 30.000 – 36.000 đồng/kg), cá lăng vàng bị khai thác quá mức nên sản lượng suy giảm nghiêm trọng trong tự nhiên…

Đứng trước tình hình đó, thạc sĩ Ngô Văn Ngọc và nhóm nghiên cứu thuộc Khoa Thủy sản Trường Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh đã tiến hành nghiên cứu cho cá lăng vàng sinh sản nhân tạo và ương nuôi thành cá giống nhằm góp phần thúc đẩy nghề nuôi trồng thủy sản phát triển bền vững. Đến nay, công trình nghiên cứu này đã thành công tại trại thực nghiệm thủy sản của Trường Đại học Nông Lâm. Về sinh sản nhân tạo, theo thạc sĩ Ngô Văn Ngọc, các công đoạn được tiến hành như sau: Cá lăng vàng hậu bị thu từ hồ Trị An (huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai) được nuôi vỗ trong ao đất có diện tích 300m2 với độ sâu mực nước 1,2m, trong 5 tháng. Sau khi thành thục sinh dục, cá bố mẹ được chọn cho đẻ dựa vào các tiêu chuẩn ngoại hình và màu sắc, kích thước trứng. Trong đợt sinh sản này, 3 con cá cái được chọn cho sinh sản có trọng lượng từ 0,35kg đến 0,8kg/con. Chất dùng kích thích sinh sản cho cá lăng vàng là LH-RHa với liều lượng tiêm cho cá đực bằng 1/3 liều của cá cái. Ở nhiệt độ nước 29,5 – 30oC, thời gian hiệu ứng của LH-RHa trên cá dao động 11 – 12 giờ và tỷ lệ cá rụng trứng hoàn toàn đạt 100%. Sức sinh sản thực tế từ 126.364 – 142.000 trứng/kg.

Sau khi gieo tinh, trứng được khử dính và ấp bằng bình Weis. Ở nhiệt độ nước 30oC, thời gian phát triển phôi cá lăng vàng là 20 giờ tính từ lúc trứng đã được thụ tinh. Cá bột 1 ngày tuổi bắt đầu biết bơi. Ở khâu ương nuôi từ cá bột lên cá hương, với nhiệt độ nước 29,5 – 30oC, sau khi nở khoảng 60 giờ, ấu trùng cá lăng vàng bắt đầu biết ăn Moina cỡ nhỏ, dù lúc này cơ thể vẫn còn noãn hoàng. Sau khi nở 72 giờ (3 ngày tuổi), cá đã tiêu hết noãn hoàng và bắt mồi rất mạnh. Khi được 4 ngày tuổi, cá ăn được trùn chỉ (Tubifex). Ở giai đoạn này, cá lăng vàng có tốc độ tăng trưởng khá nhanh và sự phân đàn không đáng kể (kích thước cá hương khá đồng đều): 14 ngày tuổi, cá có chiều dài 2,7 – 2,9cm. Qua kết quả thu được trong đợt nghiên cứu cho sinh sản nhân tạo này, có thể khẳng định cá lăng vàng là một đối tượng nuôi quan trọng vì có sức sinh sản cao, ăn tạp, có thể nuôi mật độ dày và tăng trưởng nhanh.

Thạc sĩ Ngô Văn Ngọc cho biết nhóm nghiên cứu đang tiếp tục nâng cao hiệu quả sinh sản hơn nữa, hoàn thiện quy trình sản xuất giống nhân tạo cá lăng vàng và quy trình nuôi cá thương phẩm nhằm nhanh chóng ứng dụng vào thực tiễn sản xuất, góp phần bảo vệ và phát triển loài cá bản địa có giá trị kinh tế cao này.

Theo SGGP – 05/12/2002

Lưu ý khi ương nuôi cá lăng vàng

Sau một thời gian nghiên cứu, thử nghiệm ương nuôi giống cá lăng vàng, khoa Thuỷ sản (Trường Đại học Nông lâm TP.Hồ Chí Minh đã đưa ra được quy trình nuôi, thuần dưỡng giống này. Theo những kinh nghiệm đúc kết thì:

  • Trong quá trình ương nuôi cá bột lên cá giống (chia làm 2 giai đoạn: giai đoạn đầu 7 ngày tuổi, giai đoạn sau 30 ngày tuổi) muốn sản xuất giống hàng loạt, phải áp dụng kỹ thuật gieo tinh nhân tạo với điều kiện đàn cá đực có chất lượng tuyến sinh dục cao (cá phải 2-5 năm tuổi); với cá lăng vàng cái trong điều kiện nuôi ao, giai đoạn thành thục phải là 1 năm.
  • Giống cá lăng vàng ương trong ao đất luôn luôn lớn nhanh hơn cá ương trong bể vì môi trường ao đất rộng rãi, phù hợp. Cá ít bị bệnh. Cá quen ăn thức ăn viên.
  • Nên thực hiện gieo tinh nhân tạo và sinh sản nhân tạo ở nhiệt độ 28-31oC thì thời gian hiệu ứng chỉ chừng 5-6 giờ và phát triển phôi từ 18-22 giờ.
  • Tốc độ tăng trưởng của cá ương trong ao đất nhanh hơn.
  • Tỉ lệ cá sống khi ương trong bể composit cao hơn trong ao đất (68% so với 52%) nhưng mức độ rủi ro bệnh tật khi ương lại cao hơn, có khi cá bị chết toàn bộ nếu sơ sẩy về kỹ thuật một chút.

Khoa Thuỷ sản (Trường Đại học Nông lâm TP.Hồ Chí Minh) có thể cung cấp giống cá lăng vàng và hướng dẫn quy trình ương nuôi, thuần dưỡng và nuôi vỗ cá bố mẹ theo yêu cầu của bà con nông dân.

NTNN, 7/7/2004

Nhân giống và nuôi cá lăng vàng thương phẩm

Cá lăng vàng có tên khoa học Mytusnemurus, sống trong các vùng nước ngọt và nước lợ thuộc vùng Đông Nam bộ và đồng bằng sông Cửu Long. Là một loài cá da trơn cho thịt thơm ngon, có giá trị kinh tế cao, trong những năm gần đây cá lăng vàng bị khai thác quá mức nên sản lượng suy giảm nghiêm trọng trong tự nhiên. Hiện nay, với thành công về lai tạo giống, việc nuôi cá thương phẩm đang tiến triển rất tốt.

Gắn bó nhiều năm với nghề nuôi trồng thủy sản nên thạc sĩ Ngô Văn Ngọc (Khoa Thủy sản Trường Đại học Nông Lâm TPHCM) rất am hiểu nhu cầu thực tế và triển vọng của nhiều loài cá nước ngọt. Cá lăng là loại cá ngon thịt, giá cao mà lại “trên bờ tuyệt chủng” là một trong những đối tượng nghiên cứu được thạc sĩ Ngọc ưu tiên. Sau cả năm trời lùng mua cá lăng về để nghiên cứu, nhân giống, thạc sĩ Ngô Văn Ngọc và nhóm nghiên cứu thuộc Khoa Thủy sản Trường ĐH Nông Lâm TPHCM đã hoàn thành đề tài khoa học nghiên cứu cho cá lăng vàng sinh sản nhân tạo và ương nuôi thành cá giống nhằm góp phần thúc đẩy nghề nuôi trồng thủy sản phát triển bền vững. Quy trình sinh sản nhân tạo cá lăng vàng có thể tóm tắt như sau: bắt cá từ hồ Trị An (huyện Vĩnh Cửu tỉnh Đồng Nai) về nuôi vỗ trong ao đất có diện tích 400m2 với độ sâu mực nước 1,2m, trong 5 tháng. 3 con cá cái được chọn cho sinh sản có trọng lượng từ 0,35kg đến 0,8kg/con. Dùng chất LH-RHa tiêm vào cá đực với liều lượng bằng 1/3 liều của cá cái. Ở nhiệt độ nước khoảng 300C, thời gian dao động 11-12 giờ, tỷ lệ cá rụng trứng đạt 98%. Sức sinh sản thực tế từ 126.364 đến 142.000 trứng/kg. Sau khi gieo tinh, trứng được khử dính và ấp bằng bình Weis. Ở nhiệt độ nước 300C, thời gian phát triển phôi cá lăng vàng là 20 giờ tính từ lúc trứng đã được thụ tinh. Ở khâu ương nuôi từ cá bột lên cá hương, sau khi nở khoảng 60 giờ, ấu trùng cá lăng vàng bắt đầu biết ăn. Sau khi nở 72 giờ (3 ngày tuổi), cá ăn mồi rất mạnh. Khi được 4 ngày tuổi, cá ăn được trùn chỉ. 14 ngày tuổi, cá có chiều dài 2,7 – 2,9cm. 

Hiện nay quy trình sản xuất giống nhân tạo cá lăng nha được hoàn chỉnh và trại thực nghiệm thủy sản ĐH Nông Lâm TPHCM có thể chuyển giao cho bà con hay các cơ sở kinh doanh giống có nhu cầu. Ngoài ra, nơi nghiên cứu này cũng có thể chuyển giao quy trình sản xuất giống cá lăng vàng và cá lăng hầm. 

Cá lăng có khả năng thích nghi môi trường nước lợ, ngọt và cho hiệu quả kinh tế cao. Hiện phong trào nuôi loài cá này đang phát triển mạnh tại các tỉnh ĐBSCL, vùng Đông Nam bộ và có thị trường tiêu thụ thuận lợi. Cuối năm 2006, tại huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai lần đầu tiên xuất “chuồng” 10 ngàn tấn cá thương phẩm trị giá hàng tỷ đồng. 

Sau 5 tháng triển khai, thạc sĩ Ngô Văn Ngọc và Khoa Thủy sản, Trường ĐH Nông Lâm TPHCM đã chuyển giao thành công quy trình sản xuất cá lăng nha cho Trung tâm Nghiên cứu và sản xuất giống thủy sản An Giang. Bà Nguyễn Thị Ngọc Trinh, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu và sản xuất giống thủy sản An Giang, cho biết, hiện nay, trung tâm đã chuyển giao cho bà con nông dân xuống giống nuôi thử nghiệm 100 ngàn con cá (cá cỡ từ 5-6cm) thương phẩm. Những con giống này có chất lượng và thích nghi rất tốt trong điều kiện nuôi ao và nuôi bè tại An Giang. Có thể khẳng định cá lăng vàng có sức sinh sản cao, ăn tạp, có thể nuôi mật độ dày và tăng trưởng nhanh. Theo bà, đợt này nuôi thành công với giá 83.000-85.000 đồng/kg, sắp tới trung tâm sẽ triển khai nuôi đại trà trong dân.

VŨ HÙNG – SGGP, 07/02/2007

Một số biện pháp phòng, trị bệnh cho cá lăng vàng nuôi lồng

Cá lăng vàng (Mystus nemurus).

Cá lăng vàng (Mystus nemurus) là loài cá nước ngọt bản địa có giá trị thương mại cao, thịt cá thơm ngon và chứa nhiều chất dinh dưỡng. Trong quá trình triển khai thực hiện đề tài “Xây dựng mô hình nuôi cá lăng vàng trong lồng trên hồ chứa miền núi”, các cán bộ kỹ thuật của Viện Nghiên cứu Nuôi trồng thủy sản I đã xây dựng mô hình nuôi cá lăng vàng trong lồng ở hồ chứa Quán Hài tại huyện miền núi Yên Thành (Nghệ An) nhằm đa dạng hóa đối tượng nuôi trong hồ và làm tăng hiệu quả kinh tế từ nuôi cá lồng trong hồ chứa.

Vào cuối mùa thu đầu mùa đông, khi nhiệt độ nước xuống thấp, cá lăng vàng nuôi thường mắc một số bệnh như bệnh ký sinh trùng (với tác nhân gây bệnh làIchthyophthyrius multifilus, Dactylogyrus sp., Trichodina sp.,… giun, sán), bệnh vi khuẩn (với tác nhân gây bệnh là Aeromonas hydrophila), bệnh nấm (Achlya sp.), và bị chết rải rác trong lồng.

Khi bị bệnh ký sinh trùng và bệnh vi khuẩn, trên da và mang của cá thường xuất hiện các đốm trắng nhỏ cùng với nhiều dịch nhày làm cho cơ thể cá có màu nhợt nhạt, hoặc bị lở loét trên thân, bị mòn vây… Cá bị bệnh nổi trên mặt nước từng đàn, bơi yếu hoặc quẫy nhiều do ngứa ngáy. Khi bị trùng bám nhiều ở mang, cá dễ bị ngạt thở. Cá bị bệnh nặng, yếu quá sẽ chết. Nếu bị bệnh nấm, trên các vây cá có nhiều sợi nấm bám tạo thành từng búi.

Dưới đây giới thiệu một số biện pháp phòng trị bệnh cho cá lăng vàng đã được áp dụng trong mô hình nuôi cá lăng vàng ở hồ chứa Quán Hài để bà con tham khảo.

  • Tắm nước muối:

Dùng nước muối nồng độ 2% để tắm cho cá lăng vàng trong khoảng 15 – 30 phút, tùy theo tình trạng sức khỏe của cá. Trong khi tắm cho cá phải thường xuyên theo dõi, nếu thấy cá yếu phải kịp thời dừng lại và vớt cá ra ngay.

  • Dùng thuốc kháng sinh:

Ngoài việc tắm cho cá bằng nước muối, còn dùng biện pháp trộn thuốc kháng sinh Streptomycine vào thức ăn cho cá với liều lượng 200 mg/kg cá, cho cá ăn liên tục trong 5 ngày. Khi trị bệnh bằng cách phối hợp giữa tắm và trộn kháng sinh vào thức ăn cho cá lăng vàng ăn, hiệu quả trị bệnh cao hơn hẳn, tỷ lệ nhiễm vi khuẩn và nấm ở cá giảm nhiều. Tuy nhiên, cần chú ý là chỉ dùng thuốc kháng sinh trị bệnh cho cá sau khi các cán bộ chuyên môn đã xác định được chủng vi khuẩn gây bệnh cho cá lăng vàng.

  • Dùng thuốc tẩy giun, sán:

Khi phát hiện cá lăng vàng bị nhiễm giun tròn Procamallanus sp. và sán dâySilurotaenia siluri, dùng thuốc tẩy giun sán Fugacar với liều lượng 150 mg/kg cá, lặp lại sau 15 ngày. Biện pháp này cho hiệu quả khá tốt.

  • Bổ sung vitamin C và men tiêu hóa:

Dùng vitamin C bổ sung vào thức ăn nuôi cá để tăng cường sức đề kháng cho cá lăng vàng với liều lượng 50 mg/kg cá/ngày. Sau thời gian trị bệnh cho cá, dùng men tiêu hóa Biocianmin với liều lượng 250 mg/kg cá/ngày sẽ giúp cá tăng cường sức đề kháng và hấp thụ tốt hơn thức ăn.

  • Treo túi vôi ở lồng:

Khi phát hiện cá lăng vàng bị nhiễm bệnh, thường xuyên dùng túi đựng vôi với liều lượng 3 kg vôi/10 m3 nước treo ở lồng nuôi để ổn định pH của nước, tăng hệ đệm cacbonat bảo đảm môi trường nuôi và phòng bệnh cho cá. Nếu pH của nước trong lồng nuôi quá thấp sẽ sản sinh ra nhiều khí CO2 và các khí độc khác như H2S, CH4, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của các vi sinh vật gây bệnh cho cá nuôi. 

Theo Thông tin Khuyến nông Việt Nam Số 15/2014 – Khuyến nông VN, 21/11/2014

Các tin có liên quan