Kỹ thuật nuôi cá leo

Một số kết quả bước đầu về nuôi thương phẩm cá Leo trên lồng bè

Cá Leo (Wallago attu Bloch & Schneider, 1801) là cá nước ngọt có kích thước lớn, tốc độ sinh trưởng nhanh, thịt ngon, được nhiều người ưa thích và có giá trị thương phẩm cao đang được nghiên cứu để làm đa dạng hóa đối tượng nuôi.

Cá Leo có tốc độ tăng trưởng nhanh, phát triển tốt khi nuôi trong ao, hồ, lồng, bè, có thể là đối tượng nuôi thay thế cho cá tra, cá basa. Là loài cá dữ, thức ăn của chúng chủ yếu là động vật, trong quá trình nuôi thương phẩm tận dụng được nguồn cá tạp làm thức ăn, hệ số chuyển đổi thức ăn 3,5 – 4. Ngoài ra, có thể sử dụng thức ăn tự chế với hàm lượng đạm từ 30 – 35%, hệ số chuyển hóa thức ăn 1,7 – 2,2%. Cá Leo có sức đề kháng với bệnh tốt, trong quá trình nuôi thương phẩm yêu cầu kỹ thuật nuôi không quá phức tạp, bệnh thường gặp trên cá leo chỉ là các bệnh ký sinh trùng trên da nên rất dễ chữa trị, ít tốn kém và ít rủi ro trong quá trình nuôi. Tỷ lệ sống khá từ 50 – 65%. Hiện nay giá bán trên thị trường khoảng 120.000 – 130.000 đồng/kg, cao hơn nhiều so với một số đối tượng cá truyền thống.

Nghệ An là một trong những tỉnh có tiềm năng lớn để phát triển nuôi trồng thủy sản trên hồ chứa với trên 1.250 hồ chứa thủy lợi vừa và nhỏ được phân bố đều trên các huyện đồng bằng, trung du và miền núi. Điển hình, một số hồ có diện tích mặt nước lớn như hồ thủy điện Bản Vẽ huyện Tương Dương 2.871 ha; hồ thủy điện Hủa Na huyện Quế Phong 1.161 ha; hồ Sông Sào huyện Nghĩa Đàn 760 ha; hồ Vực Mấu huyện Quỳnh Lưu 838 ha; hồ Khe Đá huyện Nghĩa Đàn 399 ha…

Được sự hỗ trợ của UBND tỉnh, Sở Khoa học và Công nghệ, Sở Nông nghiệp và PTNT, Trung tâm Giống thủy sản Nghệ An đã triển khai thành công dự án KHCN “Ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ xây dựng mô hình nuôi thương phẩm cá Leo (Wallago attu Bloch & Schneider, 1801) trong lồng bè trên thủy vực lớn tại Nghệ An”.

Cụm lồng được thiết kế gồm 10 ô lồng có quy cỡ (3 x 3 x 2 m), trong đó có 2 túi lưới dự phòng, phụ trợ công tác kỹ thuật như thay lưới, phân lọc cỡ cá, trị bệnh cá… Toàn bộ khung lồng được cố định bằng dây neo 4 góc, hệ thống neo này còn có tác dụng tự động nâng khung lồng lên xuống theo sự biến động mực nước hồ chứa. Mặt dưới khung lồng được kê trên hệ thống phao nổi, mặt trên khung lồng được ghép Mét cây tạo đường đi.

Túi lưới (lồng nuôi) được làm bằng lưới nylon đường kính 1,5 mm dệt không gút có độ bền cao, kích thước mắt lưới 2a = 1,5 cm và được gia cường bằng các dây giềng, 4 góc đáy của túi lưới có 4 dây để buộc chì giúp cho túi lưới luôn được định hình trong nước không bị thu hẹp diện tích và 4 góc trên được buộc cố định vào khung bè. Thể tích ngập nước mỗi ô lồng 10m3, tổng thể tích cụm lồng nuôi 100 m3. Mặt trên lồng được phủ lưới chống cá nhảy ra và cửa để cho cá ăn kích thước 0,60 m2, nắp lồng làm bằng lưới cước mắt lưới 2a = 2,5 cm.

Các đại biểu tham quan mô hình nuôi cá Leo trên lồng bè tại Nghệ An

Sau 2 năm triển khai thực hiện kết quả đạt được như sau:

  • Mật độ nuôi 30 con/m3, kích cỡ giống 12,5 – 13cm/con. Cá giống sau khi vận chuyển về được tắm qua nước muối (NaCl) 3% kết hợp với Rifamicine với liều lượng 300 mg/20 lít nước, từ 10 – 15 phút trước khi thả xuống lồng nuôi, tỷ lệ sống sau khi vận chuyển đạt 98% (2.940 con)
  • Thức ăn, sử dụng nguồn cá tạp (cá dầu) khai thác trực tiếp tại hồ, được băm cắt vừa cỡ miệng cá.
  • Định kỳ 1 tuần tiến hành vệ sinh lưới lồng, thường xuyên kiểm tra hệ thống lồng nuôi, tình trạng kết cấu của lồng, tình trạng an toàn của lưới lồng: Nếu xảy ra hiện tượng hư hỏng cần tiến hành sửa chữa và thay thế kịp thời để đảm bảo hệ thống lồng luôn được vận hành tốt nhất.
  • Kiểm tra sức khoẻ cá định kỳ 15 ngày/lần bằng cách nhấc nhẹ lưới lồng nuôi kiểm tra những con yếu có dấu hiệu bị bệnh được tắm thuốc và tách nuôi riêng sang lồng khác để chăm sóc tránh hiện tượng cá bị bệnh lây nhiễm sang cá khoẻ mạnh. Thường xuyên áp dụng công tác phòng bệnh chung: Sử dụng thức ăn đảm bảo chất lượng, số lượng, đảm bảo cho ăn đúng khẩu phần. Định kỳ 15 ngày bổ sung thuốc bổ, vitamin C nhằm tăng cường sức đề kháng cho cá. Đảm bảo môi trường sống tốt cho cá, dịch chuyển vị trí lồng ra vị trí nước sâu khi môi trường nước xấu. Thường xuyên vệ sinh lồng nuôi hoặc sử dụng các hóa chất, dung dịch khử trùng, sát khuẩn như: treo túi thuốc tím, túi vôi… quanh lồng theo định kỳ 10 – 15 ngày/lần và đặc biệt cần tăng cường thêm vào mùa mưa lũ…

Sau thời gian 18 tháng nuôi cá đạt kích cỡ thương phẩm tiến hành thu hoạch. Trước ngày thu hoạch ngừng không cho cá ăn. Thao tác thu cá phải nhẹ nhàng tránh xây xát, làm cá chết ảnh hưởng tới giá trị thương phẩm của cá. Kết quả thu được cụ thể như sau:

Số lượng thả

Số lượng thu

Thức ăn sử dụng

(Kg)

FCR

Tỷ lệ sống

(%)

Năng suất

(Kg/m3)

Con

Kg

Con

Kg

2.940

55

1.700

2.840

11.132

3,9

57,8

28,4

Kích cỡ trung bình đạt 1,67 kg/con (trong đó lớn nhất đạt 2,1 kg/con, nhỏ nhất đạt 1,34 kg/con).

Từ những kết quả trên một số hộ nuôi đã tiến hành thử nghiệm nuôi trong ao đất sử dụng thức ăn công nghiệp đều đạt kết quả cao: cá nhanh lớn, tiêu thụ khá dễ. Bên cạnh đó Sở Nông nghiệp và PTNT, Sở Khoa học và Công nghệ đã đồng ý cho Trung tâm giống thủy sản Nghệ An du nhập, tuyển chọn và đưa cá Leo vào sinh sản nhân tạo vào năm 2016.

Phan Tiến Chương – Trung tâm giống thủy sản Nghệ An – Khuyến Nông VN, 24/11/2015

Cá leo – đối tượng nuôi nhiều triển vọng

Giám đốc Trung tâm giống thủy sản An Giang, KS. Nguyễn Thị Ngọc Trinh cho biết, qua thời gian nghiên cứu sinh sản nhân tạo giống cá leo, trung tâm đã cho sinh sản nhân tạo và ươm nuôi thành công, bắt đầu sản xuất con giống đạt chuẩn cung cấp cho nông dân. Cá leo thương phẩm hiện có giá trị kinh tế cao (80.000 – 100.000 đồng/kg), thời gian nuôi ngắn, cá lớn nhanh, là đối tượng nuôi mới nhiều triển vọng.

Từ năm 2006 đến năm 2008, Trung tâm giống thủy sản An Giang phối hợp với Khoa thủy sản (ĐH Cần Thơ) tiến hành việc nghiên cứu quy trình sinh sản nhân tạo và ương giống cá leo. Qua hai năm nghiên cứu, những con giống đầu tiên được sản xuất bắng phương pháp sinh sản nhân tạo đã được đưa ra cho nông dân nuôi thử nghiệm trong ao tại thành phố Long Xuyên. Đánh giá bước đầu là cá tăng trưởng rất nhanh, sau gần 6 tháng nuôi cá đạt trọng lượng 1 kg/con. KS. Trinh cho biết, cá có tốc độ phát triển rất nhanh, chất lượng thịt rất ngon nên được thị trường ưa chuộng. Có thể nuôi cá leo trong ao, hồ, lồng bè; thức ăn chính của cá leo là cá tạp. Năm 2009, trung tâm tiếp tục hoàn thiện quy trình sản xuất giống cá leo theo hướng nâng cao các thông số kỹ thuật trong sản xuất giống, đảm bảo tính hiệu quả khi tổ chức sản xuất đại trà. Từ tháng 3 – 7/2009, trung tâm đã cho sinh sản 6 đợt, thu được trên một triệu cá bột và đã đưa ra thị trường 35.000 con giống. Quy trình sinh sản nhân tạo đã được hoàn thiện với hệ số thành thục đạt từ 8 – 10%, tỷ lệ thụ tinh 70 – 85%, tỷ lệ nở 80% – 85%. Ở giai đoạn ương giống, trung tâm đang tiếp tục hoàn thiện quy trình để nâng tỷ lệ sống của cá giống ươm trong ao và trong bể composite. Hiện Trung tâm giống thủy sản An giang đã đưa cá leo vào đối tượng sản xuất chính của Trung tâm. Dự kiến, từ nay đến cuối năm sẽ cung cấp cho thị trường từ 200.000 – 500.000 con giống và 1.000.000 con cá bột. Giá cá giống đạt chuẩn từ 1.000 – 2.000 đồng/con. Sắp tới sẽ nghiên cứu quy trình nuôi thương phẩm cá leo theo hướng năng suất, chất lượng cao và hướng tới phát triển bền vững thông qua việc nghiên cứu thay đổi thức ăn cho cá leo từ cá tạp sang thức ăn tự chế và thức ăn công nghiệp.

Giá cá leo thu mua thấp nhất ở An Giang thời gian qua là 50.000 – 60.000 đồng/kg, so với các đối tượng nuôi khác, cá leo hứa hiện nhiều triển vọng. Thành công trong sản xuất giống cá leo kết thúc việc phụ thuộc hoàn toàn vào con giống tự nhiên, đảm bảo việc bảo tồn các giống, loài thủy sản quý hiếm trên sông Mekong; đồng thời cũng mở ra một cơ hội mới cho ngư dân ĐBSCL làm giàu từ một mô hình nuôi mới: Nuôi cá leo thương phẩm trong ao và trong lồng, bè.

KS. Trinh lưu ý, ao nuôi cá tra có thể sử dụng để nuôi cá leo, mức nước dao động 1,5 – 2 m. Mật độ nuôi ao 5 – 10 con/m2 là tốt nhất, trong thí nghiệm của Trường ĐH Cần Thơ đang nuôi ở mật độ 20 – 30 con/m2, các yếu tố môi trường cũng tương tự như các loài cá nuôi, không có gì sai khác. Nguồn thức ăn chính của cá leo là cá tạp nước ngọt hoặc cá biển băm nhỏ vừa cỡ miệng, cho ăn trong sàn để dễ quản lý. Có thể nuôi ghép cá rô phi để tạo nguồn thức ăn sẵn có trong ao. Hệ số thức ăn hiện nay khoảng 4 – 5. Thời gian nuôi 5 – 6 tháng cá đạt 1 kg. Hiện nay chưa có công ty nào mua cá, nhưng đầu tiêu thụ hiện nay đang có thương lái tại TP.HCM tìm nguồn cá thịt để mua với kích cỡ trên 800 g. Giá theo thị trường và thỏa thuận.

Cá leo ngoài thiên nhiên bị khai thác cạn kiệt, hiện nay được xếp vào loài cá quý hiếm, cần được bảo tồn. Do đó, sinh sản nhân tạo thành công góp phần bảo tồn, đồng thời cung cấp thêm đối tượng nuôi mới có giá trị kinh tế cao. Cá leo có tên khoa học là Wallago attu thuộc họ Siluridae, bộ Siluriforme. Đây là loài cá nước ngọt, có giá trị kinh tế cao, chất lượng thịt thơm ngon. Cá leo phân bổ rộng ở Nam và Đông Nam châu Á, cá thường sống trong hang dọc những con sông, hồ và bể lớn, có thể sống cả ở nước ngọt và nước lợ. Nhiệt độ thích hợp để cá leo sống và sinh trưởng là 22 – 25 độ C. Trong các vực nước tự nhiên, cá có tập tính bắt mồi và ăn về đêm, thức ăn là các loài tôm, tép và cá có kích thước nhỏ. Cá leo là loài cá có kích thước lớn, khi trưởng thành, chiều dài cá leo có thể đạt kích thước dao động 80 – 200 cm. Ở Campuchia đã bắt được cá leo chiều dài 200 cm, kích thước thường gặp là 80 cm. Đây là một trong 97 loài cá kinh tế nước ngọt được thống kê ở Việt Nam và phân bố chủ yếu ở Nam bộ. Ở ĐBSCL, cá xuất hiện nhiều vào tháng 5 – 8 (âm lịch) hàng năm. Cá leo có thể chế biến thành nhiều món ăn ngon.

ANH ĐỨC – Khoa học phổ thông, 27/11/2009

Trung tâm giống thuỷ sản An Giang sản xuất giống cá leo

Cá leo có tên khoa học là (Wallago attu BLOCH & SCHNEIDER, 1801), thuộc Họ Siluridae, Bộ Siluriforme. Đây là loài cá nước ngọt, có giá trị kinh tế cao, chất lượng thịt thơm ngon. Cá leo phân bổ rộng ở Nam và Đông Nam Châu Á như ở Pakistan, India, Sri lanka, Nepal, Bangladesh, Myanma, Lào, Campuchia, Thái lan, Malaysia, Indonesia và Việt Nam. Cá thường sống trong hang dọc những con sông, hồ và bể lớn, có thể sống cả ở nước ngọt và nước lợ. Nhiệt độ thích hợp để cá leo sống và sinh trưởng là 22-25 độ C trong các vực nước tự nhiên, cá có tập tính bắt mồi và ăn về đêm, thức ăn là các loài tôm, tép và cá có kích thước nhỏ. Cá leo là loài cá có kích thước lớn, khi trưởng thành, chiều dài cá leo có thể đạt kích thước dao động 80 – 200cm. Ở Cambodia đã thu được mẫu cá đạt chiều dài 200cm, kích thước thường gặp là 80cm. Đây là một trong 97 loài cá kinh tế nước ngọt được thống kê ở Việt Nam và phân bố chủ yếu ở Nam bộ (Khoa Thủy sản – ĐH Cần Thơ)

Ở Đồng bằng sông Cửu Long cá xuất hiện nhiều vào tháng 5- 8 (âm lịch) hàng năm. Vào thời điểm này, ngư dân của tỉnh An Giang có dịp trổ tài đánh bắt cá leo trên sông lớn. Nhiều ngư dân đánh lưới được trên sông những con cá trọng lượng lớn khoảng 4 – 5kg/con. Cá leo có thể chế biến thành nhiều món ăn ngon. Du khách trong và ngoài nước khi đến với An Giang, được chiêu đãi món cá leo kho lạt, cá leo chiên tươi, cá leo muối chiên… đều có chung ý tưởng là món ăn rất tuyệt và rất đặc trưng.

Cá leo hiện nay được xếp vào loài cá quí, hiếm cần được bảo tồn. Về mặt kinh tế, đây cũng là một đối tượng có giá trị kinh tế cao, có thể chọn làm đối tượng nuôi mới để đa dạng hóa đối tượng thủy sản nuôi, phát triển thêm mô hình nuôi thủy sản và tăng thu nhập cho nông, ngư dân.

Được sự đồng ý và đầu tư kinh phí từ Sở Khoa học và Công nghệ An Giang, từ năm 2006 – 2008, Trung tâm Giống Thủy sản An Giang phối hợp với Khoa Thủy sản – trường Đại học Cần Thơ đã tiến hành việc nghiên cứu qui trình sinh sản nhân tạo và ương giống cá leo. 

Đàn cá bố mẹ được Trung tâm nhập từ nước bạn Campuchia với số lượng 300 con, trọng lượng bình quân 1,2kg/con được nuôi vỗ thành thục trong ao tại trại giống của Trung tâm. Ghi nhận từ thực tế cho thấy, cá Leo bố mẹ hoàn toàn có khả năng thành thục sinh dục trong điều kiện nuôi vỗ trong ao với chế độ dinh dưỡng thích hợp.

Kết quả nghiên cứu trong 2 năm (2006 – 2008), các cán bộ kỹ thuật của Trung tâm đã xác định được các thông số kỹ thuật cho qui trình sinh sản nhân tạo cá leo. Những con giống đầu tiên được sản xuất bằng phương pháp sinh sản nhân tạo đã được đưa ra cho nông dân nuôi thử nghiệm trong ao tại Thành phố Long Xuyên. Đánh giá bước đầu là cá tăng trưởng rất nhanh, sau gần 6 tháng nuôi cá đạt trọng lượng 1kg/con .

Trong năm 2009, Trung tâm tiếp tục hoàn thiện qui trình sản xuất giống cá leo nhằm mục đích nâng cao các thông số kỹ thuật trong sản xuất giống, đảm bảo tính hiệu quả khi tổ chức sản xuất đại trà. Từ tháng 3 – 7/2009, các cán bộ kỹ thuật của Trung tâm đã cho sinh sản 6 đợt, thu được trên 1.000.000 con cá bột và đã đưa ra thị trường 35.000 con giống. Qui trình sinh sản nhân tạo đã được hoàn thiện với hệ số thành thục đạt từ 8 -10%, tỷ lệ thụ tinh 70 – 85%, tỷ lệ nở 80% – 85% .

Ở giai đoạn ương giống, Trung tâm đang tiếp tục hoàn thiện qui trình để nâng tỷ lệ sống của cá giống ương trong ao và trong bể composite .

Hiện nay, Trung tâm Giống Thủy sản An Giang đã đưa cá leo vào đối tượng sản xuất chính của Trung tâm. Dự kiến, từ nay đến cuối năm sẽ cung cấp cho thị trường từ 200.000 – 500.000 con giống và 1.000.000 con cá bột.

Sau đối tượng cá lăng nha, cá leo là một đối tượng mới được Sở Khoa học và Công nghệ An Giang đầu tư kinh phí cho nghiên cứu sản xuất giống và kết quả nghiên cứu được Trung tâm Giống Thủy sản An Giang ứng dụng vào sản xuất rất có hiệu quả.

Thành công trong sản xuất giống cá leo kết thúc việc phụ thuộc hoàn toàn vào con giống tự nhiên, đảm bảo việc bảo tồn các giống, loài thủy sản quí, hiếm trên sông Mêkong. Đồng thời cũng mở ra một cơ hội mới cho ngư dân Đồng bằng sông Cửu Long làm giàu từ một mô hình nuôi mới: nuôi cá leo thương phẩm trong ao và trong lồng, bè.

Hiện nay, Sở Khoa học và Công nghệ An Giang đang tiếp tục đầu tư kinh phí cho Khoa Thủy sản – trường ĐH Cần Thơ nghiên cứu qui trình nuôi thương phẩm cá leo tại An Giang nhằm xác định qui trình nuôi theo hướng năng suất, chất lượng cao và hướng tới phát triển bền vững thông qua việc nghiên cứu thay đổi thức ăn cho cá leo từ cá tạp sang thức ăn tự chế và thức ăn công nghiệp.

Trong qui hoạch phát triển thủy sản của tỉnh An Giang đã xác định đa dạng hóa đối tượng thủy sản nuôi để khai thác có hiệu quả các loại hình thủy vực là một trong chương trình có tính chất cấp thiết cần triển khai nhanh và triển khai có hiệu quả. Cá leo có thể được xem là đối tượng nuôi mới có hiệu quả kinh tế cao được đưa vào chương trình này .

Nông, ngư dân trong và ngoài tỉnh có nhu cầu được cung cấp con giống để nuôi và hướng dẫn kỹ thuật nuôi cá thương phẩm có thể đến liên hệ với Trung tâm Giống Thủy sản An Giang để được tư vấn, hướng dẫn.

Nguyễn Thị Ngọc Trinh – Trung tâm Giống Thủy sản An Giang – Sở KHCN AN Giang, 11/03/2011

Các tin có liên quan