Sản xuất giống và nuôi cá chép chọn giống V1
Cá chép chọn giống V1 (cá chép lai 3 máu) là kết quả lai ghép 3 dòng (cá chép trắng VN, cá chép vẩy Hungari với cá chép vàng Indonesia), vừa được Viện Nghiên cứu nuôi trồng thủy sản I (Bộ Thủy sản) chọn tạo thành công. Cá chép giống V1 nuôi mau lớn, cho năng suất cao, thịt thơm ngon, bán được giá trên thị trường.
Ao nuôi vỗ thành thục cá bố mẹ
Ao nuôi cá cái có diện tích 500 – 2.000m2, mức nước sâu 1,2 – 1,5m, đáy có lớp bùn dày 0,15 – 0,2m, bờ cao, không bị rò rỉ, độ pH từ 6,5 – 8. Ao nuôi cá đực chỉ cần rộng 400 – 1.000m2 và cũng có những điều kiện như trên, phải tẩy vôi cho ao với lượng 7- 10kg vôi/100m2. Tuổi cá bố mẹ thích hợp là 2 – 6 tuổi; cỡ nhỏ nhất cá cái: 1kg/con, cá đực: 0,7kg/con. Mật độ nuôi cá cái 10kg/100m2, cá đực 15kg/100m2. Hàng tuần bón 30 – 40kg phân lợn và 30 – 40kg phân xanh/100m2 ao. Từ tháng 10 – 12 dùng thức ăn hỗn hợp có lượng đạm trên 25% (gồm cám gạo, bột ngô, đỗ tương, bột cá) cho ăn hàng ngày. Lượng thức ăn bằng 3 – 5% khối lượng cá có trong ao. Từ tháng 1 – 2 mỗi ngày cho cá ăn thêm 50 gam thóc mầm.
Cho cá chép đẻ tự nhiên
Chuyển cá bố mẹ vào ao nước sạch. Làm các khung thả bèo lục bình, rong hoặc các loại sợi khác để làm giá thể cho trứng bám sau khi cá đẻ. Vớt các giá thể có trứng bám chuyển sang bể ấp hoặc xếp vào sàn ấp, thường xuyên tưới nước giữ ẩm.
Cho cá đẻ theo phương pháp nhân tạo
Tiêm kích dục tố cho cá cái 2 lần (1 lần vào lúc 5 – 6 giờ chiều, cứ 1 – 2kg cá tiêm 1 não chép; lần 2 vào lúc 1 – 2 giờ sáng, 1kg cá tiêm 3 não chép). Ở nhiệt độ nước 20 – 250C, từ 6 – 8 giờ sau khi tiêm lần 2 trứng sẽ rụng. Khi đó phải bắt cá nhẹ nhàng, tay bịt lỗ sinh dục, bọc cá trong vải mềm, dùng vải màn thấm khô bụng cá, vuốt nhẹ theo lườn bụng cá xuôi từ phía đầu xuống đuôi. Trứng được hứng vào các bát men lớn hoặc chậu nhựa, bắt ít nhất 2 – 3 con cá đực vuốt nhẹ vào bát hoặc chậu trứng. Dùng lông cánh gà khuấy trộn đều trứng, sau đó đổ nước ngập trứng và tiếp tục khuấy đều trong 5 – 10 phút để trứng thụ tinh. Dùng giá thể để cho trứng bám và đưa vào bể hay sàn ấp… Cá bột sẽ nở hết sau 3 – 5 ngày ở nhiệt độ 24 – 28oC.
Tẩy dọn kỹ ao ương cá bột và bón phân chuồng, phân xanh. Mật độ ương trung bình 100 con/m2. Trong 3 tuần ương, mỗi tuần bón 10 – 15kg phân chuồng, 10- 15kg phân xanh/100m2 ao; dùng phân đạm và lân để bón điều chỉnh màu nước. Cho cá ăn bột cám gạo, bột đậu tương, bột cá nhạt trộn lẫn, sao cho đạt lượng đạm 25 – 30%. Trong 10 ngày đầu, thức ăn phải nấu chín thành cháo, pha vào nước rồi rải đều quanh ao. Những ngày sau, cho cá ăn thức ăn dạng bột, mỗi ngày cho ăn 2 lần vào sáng sớm và chiều mát: cứ 1 vạn cá trong tuần thứ nhất cho ăn 0,2 – 0,4 kg thức ăn tinh; tuần 2 từ 0,4 – 0,5kg; tuần thứ 3 từ 0,5 – 1kg; sau 21 – 25 ngày ương tỉ lệ sống của cá đạt 40 – 70%, cỡ cá 0,6 – 1g/con.
Bón phân và cho cá ăn khi ương cá bột thành cá hương
Điều khác là mật độ ương thưa hơn (10 – 15 con/m2) và phải cho cá ăn nhiều hơn. Cứ 1 vạn cá trong tuần 1 – 2 cho ăn 1 – 4kg; tuần 3 – 4: 4 – 6kg, tuần 5 – 6: 6-8,5kg, tuần 7: 8,5 – 10kg. Cứ 100m2 ao mỗi tuần bón 25 – 30kg phân chuồng, 20 – 25kg phân xanh. Sau 45 – 50 ngày ương, tỉ lệ cá sống bình quân đạt 50 – 70%, cỡ 15 – 20g/con.
Khi nuôi ghép nhiều loài cá trong ao cá thịt chỉ nên thả cá chép với tỉ lệ 5 – 10%, 1 con cá chép cần từ 10 – 20m2 đáy ao. Khi nuôi cá chép ở ruộng trũng có thể tăng tỉ lệ thả cá chép tới 60%. Khi nuôi đơn cá chép muốn có cá thịt cỡ 0,3 – 0,4 kg/con sau 6 – 8 tháng nuôi thì cần thả giống với mật độ 1 con/1,5 – 2 m2; cỡ 0,7 – 0,8 kg/con thả mật độ 1 con/4 – 5m2. Để tạo ra sự phát triển động vật đáy làm thức ăn cho cá cần bón thêm phân chuồng và phân xanh mỗi loại 4 – 6 tấn/ha ao. Dùng cám gạo, bột đậu tương, khô dầu, bột cá nhạt trộn đều với nước rồi nắm lại thành từng nắm nhỏ để cho cá ăn. Theo cách nuôi này, cá chép đạt tỉ lệ sống 80 – 90%; sau 8 tháng nuôi cỡ cá trung bình đạt 0,5 – 0,7 kg/con, năng suất bình quân đạt 2 tấn/ha.
NTNN, 12/8/2003
Công nghệ sản xuất giống cá chép V1
Cá chép V1 là kết quả của chương trình chọn giống cá chép và lưu giữ nguồn gen thuỷ sản, do Phó Giáo sư, Tiến sỹ Trần Mai Thiên nguyên Viện trưởng chủ trì và tập thể cán bộ công chức Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thuỷ sản I thực hiện.
Cá chép V1 đã tập hợp được những đặc điểm di truyền quý : Chất lượng thịt thơm ngon, khả năng chống chịu bệnh tốt của cá chép Việt Nam. Thân ngắn và cao cùng tốc độ tăng trọng nhanh của cá chép Hungary, đẻ sớm và trứng ít dính của cá chép Inđônêxia.
Nuôi vỗ cá bố mẹ
Cá đưa vào nuôi vỗ có ngoại hình đẹp, khoẻ mạnh không có biểu hiện mắc bệnh. Cá đực từ 0,8 kg/cá thể trở lên, cá cái từ 1,0 kg/cá thể trở lên. Cá đực và cá cái được nuôi riêng ở các ao khác nhau với mật độ 1 kg/4 – 5m2.
Thời gian nuôi vỗ: Cá được nuôi vỗ từ cuối tháng 9 năm trước, đến tháng 2 năm sau cá có thể bắt đầu sinh sản.
Chăm sóc: Liều lượng thức ăn chiếm 3 – 5% trọng lượng quần đàn. Nuôi vỗ tích cực hàm lượng thức ăn được giảm dần từ 5 – 3% tuỳ thuộc vào thể trạng cá qua kiểm tra định kỳ (1 tháng một lần). Nuôi vỗ thành thục thường trước khi cho cá đẻ từ 30 – 45 ngày đối với chính vụ và 10 – 15 ngày với cá đẻ tái phát. Trong thời gian nuôi vỗ thành thục cần cho cá ăn thêm mầm thóc.
Chọn cá cho đẻ
Chọn cá cái có bụng mềm, phần phụ sinh dục màu hồng. Hạt trứng rời nhau, căng đều, màu sáng trắng. Cá đực được chọn là những cá thể khi vuốt nhẹ bụng gần phần phụ sinh dục thấy có sẹ màu trắng sữa.
Kích dục tố
Kích dục tố thường dùng là LRH-A kết hợp với DOM. Cá cái được tiêm kích dục tố 2 lần. Lần 1 tiêm 1/4 – 1/5 lượng thuốc cần tiêm, sau khoảng 6 đến 8 giờ tiêm hết số thuốc còn lại. Cá đực chỉ tiêm 1 lần, trước khi tiêm lần 2 cho cá cái khoảng 2 giờ.
Thu trứng và sẹ
Trứng cá được vuốt vào bát men hoặc nhựa có đường kính khoảng 18 – 22 cm, lòng bát phải trơn bóng. Sau khi đã thu được trứng cần nhanh chóng vuốt sẹ vào bát trứng để thụ tinh cho trứng. Trứng của mỗi cá cái cần được thụ tinh tối thiểu bởi tinh của 3 cá đực.
Thụ tinh cho trứng
Sử dụng lông vũ khô của gia cầm khuấy nhẹ nhàng, đảo đều trứng với sẹ trước khi cho 5 – 10 ml nước sạch vào bát trứng. Sau khi cho nước sạch vào tiếp tục khuấy thêm 1 – 3 phút.
Khử dính cho trứng
Trứng được khử dính bằng dung dịch nước dứa (DDKD). Lượng DDKD thường gấp 5 – 7 lần khối lượng trứng cần được khử dính.
Ðổ khoảng 1/3 – 1/4 lượng DDKD vào bát trứng đã được thụ tinh khuấy đều cho trứng tách rời nhau. Sau đó bổ sung số lượng DDKD còn lại, nhẹ nhàng khuấy đều từ 20 – 25 phút tuỳ thuộc vào nhiệt độ không khí tại thời điểm khuấy trứng. Sau 20 – 25 phút kiểm tra độ dính của trứng, nếu trứng không dính lại với nhau là được.
Ấp trứng
Trứng đã khử dính, rửa sạch được ấp trong bình vây có thể tích 300 lít với mật độ tối đa 40.000 trứng/lít.
Lượng nước qua bình khoảng 4 lít/giây. Trong quá trình ấp trứng cần vệ sinh mạng tràn thường xuyên, nhất là khi trứng nở.
Ương nuôi cá bột lên cá hương
Cá bột được ương nuôi trong ao với mật độ 100 – 150 cá thể/m2. Dùng bột đậu tương nghiền mịn trong 7 ngày đầu, 7 ngày tiếp theo sử dụng thức ăn dạng bột mịn.
Ðịa chỉ liên hệ : Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thuỷ sản I, Ðình Bảng, Từ Sơn, Bắc Ninh
Cho cá chép đẻ tự nhiên trong ao
- Mùa vụ cho đẻ: Mùa đẻ chính là mùa xuân và mùa thu.
- Cho cá đẻ tự nhiên
a.Chọn thời tiết thích hợp: Nhiệt độ thích hợp nhất từ 18-250C. Trời lạnh dưới 180C cá chép không đẻ. Tốt nhất là những ngày đầu xuân, hôm nào trời ấm áp, đêm nằm chỉ đắp chăn đơn, bên ngoài nghe tiếng ếch nhái kêu inh ỏi là hôm ấy chép đẻ tốt.
b.Tuyển chọn cá cho đẻ: Trước khi cho đẻ phải kiểm tra cá bố mẹ. Nếu thấy cá có hiện tượng nhô vây, hở đuôi hay lượn sát ven bờ là trứng, sẹ của cá đã già, cá đã muốn đẻ. Bắt vài con lên kiểm tra cho chính xác. Cách kiểm tra như sau:
Cá cái: Khi sắp đẻ, bụng to kềnh, lật ngửa lên thấy giữa bụng có một ngấn hằn lõm vào kéo dài từ vây ngực đến tận hậu môn. Sờ vào bụng thấy mềm nhũn, da bụng mỏng, nhất là phía cuối. Lỗ sinh dục đỏ thẫm và hơi lồi. Nếu vuốt nhẹ vào thành bụng, trứng sẽ chảy ra, màu vàng sẫm, trong suốt và rời thành từng cái là trứng đã già, những cá này có thể đẻ ngay đợt đầu.
Cá đực: Lúc sắp phóng tinh trùng, nếu vuốt nhẹ hoặc cầm mạnh cá, tinh dịch cũng chảy ra có màu trắng như nước vo gạo và đặc sền sệt như sữa hộp. Trường hợp tinh dịch còn loãng, tuy vẫn có màu trắng nhưng không đặc quánh là sẽ còn non.
3.Chọn nơi cá đẻ
Chọn ao: diện tích rộng hay hẹp tùy thuộc theo số lượng cho cá đẻ nhiều hay ít. Chọn ao có đáy trơ, tốt nhất là cát pha sét. Nguồn nước đưa vào ao phải sạch, không chua mặn, không ô nhiễm. Ao được tẩy dọn kỹ, có mức nước sâu khoảng 1m.
Chọn ruộng: Ruộng thường có diện tích 150-200m2, đáy đất pha cát, có thể lấy nước vào dễ dàng và luôn giữ được nước. Ruộng phải được cày bừa san phẳng và phơi mấy ngày cho se cứng đáy ( không được nứt nẻ)
Bờ ruộng cao hơn mức nước, cao nhất khoảng 50-60cm, có máng dẫn nước và cống tiêu nước thuận tiện. Cửa cống dẫn nước phải chắn phên để ngăn cá tạp theo vào ruộng. Trước khi cho cá đẻ, tháo nước vào ruộng sâu khoảng 40-50cm. Nếu ruộng đó còn dùng để ương trứng nên đào sẵn ở góc ruộng một cái hố sâu khoảng 4m2, sâu 0,6m và có xẻ mương sâu 0,2m làm đường cho cá đi lại lên xuống kiếm ăn. Mặt hố có che lá cọ hoặc làm giàn trồng mướp, bầu, bí để che nắng cho cá.
- Chuẩn bị ổ đẻ
Chọn các loại xơ mềm có nhiều lông tơ nhỏ để làm ổ cho cá chép đẻ trứng cá dễ bám như: Bèo tây, xơ dừa, sợi nilon. Phổ biến nhất là dùng bèo tây, nếu dùng bèo phải chọn loại rễ bánh tẻ. Bỏ hết rễ bèo thối, rửa sạch đất, cặn bám ở rễ và sát trùng bằng nước muối 5% (0,5kg muối ăn pha trong 10 lít nước) hoặc xanhmalachit nồng độ 3mg/lít ngâm 15 phút rồi vớt ra thả vào ổ đẻ. Dùng cây nứa quây bèo thành khung hình chữ nhật để khi cá vật đẻ không làm bèo tản mát.
- Thành lập nhóm cá đẻ
Trước khi cho cá đẻ cần xác định tỷ lệ đực, cái thích hợp để lượng tinh dịch đủ đảm bảo cho số trứng đẻ ra được thụ tinh hoàn toàn. Cá chép thụ tinh ngoài, tinh dịch của cá đực phóng vào bị nước pha loãng, nếu ít tinh dịch sẽ không đảm bảo cho tinh trùng gặp được trứng để thụ tinh. Trong điều kiện nuôi vỗ tốt có thể ghép 1 cá cái+ 2cá đực, cũng có nơi ghép 2 cá cái + 3 cá đực, tỷ lệ trứng thụ tinh vẫn cao.
Cho cá đẻ tự nhiên cũng cần lưu ý:
- Kiểm tra ao, ruộng… nơi cá đẻ, xem nguồn nước, chất lượng nước và đặc biệt là thời tiết phải ấm áp, đạt 18-250C.
- Khi thả nên thả cá cái vào buổi sáng, thả cá đực vào buổi chiều cùng ngày. Nếu thời tiết thuận lợi, cá có thể đẻ từ 3-4 giờ tới 7-8 giờ sáng
- Nếu 5 giờ sáng chưa thấy cá vật đẻ phải bơm nước vào ao hay ruộng, thời gian bơm từ 1-2giờ nhằm kích thích cho cá đẻ. Cá có thể đẻ 2 đêm liên tục, khi trứng bám vừa phải thì thay ổ mới. Nếu để 2 đêm liền cá vẫn không đẻ, phải bắt cá trở lại ao nuôi vỗ tiếp, khoảng 20-30 ngày sau lại cho cá đẻ.
NNVN, 14/5/2004
Ương cá chép lai ba máu
Cá chép lai ba máu được tạo ra từ các dòng: cá chép vàng trắng của VN, cá chép Hungari và cá chép vàng Indonesia. Để có cá chép lai giống nuôi thương phẩm, ngay từ khi ương cá bột lên cá hương cần chú ý những biện pháp sau:
Ao nuôi
Chọn ao nuôi ở nơi không bị cớm rợp, dễ quản lý, chăm sóc. Diện tích ao 200-2.000m2, sâu từ 0,8-1m, có bờ ao chắc chắn, không rò rỉ nước, mái bờ phía lòng không có hang hốc. Đỉnh bờ cao hơn mực nước ít nhất 0,5m.
- Đáy ao ít bùn, bằng phẳng và dễ tháo cạn nước. Nước cấp cho ao phải sạch, không bị ô nhiễm. Trước khi ương cá, ao phải được cải tạo kỹ: làm cạn nước, bốc vét bùn (mức bùn không quá 15cm). Dùng vôi để cải tạo ao với lượng từ 8-10kg/100m2 ao, rải vôi khắp đáy ao và tiến hành vào ngày nắng.
- Phơi ao từ 1-2 ngày, sau đó dẫn nước ngập đáy ao từ 20-30cm, kiểm tra ao bắt diệt cá rô, cá quả còn sót; dùng phân chuồng ủ hoai bón cho ao để gây màu nước, tạo thức ăn ban đầu cho cá với lượng phân từ 20-30kg/100m2, rải đều đáy ao.
- Dẫn nước vào ao cho đủ mức quy định và kiểm tra các điều kiện môi trường đạt yêu cầu mới thả cá: pH 6,5-8; oxy hoà tan 3mg/lít trở lên; độ trong của nước 20-30cm; không có địch hại của cá trong ao…
Cá chép lai trước khi thả vào ao phải được kiểm tra chất lượng theo tiêu chuẩn: màu sắc, ngoại hình, trạng thái hoạt động.
Cách kiểm tra: thả cá bột vào bát nước sạch, nếu cá có màu ghi sẫm, bơi chìm dưới nước, thân cá không dị hình là cá tốt.
- Trước khi thả cá ra ao đem túi nilon chứa cá bột thả xuống ao ngâm 15-20 phút cho cá quen môi trường nuôi, rồi mở túi cho cá từ từ ra ao, không nên thả cá bột vào ngày nắng gắt hoặc đang mưa rào.
- Dùng thức ăn tổng hợp gồm: bột cá nhạt 30% + khô đỗ tương 10% + cám gạo 60% cho cá bột ăn trong quá trình ương. 10 ngày đầu thức ăn nấu chín thành cháo, pha loãng trong nước té đều ao. Ngày cho ăn 2 lần vào sáng sớm và chiều mát với lượng 1 vạn cá bột/0,2-0,4kg thức ăn/ngày; từ ngày thứ 11-18 cho ăn từ 0,4-0,5kg/vạn cá bột/ngày; từ ngày 19 đến thu hoạch cho ăn 0,5-1kg/vạn cá bột/ngày.
- Trong quá trình nuôi cần bổ sung thêm phân chuồng từ 20-30kg/100m2. Tuần bón một lần và hoà phân trong nước té đều khắp ao.
- Kiểm tra ao thường xuyên để phát hiện rò rỉ nước, địch hại của cá để kịp thời phòng ngừa. Để bắt cá rô, cá quả có thể dùng lưới hoặc cắm câu, dùng dầu hoả đổ vào khung nổi kéo rê khắp mặt ao. Diện tích khung từ 2-4m2, dùng 0,2-0,5 lít dầu hoả đối với ao 200m2.
- Sau khi ương 25 ngày tiến hành thu hoạch cá. Trước khi thu hoạch 4-5 ngày tiến hành luyện cá (dùng cành rào kéo đục ao, làm vào buổi sáng, mỗi ngày một lần). Sau mỗi lần luyện cá cho thêm nước vào ao cho đủ quy định. Dùng lưới cá hương kéo bắt dần, tháo cạn nước ao dùng vợt bắt toàn bộ.
NNVN, 13/5/2004
Kỹ thuật nuôi cá chép giòn tại Khánh Hòa
Cá chép giòn thực chất là cá chép mà chúng ta vẫn thường ăn. Sự khác biệt giữa cá chép giòn và cá chép thường là thịt cá chép giòn dai, giòn, săn chắc, bụng không có mỡ. Cá chép giòn không phải do giống mà cần phải sử dụng một loại thức ăn đặc biệt để nuôi đó là hạt đậu tằm.
Để nuôi cá chép giòn, phải thực hiện qua hai giai đoạn: Giai đoạn 1 sử dụng giống cá chép thường để nuôi lên cá chép thương phẩm (cá đạt 0,8 kg – 1kg/con), giai đoạn 2 là nuôi cá chép thương phẩm lên cá chép giòn. Năm 2017, Trung tâm Khuyến nông tỉnh Khánh Hòa triển khai đề tài Nuôi cá chép giòn tại huyện Cam Lâm. Từ thành công của mô hình, chúng tôi xin giới thiệu kỹ thuật nuôi loài cá này để bà con nông dân nắm bắt và triển khai.
1. Chuẩn bị ao nuôi
Cũng giống như các đối tượng nuôi nước ngọt khác, ao nuôi cá chép giòn thương phẩm có chất đáy không bị chua, mặn; gần nguồn nước sạch, không có các mạch nước ngầm độc hại gây nguy hiểm cho cá. Nên bố trí ao gần chuồng trại hoặc gần nhà để tiện chăm sóc, quản lý; gần đường giao thông để thuận tiện cho việc vận chuyển thức ăn, vận chuyển cá giống và cá thương phẩm khi thu hoạch.
Trước khi nuôi cá, phải chuẩn bị ao theo các bước sau:
- Kè đá, xi măng hoặc lót bạt ao nuôi, hoặc làm giai đặt trong ao, mục đích để hạn chế nguồn thức ăn tự nhiên, cá sẽ sử dụng hoàn toàn thức ăn đậu tằm.
- Tháo cạn ao, dọn sạch bèo, cỏ, vét bùn (nếu lượng bùn quá nhiều), san phẳng đáy.
- Tẩy vôi khắp đáy ao để diệt cá tạp và mầm bệnh bằng cách rải đều từ 8-10kg vôi bột cho 100m2 đáy ao.
- Phơi ao khoảng 3 ngày, sau đó lấy nước vào ao với mức từ 1,5 – 1,8 m, nước lấy vào ao phải đảm bảo sạch, không bị nhiễm bẩn. Nước lấy vào ao cần được lọc bằng đăng hoặc lưới để phòng cá dữ, cá tạp, khi nước đạt mức 1,8 – 2m thì tiến hành thả cá.
- Chọn cá giống:
Lựa chọn cá chép đã nuôi thương phẩm đạt trọng lượng từ 0,8 – 1kg, khỏe mạnh, vây vẩy hoàn chỉnh, không sây sát, không mất nhớt, cỡ cá đồng đều; cá bơi lội linh hoạt, nhanh nhẹn, bơi chìm trong nước theo đàn; không có dấu hiệu bệnh để tiến hành thả nuôi. Cũng có thể nuôi cá chép từ nhỏ đến khi đạt trọng lượng 0,8 – 1kg/con thì tiến hành nuôi cá chép giòn.
- Vận chuyển cá giống:
Cá giống được vận chuyển trong bao có oxy, bằng xe lạnh. Cá sau khi bắt dưới ao được thả vào bể lớn có sục khí, chọn những con khỏe mạnh không trầy xước thả vào bao đã chứa sẵn khoảng 20 lít nước sạch, mỗi bao vận chuyển khoảng 10 con. Sau đó cho vòi oxy xuống đáy bao nhằm đuổi hết không khí ra ngoài rồi nắm chặt miệng bao, mở van cho oxy vào từ từ cho đến khi bao thật căng thì rút vòi oxy ra, xoắn chặt miệng bao, buộc lại bằng dây cao su.
Lưu ý khi xếp bao: Các bao phải xếp chặt vào nhau để tránh dịch chuyển, va chạm khi di chuyển. Nên vận chuyển cá vào lúc sáng sớm hay chiều tối nhằm tránh thời điểm nhiệt độ quá cao. Cũng có thể vận chuyển cá vào ban đêm để đến ao lúc sáng sớm thì thả cá.
- Thả cá:
Cá được thả vào lúc sáng sớm hoặc chiều mát, trước khi thả, cần ngâm bao cá trong nước ao khoảng mười phút, sau đó mở bao từ từ để cá bơi ra. Mật độ thả trong ao từ 1-1,5 con/m2, nếu thả trong giai có thể thả với mật độ cao 12-13 con/m2
- Chăm sóc và quản lý:
Trong thời gian đầu mới thả nuôi nên cho cá ăn thức ăn bình thường, sau khoảng 1 tuần tiến hành cưỡng bức để cá ăn đậu tằm.
Luyện tập cho cá ăn đậu tằm bằng cách bỏ đói cá từ 2 – 3 ngày sau đó cho cá ăn 1 lượng nhỏ đậu tằm đã được ngâm trong thời gian 12h – 24h. Sau khi cá ăn quen thức ăn đậu tằm, cho cá ăn 2 lần/ngày vào lúc 6 – 7h và 16 – 17h. Khẩu phần ăn từ 1,5 – 2% khối lượng cá, thức ăn cho vào sàng ăn đặt dưới đáy ao, lồng nuôi. Sàng làm bằng khung sắt có diện tích 1m2, chiều cao 25 – 30 cm, được vây 2 lớp, 1 lớp lưới thép, 1 lớp lưới cước để ngăn đậu trôi ra ngoài.
- Thu hoạch
Kiểm tra cá trong ao, giai, nếu thịt cá đạt độ giòn nhất định thì tiến hành thu hoạch, thường thời gian nuôi từ 5 – 6 tháng. Cho cá nhịn ăn 1 ngày trước khi thu hoạch.
Nguyễn Thị Hương Thảo – Trung tâm Khuyến nông Khánh Hòa (theo Bản tin KNVN 2/2018) – Khuyến Nông VN, 03/10/2018
Một số bệnh trên cá chép
Trước tình hình thời tiết đầu năm 2013 ở Miền Bắc nước ta diễn biến phức tạp nhiều ngày rét đậm kéo dài kết hợp với mưa phùn. Đây chính là cơ hội thuận lợi cho các tác nhân gây bệnh như nấm, vi khuẩn, vi rút… trong môi trường nước và đáy ao nuôi phát triển và gây bệnh cho động vật thủy sản.
Trong đó đặc biệt nguy hiểm và gây thiệt hại lớn cho người nuôi đó là một số bệnh xảy ra trên cá chép như bệnh xuất huyết, bệnh vi rút. Sau đây xin giới thiệu đến các hộ nuôi thủy sản biện pháp phòng và trị bệnh trên cá chép:
- Bệnh xuất huyết
- Dấu hiệu bệnh:
-Dấu hiệu bên ngoài: Vây, đuôi bị cụt dần, vảy tróc, mình bầm tím, tơ mang bị sơ rách gọi là xuất huyết ngoài.
-Dấu hiệu bên trong: ruột chướng hơi xuất hiện các bong bóng khí bên trong ruột,gan và mật sưng lên. Khi cá bị bệnh nặng thường nội tạng nhũn ra gọi là xuất huyết trong.
- Biện pháp phòng bệnh:
-Vào những ngày thời tiết mưa phùn mùa xuân cần phải tạt vôi với liều lượng 1 –2kg vôi bột cho 100m3 nước ao nuôi.
-Định kỳ 15 ngày dùng các chế phẩm sinh học như Biobacter, Biopower tạt 1kg cho 8.000 – 10.000m3 nước ao nuôi sẽ xử lý nước đục, nước nhờn, váng nhớt, làm sạch nước, ổn định pH, hấp thụ độc tính, khử mùi hôi thối, phân hủy nhanh xác động thực vật, thức ăn dư thừa, mùn bã hữu cơ.
-Bổ sung thêm vitamin C từ 200 – 300g cho 100kg thức ăn, thời gian cho ăn 2 – 3 ngày liên tiếp.
-Nuôi ghép với mật độ thưa, bình quân một sào ao bắc bộ thả 40 – 50 con cá chép.
- Biện pháp trị bệnh
-Xử lý môi trường nước ao bằng BioIodine với liều lượng 1 lít cho 5.000m3 nước ao nuôi hoặc xử lý bằng Vicato 1kg cho 3000m3 nước ao.
-Dùng kháng sinh trộn vào thức ăn như Amoxicillin, Sunfamid, Biogan 100g cho 1 –2 tấn cá và cho ăn 5 – 7 ngày liên tiếp. Lưu ý ngày thứ 2 trở đi liều lượng giảm đi một nửa so với ngày thứ nhất.
- Bệnh virut mùa xuân trên cá chép
- Dấu hiệu bệnh
-Bên ngoài da sậm màu, mắt lồi, mang nhợt nhạt có hiện tượng xuất huyết điểm ở da và mang.
-Bên trong: Xoang bụng có dịch, ruột sưng to đôi khi có dịch, tụy bị sưng và có hiện tượng xuất huyết ở bong bóng. Trong đó xuất huyết ở bong bóng được xem là dấu hiệu đặc trưng ở bệnh này.
- Phòng và trị bệnh
- Áp dụng biện pháp phòng bệnh như bệnh xuất huyết trên cá chép. Bệnh chưa có thuốc trị.
Kiều Minh Khuê, Khuyến nông Hà Nội – 10/03/2013
Bệnh do vi khuẩn và virus nguy hiểm ở cá chép (cyprinus carpio)
Cá Chép là một đối tượng nuôi nước ngọt phổ biến và truyền thống của Việt Nam do chúng có đặc điểm chất lượng thịt thơm ngon, ngoại hình đẹp và có sức chống chịu bệnh tật tốt hơn các đối tượng nuôi khác. Song trong tình hình nuôi hiện nay cá Chép cũng thường mắc một số bệnh do vi khuẩn, virus gây nhiều thiệt hại cho người nuôi. Về bệnh do vi khuẩn trên cá chép phải kể đến bệnh nhiễm khuẩn do vi khuẩn Aeromonas spp. còn bệnh do virus hiện nay đã xuất hiện bệnh KHV (Koi Herpesvirus) đó là 2 bệnh nguy hiểm nhất hiện nay đối với cá Chép nuôi.
- Cá Chép bị nhiễm khuẩn Aeromonas spp.
Vi khuẩn Aeromonas spp. thường gây bệnh cho động vật thủy sản trong nước ngọt, đặc biệt là gây viêm, xuất huyết và hoại tử trên cá Chép. Vi khuẩn gây bệnh gồm 3 chủng A. hydrophila, A. sobria và A. caviae có dạng trực khuẩn ngắn, hai đầu tròn, bắt màu gram âm, có khả năng di động và chúng thường có mặt trong môi trường nuôi cá (trong nước, trong bùn), song ở những thủy vực nhiều mùn bã hữu cơ, nguồn nước bị ô nhiễm thì số lượng và độc lực của vi khuẩn tăng lên. Vi khuẩn gây bệnh thuộc dạng tác nhân gây bệnh cơ hội, chúng chỉ gây bệnh cá Chép khi có các yếu tố khác gây stress cho cá như đánh bắt sây sát, thả cá với mật độ dầy, môi trường nuôi bị ô nhiễm.
Biểu hiện của cá Chép khi bị nhiễm khuẩn: trên cơ thể xuất hiện một đám lớn màu đỏ, cá thường bị hoại tử vây, đuôi. Các vết loét thường nông, bề mặt trở nên có màu nâu khi nó bị hoại tử hoặc thối rữa. Cá bị tuột vảy, tổn thương phần miệng, mắt bị mờ hoặc lồi, bụng trướng to, xung huyết và tắc nghẽn các nội quan, xuất huyết ở gốc vây, xương nắp mang, xung quanh hậu môn. Bệnh thường gặp vào cuối xuân, đầu hè.
Phòng và xử lý bệnh: Bệnh xảy ra do tác nhân cơ hội do vậy công tác phòng bệnh cần tập trung vào việc phòng bệnh tổng hợp cho cá nuôi: vệ sinh, khử trùng ao đầm trước khi thả cá, đối với cá giống phải đảm bảo khoẻ mạnh, tránh làm sây sát cá. Khi đánh bắt, vận chuyển cá giống cần làm vào thời điểm mát trong ngày, cần luyện cho cá trước khi đánh bắt, vận chuyển, cần cung cấp đủ nước sạch và ô xy trong quá trình vận chuyển, tránh tích đọng mùn bã hữu cơ trong các ao nuôi thông qua việc sử dụng thức ăn phù hợp tránh dư thừa thức ăn, tránh các nguồn chất thải đổ vào ao nuôi và thường xuyên sử dụng chế phẩm sinh học làm sạch môi trường nuôi.
Vì là bệnh nhiễm khuẩn nên khi bệnh xảy ra cần khử trùng nước ao nuôi sau tiến hành trộn kháng sinh cho cá ăn trong vòng 5 ngày liên tục. Cần lưu ý sử dụng một trong các kháng sinh diệt khuẩn gram âm đủ liều, kháng sinh cần bao bọc cẩn thận vào thức ăn tránh tan mất kháng sinh trước khi cá sử dụng, không sử dụng kháng sinh bị cấm (Theo quy định Bộ NN&PTNT), liều lượng kháng sinh từ 50-70 mg/kg cá/ngày. Sau khi dừng sử dụng kháng sinh 3-5 ngày cần bổ sung chế phẩm sinh học nhằm gây lại vi sinh có lợi để cân bằng môi trường nuôi.
- Virus gây bệnh nguy hiểm cho cá Chép
Đối với cá Chép nuôi ở Việt Nam trong những năm qua đã xuất hiện bệnh KHV, bệnh gây ra do một loại virus có tên là Herpesvirus.
Herpesvirus được phân loại thuộc dạng virus có nhân là chuỗi xoẵn kép ADN thuộc họ virus Herpesviridae. Virus chỉ gây bệnh cho cá Chép, cá Chép cảnh mà không gây bệnh trên cá Trắm cỏ.
Cá Chép bị bệnh thường ở nhiệt độ nước từ 18-29oC với biểu hiện mang nhợt nhạt, cá thường biểu hiện nổi đầu trên bề mặt do thiếu khí. Khi bệnh xảy ra tỷ lệ chết cao 80-100%, trong vòng 24-48 giờ do virus tấn công chủ yếu mang nên các bệnh tích trên mang thể hiện rõ các đốm hoại tử và chết nhanh. Ngoài ra virus gây viêm thận và làm tăng tiết dịch nhầy (mucous) trên bề mặt cơ thể nên sờ vào cá bệnh cảm giác thấy nhiều nhớt. Do gây viêm, hoại tử và tăng tiết dịch nhầy nên rất dễ bội nhiễm nấm, vi khuẩn và ký sinh trùng. Bệnh thường xảy ra ở cá Chép giống hơn cá trưởng thành.
Phòng bệnh thông qua quản lý tốt môi trường nuôi, lưu ý khi nhập giống mới cần nuôi cách ly tối thiểu 2 tuần mới cho nhập đàn.
Đối với bệnh này khi xảy ra bệnh chưa có thuốc xử lý mà chủ yếu là quản lý môi trường tốt tránh gây stress làm tăng tỷ lệ chết và bổ sung Vitamin C vào thức ăn nhằm tăng sức đề kháng tự nhiên. Riêng đối với cá Chép cảnh có thể áp dụng biện pháp nâng hoặc hạ nhiệt độ nước cũng có thể làm giảm tỷ lệ chết, nhưng không diệt được virus trong cá bệnh. Khử trùng nước thải bằng Chlorin 200 mg/L hoặc dùng BKC nhằm tránh lây lan sang các thủy vực khác.
ThS. Kim Văn Vạn, ĐH Nông Nghiệp Hà Nội – Công ty TNHH UV Việt Nam.
Một số biện pháp phòng, trị bệnh thường gặp trong nuôi trồng thủy sản vụ Đông – Xuân
Vụ Đông-Xuân thường xảy ra 3-4 đợt rét đậm-rét hại, tập trung vào tháng 12 và tháng 01.
- Bệnh nấm thuỷ my ở động vật thuỷ sản nước ngọt
- Tác nhân gây bệnh: Một số loài thuộc các giống: Leptolegnia; Saprolegnia và Achlya. Đây là các nấm dạng sợi, thuộc nhóm nấm bậc thấp.
- Dấu hiệu bệnh lý:
- Khi cá bị bệnh nhẹ rất khó phát hiện bằng mắt thường. Ban đầu trên da cá xuất hiện các vùng trắng xám, sau vài ngày tại đó mọc lên các sợi nấm mảnh và phát triển lên thành từng búi nấm trắng như bông.
- Cá bị bệnh bơi hỗn loạn, thích cọ xát vào các vật thể trong nước, làm tróc vẩy trầy da.
- Phân bố và lan truyền bệnh:
- Xảy ra ở nhiều loài cá nước ngọt như: “cá Chép, Mè, Trắm Cỏ, Trôi, Baba, Ếch…”
- Thường phát triển vào mùa Đông-Xuân , thích hợp ở nhiệt độ nước từ 18-250C.
- Bệnh phát triển thuận lợi trong các ao nuôi có mật độ cao, nước bị ô nhiễm.
- Phương pháp phòng và trị bệnh:
- Phòng bệnh cho cá
- Thực hiện kỹ thuật dọn ao trước khi mỗi vụ nuôi: Vét bùn đáy, phơi nắng đáy ao, dùng vôi bột để sát trùng, diệt tạp và cải thiện pH.
- Nuôi cá với mật độ thích hợp và tránh các tác động cơ học hoặc do kí sinh trùng làm cá tổn thương.
- Cần quan tâm tới vấn đề dinh dưỡng đầy đủ để cá chống rét và duy trì sức đề kháng. Cần kích độ sâu nước ao, hoặc phủ bèo tây trên 2/3 mặt ao.
- Đối với đàn cá bố mẹ, thường xuyên kiểm tra bôi thuốc sát trùng lên các vết thương tổn đề phòng sự phát triển của nấm “Cồn iốt, thuốc tím 1%”.
- Phòng bệnh cho trứng cá
- Nuôi vỗ cá bố mẹ, nhất là cá Chép theo đúng kỹ thụât để cá bố mẹ có chất lượng tuyến sinh dục tốt.
- Đối với cá Chép cần lựa chọn giá thể và sát trùng giá thể bằng thuốc sát trùng trước khi cho vào bể đẻ. Khi trứng bám vào giá thể, ngâm giá thể có trứng trong dung dịch nước muối 2% trong vòng 10-15 phút từ 1-2 lần/ngày.
- Phương pháp trị bệnh
- Dùng Methylen 2-3 ml/l; lặp lại 2 lần trong 1 tuần.
- Đối với trứng cá thường dùng các loại hoá chất sau: Dung dịch muối 2-3%; Methylen 2-3 ml/l; Formol với nồng độ 1/500-1/1000 tắm trong thời gian 5-15 phút, 02 lần/ ngày.
- Hoặc dùng Oxy già, tuỳ theo nhiệt độ nước mà lựa chọn nồng độ cho thích hợp.
- Bệnh trùng loa kèn
- Tác nhân gây bệnh: Một số loài thuộc các giống Zoothamnium; Vorticela; Epistylis; Apisoma.
- Dấu hiệu bệnh lý: Kí sinh trên da, mang hoặc các phần phụ của vật nuôi thuỷ sản. Gây ảnh hưởng hô hấp, sinh trưởng của các động vật là ký chủ.
- Phân bố và lan truyền bệnh: Phân bố ở nước ngọt, mặn. Chúng kí sinh ở tất cả các động vật thuỷ sản, mỗi loại kí sinh trùng khác nhau có những kí chủ khác nhau. Bệnh hay xuất hiện vào mùa Xuân ở miền Bắc.
- Phòng và trị bệnh
- Dùng CuS04 tắm cho cá với nồng độ 5-7 mg/l; hoặc phun xuống ao với nồng độ 0.5-0.7 mg/l; tắm nước muối 2-4% cho cá nước ngọt bị bệnh.
- Đối với vật nuôi thuỷ sản nước mặn dùng Formol 100-200 ml/l; tắm cho cá, tôm trong 30 phút hay tẳm bằng nước ngọt hoặc nước Oxy già với nồng độ 100-150 ml/l với thời gian 15-30 phút.
- Bệnh xuất huyết mùa xuân do virus ở cá Chép
- Tác nhân: Do virus gây ra; bệnh còn có tên khác như: “Bệnh phù của cá Chép; Đốm đỏ, Viêm bóng hơi”.
- Dấu hiệu: Cá ngạt thở, tách đàn, bơi tầng mặt hoặc chết chìm xuống đáy, mắt và da có hiện tượng xuất huyết, bụng trướng to. Bên trong bề mặt nội tạng bị xuất huyết, lá lách sưng to, xoang bụng có chứa nhiều dịch nhờn.
- Phân bố và lan truyền bệnh: Chủ yếu gặp ở cá Chép, ngoài ra còn gặp một số loài cá khác như cá Mè trắng; Diếc, Mè hoa. Bệnh xảy ra vào màu có nhiệt độ thấp, thường cuối Đông đầu Xuân
- Biện pháp phòng bệnh
- Nuôi cá ở nhiệt độ ấm áp > 200C, tăng mực nước trong ao nuôi lên khoảng 1.4-1.8 m và phủ bèo tây chiếm khoảng trên 2/3 diện tích mặt ao.
- Mua con giống những giòng cá Chép có sức đề kháng bệnh xuất huyết virus
- Hoặc phòng bệnh bằng Vacine, tuy nhiên chi phí sản xuất cao khó áp ứng trong nuôi thương phẩm đại trà.
- Tăng cường biện pháp phòng bệnh tổng hợp trong quá trình nuôi.
- Bệnh nhiễm trùng máu và xuất huyết ở cá
- Tác nhân gây bệnh: Rhabdovirus có dạng hình que
- Dấu hiệu chính của bệnh
- Thời kỳ cấp tính: Bơi lờ đờ, hôn mê, bơi tách đàn, bụng trướng to, mắt cá bị lồi, dưới da và vây xuất hiện dịch, mang cá nhợt nhạt. Bên trong có hiện tượng tích dịch bên trong cơ thể, xuất huyết ở các mô mỡ, gan, ruột, bóng hơi. Hiện tượng chết ở thời kỳ này rất nhanh và tỷ lệ chết 80%.
- Thời kỳ mãn tính: Bơi xoắn, bơi vòng tròn, da cá cũng chuyển màu đen tối, mang cá nhợt nhạt. Có thể chết rải rác.
- Thời kỳ thần kinh: Bơi lội không giữ được thăng bằng. Các dấu hiệu bên ngoài của thời kỳ mãn tính biến mất. Cá ít xảy ra hiện tượng chết.
- Phân bố và lan truyền bệnh: Xảy ra ở nhiều loài cá biển khác nhau. Bệnh thường xảy ra vào mùa có nhiệt độ thấp < 150C.
- Biện pháp phòng bệnh: Áp dụng phương pháp quản lý chung. Hoặc có thể dùng Vacine hoặc chất kích thích miễn dịch được xem là một giải pháp có hiệu quả trong sản xuất.
- Lưu ý: Nếu phát hiện tôm, cá nhiễm bệnh hoặc chết bất thường, yêu cầu “đóng kín cửa cống, kiểm tra lại bờ ao, không được xả thải ra ngoài”. Đồng thời thông báo ngay cho cơ quan chức năng: Trung tâm Khuyến nông – Khuyến ngư; Chi cục Thú y; Phòng Nuôi trồng thủy sản (Sở NN&PTNT) và cán bộ địa phương để có biện pháp hướng dẫn xử lý kịp thời.
Khi mua thuốc, hoá chất, chế phẩm sinh học phục vụ trong quá trình nuôi; bà con nên đến các cơ sở, đại lý có uy tín, tin cậy. Tuyệt đối không mua những sản phẩm không rõ xuất xứ, chào hàng bán rong.
Bùi Trọng Khiêm (Phòng NTTS-Sở NN&PTNT Hải Phòng) – Báo Hải Phòng
Bệnh xuất huyết mùa xuân ở cá chép
- Dấu hiệu bệnh lý
- Bên ngoài: Cá trong ao có hiện tượng ngạt thở, bơi lên tầng mặt, cá bơi không định hướng và mất thăng bằng. Nhìn bên ngoài thấy da có màu tối và xuất huyết. Mang có màu nhợt nhạt xuất huyết, mắt cá hơi lồi ra. Vây, đuôi bị cụt, vảy tróc, mình bầm tím (xuất huyết ngoài).
- Bên trong: Ruột chướng hơi, gan và mật sưng lên, khi cá bị bệnh nặng thường nội tạng nhũn ra (xuất huyết trong).
- Tác nhân gây bệnh: Bệnh xuất huyết do vi rút Rhabdovirus carpio gây ra, chúng có dạng hình que, một đầu tròn như viên đạn, chiều dài 90-180nm, rộng 60-90 nm.
- Phân bố và lan truyền bệnh
- Bệnh chủ yếu gặp ở cá chép, virus gây bệnh từ giai đoạn cá giống đến cá thịt. Ngoài ra còn gặp ở một số loài cá khác như mè trắng, mè hoa, cá diếc, cá nheo.
- Bệnh thường lây lan mạnh. Virus từ cá bệnh có thể theo phân cá, dịch nhớt trên thân và các chất thải khác của cá bệnh vào môi trường nước, chúng xâm nhập vào cá khoẻ qua mang, da và miệng.
- Bệnh xảy ra vào mùa có nhiệt độ thấp, thường vào cuối đông đầu xuân ở các tỉnh phía Bắc, ao nuôi cá thịt, cá bố mẹ đều gặp bệnh này. Đây là loại bệnh cấp tính nên phát bệnh rất nhanh và có tỷ lệ chết rất cao.
- Phòng và trị bệnh
- Phòng bệnh:
- Xử lý đáy ao bằng vôi bột 7-10kg/100mét vuông, trong quá trình nuôi 2-3kg/100mét vuông. Thả giống đúng thời vụ, không nuôi mật độ dày, tắm cá giống qua nước muối 2-4g/lít nước trước khi thả. Thay nước hoặc đảo nước trong ao khi thời tiết thay đổi.
- Định kỳ dùng chế phẩm sinh học như EMC, Bio-DW tạt xuống ao 1-2lít/1.000m³, hoặc dùng EMC-tỏi, trộn với thức ăn tinh cho cá ăn 3-4 ngày/tháng.
- Tạt muối xuống ao (2kg/1.000m³ nước, những ao rộng có thể treo túi vôi hoặc muối tại điểm cho ăn).
- Trị bệnh: Trộn thuốc kháng sinh thích hợp vớo liều lượng 2g/kg thức ăn cho cá ăn liên tục 3-5 ngày. Đã có vaccine cho bệnh này, tuy nhiên hiệu quả còn thấp trong khi giá thành quá cao.
Trang thông tin điện tử NN và PTNT Vĩnh Phúc.