Quy hoạch và thiết lập đồng cỏ trong chăn nuôi trâu bò

Trong chăn nuôi trâu bò gia trại và trang trại cần bố trí, quy hoạch đất để trồng cây thức ăn. Tùy theo quy mô chăn nuôi, phương thức chăn nuôi và các điều kiện cụ thể về đất đai mà quy hoạch khu trồng cỏ thâm canh để thu cắt hoặc khu trồng cỏ để chăn thả luân phiên hoặc cả hai. Diện tích đất dành cho mỗi khu này tuỳ thuộc vào phương thức nuôi chăn thả là chính hay nuôi nhốt là chính. Những nơi có thể tận dụng bãi chăn thả tự nhiên (những bãi đất trống tự nhiên, bãi cỏ dưới tán cây lưu niên…) nên áp dụng phương thức chăn thả là chính vì tiết kiệm được nhiều chi phí về thức ăn và nhân công lao động.

1. Quy hoạch và thiết lập đồng cỏ thâm canh để thu cắt:

Đồng cỏ thâm canh là khu vực trồng các giống cỏ năng suất cao, đầu tư đủ phân bón, chủ động nước tưới và thu cắt cỏ vào giai đoạn thích hợp để cho ăn tươi tại chuồng hoặc dự trữ dưới hình thức ủ chua hoặc phơi khô.

Nên quy hoạch khu đất trồng cỏ thâm canh nơi bằng phẳng, gần chuồng nuôi để tận dụng nguồn phân bón, nước thải và giảm chi phí vận chuyển đồng thời thuận tiện việc chăm sóc, quản lý.

Trên cơ sở nhu cầu thức ăn thô xanh (nhu cầu cỏ) một ngày đêm của một con bò (tính trung bình bằng 10% khối lượng cơ thể) và năng suất của các loại cỏ người ta dễ dàng tính ra diện tích đất trồng cỏ thâm canh. Hiện nay, ở nước ta, năng suất chất xanh của các giống cỏ phổ biến khoảng 200-250 tấn/ha, đủ nuôi được 20 con bò (mỗi năm cắt 8-10 lứa, cách nhau 35-40 ngày và năng suất 20-25 tấn/ha/lứa cắt). Trong trường hợp không chủ động được nước tưới vào mùa khô thì khoảng cách giữa các lứa cắt sẽ tăng lên và năng suất chất xanh mỗi lứa cắt cũng thấp hơn. Năng suất chất xanh cả năm chỉ khoảng 150 tấn/ha, đủ nuôi 12-15 con bò.

Các giống cỏ cho năng suất cao và nên đưa vào trồng thâm canh là cỏ voi, cỏ VA06, cây ngô, cây cao lương. 

2. Thiết lập và quản lý đồng cỏ chăn thả:

Có hai cách thiết lập đồng cỏ chăn thả:

– Thiết lập mới từ chuyển đổi đất trồng cây lương thực, cây công nhiệp, cây ăn quả kém hiệu quả sang trồng cỏ làm bãi chăn thả.

– Trên cơ sở bãi chăn thả tự nhiên đưa thêm vào một số giống cỏ có năng suất và chất lượng tốt hơn kết hợp bón phân, chăm sóc và quản lý bãi chăn khoa học.

Việc lựa chọn các giống cỏ để thiết lập đồng cỏ chăn thả rất quan trọng và cần chú ý đến các yếu tố sau đây:

– Giá trị dinh dưỡng của cỏ: khối lượng vật chất khô, hàm lượng protein, khoáng…

– Đặc điểm sinh trưởng của cỏ: nên chọn các giống cỏ năng suất cao, thời gian sinh trưởng kéo dài qua các tháng trong năm, có tính chịu hạn, chịu giẫm đạp, kháng sâu bệnh, chịu lạnh giá, khả năng trồng xen với các giống cỏ khác và khả năng duy trì đồng cỏ chăn thả trong nhiều năm.

Việc lựa chọn giống cỏ trồng làm bãi chăn thả còn tùy thuộc vào điều kiện đất đai, khí hậu. Thực tế có rất ít giống cỏ thỏa mãn được tất cả các tiêu chí. Tuy nhiên, trong điều kiện ở nước ta hiện nay, nên chọn các giống cỏ hòa thảo (cỏ Sả lá nhỏ, cỏ Ruzi) và các giống cỏ họ đậu (cỏ Stylo, Centro) trồng làm đồng cỏ chăn thả. Cỏ Sả lá nhỏ và cỏ Ruzi cho năng suất tương đối cao (khoảng 200-300 tấn/ha/năm). Các giống cỏ này có thân lá mềm, có bộ rễ ăn sâu, chịu giẫm đạp và có khả năng tái sinh tốt.

Quản lý đồng cỏ chăn thả rất quan trọng, đảm bảo có sản lượng ổn định và duy trì đồng cỏ được trong nhiều năm. Chất lượng đồng cỏ phụ thuộc vào giống cỏ, độ phì của đất, lượng mưa…Và cần căn cứ vào hiện trạng đồng cỏ để quyết định khoảng cách chăn thả, thời gian chăn thả và số đầu gia súc chăn thả trên một diện tích đồng cỏ. Thông thường, diện tích mỗi ha đồng cỏ chia thành 4-5 lô, chăn thả 25-30 con bò trưởng thành. Mỗi lô chăn thả 6-7 ngày, quay vòng lần lượt từ lô đầu đến lô cuối. Như vậy, một vòng quay từ 30 đến 35 ngày và đủ thời gian để cỏ có thể tái sinh.

TS. Phùng Quốc Quảng – Theo Thông tin Khuyến nông Việt Nam (Số 8/2014) – Khuyến nông VN, 21/08/2014

Xây dựng đồng cỏ chăn nuôi

Muốn có đồng cỏ trồng mới, thâm canh cao, nâng cao hiệu quả sử dụng cỏ, phải tiến hành trồng mới theo các bước sau:

Chọn giống cỏ: 

Cần chọn các giống cỏ phù hợp với điều kiện đất đai, khí hậu, biện pháp sử dụng và điều kiện canh tác của hộ mình. Một số giống cỏ được trồng phổ biến hiện nay như cỏ Pangola, Ghinê, cỏ voi đều thích hợp và trồng được ở nhiều nơi, nếu có điều kiện trồng thử trước mỗi giống 200 – 500m2 để theo dõi khả năng thích nghi, đồng thời cũng là để SX giống trồng tiếp sau này.

Khai hoang: 

Như mọi cây trồng khác, để đồng cỏ sau này dễ gieo trồng, chăm sóc sử dụng bằng máy hay bằng thủ công nên tiến hành khai hoang để giải phóng cỏ dại, tạo mặt bằng. Khi khai hoang chú ý để băng rừng, cây bóng mát theo đường đồng mức để chống xói mòn, kỹ thuật khai hoang như đối với mọi cây trồng khác.

Làm đất: 

Yêu cầu phải sạch cỏ dại, đảm bảo độ sâu, đất tơi xốp, tiêu chuẩn làm đất đạt yêu cầu như để trồng ngô, khoai lang. Tùy loại đất, thường cày bừa như sau:

– Cày vỡ (lần 1), sâu từ 18 – 20cm.

– Bừa (bừa đìa nặng lần 1); bừa 2 lượt chéo nhau.

– Cày chéo (lần 2) như lần 1.

– Bừa lần 2: Sâu 0,5 – 0,7m (tùy theo loại cỏ trồng). Nếu không có điều kiện và ở diện tích hẹp có thể cuốc bằng tay hay cày bừa bằng trâu, bò như chuẩn bị đất cho các loại cây màu khác.

Thời vụ và địa điểm gieo trồng 

Thường trồng từ tháng 4 đến tháng 8 hàng năm. Trồng bằng gốc, thân, gieo bằng hạt. Nên gieo trồng vào lúc đất ẩm, trời râm mát hoặc trước và sau cơn mưa càng tốt.

Chuẩn bị giống 

Trước khi gieo trồng cần chuẩn bị giống trước. Nếu trồng bằng hạt thì thu gom hay mua giống trước. Nếu trồng bằng thân, gốc cần kiểm tra cỏ giống trước để khi làm đất xong rạch hàng, đào hố đến đâu lấy giống trồng lấp luôn đến đó.

Gieo trồng 

Tùy theo giống cỏ mà rạch hàng cuốc hố dày, thưa khác nhau. Sau đó bón phân theo rạch hoặc hố, phân chuồng hoai mục 10 – 15 tấn/ha trộn đều với 400 – 800kg vôi bột, 150kg phân lân, 100kg Kali, sau đó rải đều theo rạch hoặc bón theo hố. Gieo hoặc trồng hom cỏ (hoặc gốc cỏ) theo rãnh lấp giống bằng đất màu tơi, ẩm, nén chặt (đặt giống đến đâu lấp luôn đến đó).

Chăm sóc trong thời gian đồng cỏ thiết lập 

Từ khi trồng đến lần thu hoạch đầu tiên gọi là thời gian đồng cỏ thiết lập. Khi đồng cỏ đã phát triển tốt che phủ hết đất, cây cỏ đã già và độ dày đồng cỏ khá là có thể đưa vào sử dụng trước. Thời gian thiết lập thường từ 3 – 6 tháng, tùy thuộc giống cỏ, chất đất, mùa vụ và điều kiện chăm sóc. Nói chung sau khi trồng từ 20 – 30 ngày cần cuốc xới cỏ dại 1 lần, sau đó bón 50kg đạm urê/ha (bón theo hàng). Sau 30 ngày nữa lại làm cỏ bón phân đạm lần 2 và lần 3… Cần chú ý phòng trừ sâu bệnh, hay trâu bò phá, không nên cắt cỏ quá sớm.

NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM – 9/10/2003

6 giống cỏ cho bò sữa

Cỏ voi (Penisetum purpuseum): thuộc họ hoà thảo sống lưu niên. Thân rễ cứng, hoá gỗ, mang nhiều rễ khoẻ và ăn sâu; thân đứng giống cây mía, cao 3-4m, moc5 thành bụi dài rỗng ruột, có nhiều đốt. Cỏ voi được trồng bằng hom thân, mọc rất nhanh và khoẻ, trồng một lần thu hoạch 4-5 năm mới phải trồng lại, mỗi năm cắt được 7-8 lứa, năng suất cỏ tươi đạt 120-150 tấn/ha/năm. Trồng thâm canh và thu cắt kịp thời năng suất gấp đôi, thậm chí có thể đạt 400 tấn/ha/năm như ở Gia Lâm (Hà Nội) Củ Chi, Hóc Môn (TP. Hồ Chí Minh).

Cỏ sả (Panicum maximum): Mọc thành bụi như cây sả, còn gọi là cỏ Ghi – Nê vì có nguồn gốc từ Ghi – Nê được nhập vào nước ta từ 50-60 năm nay và đã trở thành cỏ mọc tự nhiên ở nhiều địa phương trong cả nước. Cỏ sả được trồng làm thức ăn xanh thô cho trâu, bò, ngựa ở dạng tươi ngoài bãi chăn hoặc ủ xanh và phơi khô dự trữ. Trồng một lần có thể thu hoạch 3-4 năm, mỗi năm cắt 8-10 lứa. Nếu chăm sóc tốt có thể đạt 280-300 tấn/ha/năm.

Cỏ Stylo (Stylosathes hamata): Là giống cỏ họ đậu, thân đứng, phân nhiều cành, có thể cao tới 1 m. Bộ rễ rất phát triển ăn sâu xuống đất khoảng 70cm, do đó nhiều nơi còn trồng để chống xói mòn đất, bảo vệ thân đê đập rất tốt. đây là loại thức ăn v\xanh rất tốt cho gia súc và gia cầm vì có tỷ lệ đạm cao và chúng thích ăn. Cỏ Stylo trồng một lần có thể thu hoạch 4-5 năm, năng suất có thể đạt 90- 100 tấn/ha/ năm nếu được chăm sóc, thâm canh tốt.

Cỏ họ đậu (Centro sema và Centro cavalcade): Cỏ họ đậu thường cho năng suất cao ở mọi loại đất, mọi điều kiện khí hậu. Cả họ đậu mọc dày thành lớp nên có thể trồng thành đồng cỏ chăn thả hoặc cắt làm cỏ khô dự trữ qua đông cho bò sữa rất tốt. Mặt khác cỏ họ đậu có khả năng cố định đạm cho đất rất lớn (120kg nitrogen/ha) nên vừa có giá trị cải tạo đất vừa dùng làm thức ăn cho gia súc, đặc biệt là chăn nuôi bò sữa. Có thể trồng xen cỏ họ đậu với các loại cỏ khác. Gieo trồng chủ yếu bằng hạt với lượng 3kg/ha để làm đồng cỏ chăn thả hoặc 10kg/ha nếu trồng để cắt cỏ làm cỏ khô.

Cỏ Pát (Paspalum Attratum) thuộc loại cỏ bụi thân cao. Có thể sinh trưởng tốt ở những chân đất nghèo dinh dưỡng và đất chua có độ pH < 4. Cỏ Pát thích hợp với khí hậu ẩm, thích nghi với những vùng thường bị ngập lụt. Lượng chất xanh cao, bò rất thích ăn. Có thể trồng bằng thân hom hoặc gieo hạt với lượng 5-6 kg/ha. Trồng một lần thu hoặc liên tục 3 năm mới trồng lại.

Cỏ Signal (Brachiaria dicumben): Thích nghi rộng với nhiều điều kiện khí hậu, đất đai nhiều nơi ở nước ta. Cỏ Signal có thể sinh trưởng tốt ở những vùng đất nghèo dinh dưỡng và vùng đất chua phèn (pH<4) Những nơi có mùa khô kéo dài chúng vẫn giữ được màu xanh, cạnh tranh với cỏ dại, chịu được sự dẫm đạp của gia súc nên thích hợp cho xây dựng đồng cỏ chăn thả thường xuyên.

Các địa phương có thể liên hệ với các đơn vị sau đây để mua giống và được tư vấn thêm về các giống cỏ và kỹ thuật gieo trồng: Viện KHKTNN miền Nam (số 12, Nguyễn Chí Thanh, Quận 10, TP. Hồ Chí Minh), Trung tâm Giống bò và đồng cỏ Ba Vì, tỉnh Hà Tây), Viện Chăn nuôi Quốc Gia (thị trấn Chèm, huyện Từ Liêm, Hà Nội)

Theo NNVN – WAG, 20/7/2004

Trồng cỏ hỗn hợp giàu đạm của Australia

Điều kiện trồng:

Cỏ hỗn hợp giàu đạm của Australia là loại cỏ lai, năng suất cao, nên phải áp dụng công nghệ thâm canh tiên tiến. Đặc biệt phải có hệ thống tưới phun khép kín.

Kỹ thuật gieo trồng:

– Làm đất: Đất trồng phải chọn nơi cao ráo, không ngập nước về mùa mưa. Đất được cày sâu từ 40 – 50cm, cày 2 lần cho đất tơi, làm sạch cỏ dại, bón lót từ 15 – 20 tấn phân hữu cơ/ha, phân lân khoảng 300kg/ha, riêng với loại đất có độ pH cao cần bỏ thêm 300 – 400kg vôi bột/ha. Sau đó để phơi đất trong vòng 7 ngày, rồi phay đất trộn đều 2 lần.

– Gieo hạt: Hạt giống phải được bảo quản ở nơi râm mát, tránh ánh sáng trực tiếp. Lượng giống gieo khoảng 10 – 12kg/ha, không phải ngâm giống hoặc xử lý dưới bất kỳ hình thức nào (vì phía cung cấp giống đã xử lý nghiêm ngặt). Để gieo hạt cho đều, cứ 0,5kg hạt giống trộn với 20kg phân hữu cơ dạng bột, gieo cho khoảng 500m2 đất. Gieo xong khoả lấp nhẹ trên mặt đất bằng chổi chà và phun nước tưới ẩm thường xuyên trong suốt thời gian chờ nảy mầm (2 tuần đầu). Tỉ lệ nảy mầm từ 90 – 95%, chu kỳ một đời giống từ 8 – 10 năm.

– Nước tưới: nếu gieo vào mùa mưa thì ruộng phải thoát nước. Mùa khô luôn phải giữ ẩm cho đồng cỏ. Số lần tưới, thời gian tưới, số lượng nước tưới phụ thuộc vào diện tích, chất đất, thời điểm nắng hạn.

– Bón phân: ngoài việc bón lót, khi cỏ lên 10cm (khoảng 2 tuần), dùng phân bón lá phun qua hệ thống tưới phun. Sau một tháng gieo hạt, bón từ 95 – 100kg phân NPK 10-15-20/ha. Trước khi cắt khoảng 10 ngày, bón 100kg phân urê phun qua hệ thống tưới.

Thu hoạch:

Sau 2 tháng gieo cho thu hoạch lứa cỏ đầu tiên, năng suất bình quân đạt từ 30 – 45 tấn/ha, cắt cách gốc 5cm. Sau khi thu hoạch lứa thứ nhất, bón bổ sung 5 tấn phân hữu cơ hoai mục/ha. Tuy nhiên, tuỳ theo chất đất cũng như độ phát triển của cỏ mà xây dựng quy trình chăm sóc cho phù hợp. Từ lứa cắt thứ nhất đến lứa thứ hai quy trình là 40 ngày. Năng suất ở lứa thứ 2 (thử nghiệm) là 90 tấn/ha.

Lưu ý:

Đây là hạt giống đã qua xử lý, nên việc để cỏ ra hoa lấy hạt gieo là không đem lại hiệu quả. Không gieo hạt khi có mưa to vì sẽ làm trôi hạt giống. Nếu gieo vào mùa nắng cần phải đảm bảo độ ẩm, nếu không hạt khó nảy mầm. Do có nhiều giống khác nhau nên thời gian nảy mầm cũng khác nhau, nhưng cũng chỉ trong phạm vi 7 – 12 ngày. Tránh gieo hạt gần nơi nhiều gà, chim bồ câu.

Theo NTNN – WAG, 2/8/2005

Các tin có liên quan