Kỹ thuật trồng sắn (mì, khoai mì)

Các giống khoai mì thích hợp với vùng Tây Nguyên 

Thực hiện chỉ đạo của thường trực Ban chỉ đạo Tây Nguyên, các tỉnh Tây Nguyên đã phối hợp với Viện khoa học kỹ thuật nông nghiệp miền Nam, Viện khoa học kỹ thuật nông nghiệp duyên hải Nam Trung bộ xác định một số giống khoai mì mới, khuyến cáo đưa các giống khoai mì năng suất cao, có khả năng chống chịu tốt với điều kiện hạn hán vào trồng đại trà ở Tây Nguyên, gồm: KM 140, KM 98-5, KM 98-7, KM 419, SM 939-26. Các viện, trường cũng đã đề nghị các tỉnh Tây Nguyên cần sớm triển khai thực hiện các giải pháp kỹ thuật phát triển khoai mì bền vững.

– Giống KM 140 (lai từ tổ hợp KM 98-1 x KM 36) cây cao, thân xanh, thẳng, ngọn xanh, lá dài, ít phân nhánh. Thu hoạch: 8 – 10 tháng sau trồng; năng suất củ tươi: 34 – 35 tấn/ha. Hàm lượng tinh bột: 26,1 – 28,7%; năng suất bột: 9,5 – 10 tấn/ha. Điểm yếu: nhiễm nhẹ bệnh cháy lá.

– Giống KM 98-5 (lai từ tổ hợp KM 98-1 x Rayong 90) cây cao vừa phải, thân xanh, thẳng, ngọn xanh, không phân nhánh. Thu hoạch: 8 – 10 tháng sau trồng; năng suất củ tươi: 34,5 – 35 tấn/ha. Hàm lượng tinh bột: 28,5%; năng suất bột: 9,8 – 10 tấn/ha. Điểm yếu: nhiễm nhẹ bệnh cháy lá.

– Giống KM 98-7 (lai từ tổ hợp SM 1717 có mẹ là CM 321-188) cây cao vừa phải, thân nâu đỏ, không phân cành hoặc phân cành 1 cấp, phiến lá nhỏ, chia thùy sâu, cuống lá và phiến lá màu xanh. Thời gian sinh trưởng 7 – 10 tháng. Khả năng thích ứng rộng, có thể trồng được ở nhiều loại đất khác nhau. Năng suất: 25 – 45 tấn/ha (tùy theo điều kiện đất đai và trình độ kỹ thuật canh tác), vỏ củ màu nâu, ruột củ trắng. Tỷ lệ chất khô: 38 – 40%; tỷ lệ tinh bột: 28 – 30%; thích hợp ăn tươi (không đắng) và chế biến.

– Giống KM 419 [lai từ tổ hợp BKA900 x (KM 98-5 x KM 98-5)], cây cao vừa phải, thân thẳng, phân cành cao, tán gọn, nhặt mắt, lá xanh đậm, ngọn xanh, cọng phớt đỏ. Thời gian sinh trưởng 7 – 10 tháng; năng suất củ tươi 42,3 – 52,3 tấn/ha. Hàm lượng tinh bột: 27,8 – 29,3%; năng suất tinh bột: 10,4 tấn/ha. Củ màu trắng, dạng củ đồng đều, thịt củ màu trắng thích hợp làm sắn lát khô, tinh bột. Điểm yếu: nhiễm nhẹ đến trung bình bệnh cháy lá.

– Giống SM 937-26 (giống nhập nội bằng hạt từ CIAT/Thái Lan), Viện khoa học kỹ thuật nông nghiệp miền Nam tuyển chọn. Đặc điểm: cây cao vừa phải, thân nâu đỏ thẳng, không phân cành. Thời gian sinh trưởng 8 – 10 tháng; năng suất củ tươi 32,5 tấn/ha. Hàm lượng tinh bột: 37,9%; năng suất tinh bột 9,4 tấn/ha. Điểm yếu: nhiễm nhẹ bệnh cháy lá.

Các viện, trường cũng khuyến cáo các tỉnh Tây Nguyên bỏ cách trồng khoai mì “bổ hốc dí hom”, áp dụng các biện pháp canh tác luân canh, xen canh, rải vụ. Trên đất dốc trồng khoai mì theo đường đồng mức. Sau cày xới, khi trồng bón lót phân chuồng đã ủ hoai mục, bón thúc bằng phân N.P.K cân đối, hợp lý. Mức khuyến cáo/ha: 5 tấn phân chuồng, bón 80 kg đạm, 40 kg lân, 80 kg kali kết hợp khi làm cỏ xáo xới đất. Nên trồng luân canh, xen canh các cây họ đậu, trồng cây che phủ giữ ẩm và hạn chế xói mòn, bổ sung chất dinh dưỡng cho đất.

Theo TS. Nguyễn Văn Lạng, chủ tịch Hiệp hội sắn Việt Nam, để phát triển cây khoai mì bền vững, trước hết cần quy hoạch vùng nguyên liệu (khoảng 600.000 ha) và không nên mở rộng diện tích. Trồng các giống mới kết hợp các biện pháp thâm canh tốt nâng năng suất lên gấp đôi hiện nay (nghĩa là khoảng trên 30 tấn/ha). Đầu tư công nghệ cho thu hoạch, chế biến và sản phẩm chế biến sâu sau tinh bột; phối hợp tổ chức nguyên liệu và công nghệ cho sản xuất ethanol… để giảm và tiến tới không xuất khẩu mì lát ra thế giới. Để làm được cần có cơ chế chính sách của Nhà nước phát triển khoai mì, cần có những đầu tư thích đáng, cần có cơ chế chính sách về tài chính, về đầu tư khoa học công nghệ, về khuyến nông, về quảng bá xây dựng thương hiệu một cách hợp lý hơn. Đưa khoai mì trở thành cây trồng chủ lực cho kim ngạch xuất khẩu.

MINH TUẤN – Khoa Học Phổ Thông, 04/05/2015

Trồng sắn trên đất dốc 

Miền bắc chủ yếu trồng sắn trên các vùng đất dốc, và kỹ thuật canh tác còn đơn giản nên năng suất sắn đạt rất thấp, Viện KHKT nông nghiệp Việt Nam đã chọn tạo thành công một số giống sắn mới có khả năng khắc phục được hạn chế trên.

Một số giống sắn thích hợp

Viện KHKT nông nghiệp Việt Nam đã tiến hành chọn tạo và nghiên cứu ra nhiều giống sắn mới phù hợp với điều kiện đất đai này như KM94, KM98-7, KM21-10 và KM21-12.

Trong số các giống sắn trên, KM94 là giống đã được ứng dụng rộng rãi tại nhiều địa phương. KM94 có nguồn gốc từ tập đoàn giống nhập nội CIAT/Thái-lan, thân xanh, hơi cong, ngọn tím, không phân nhánh. Năng suất củ tươi đạt 30-40 tấn/ha, tỷ lệ chất khô trong sắn cao 39-40%, hàm lượng tinh bột 29-30%.

Sắn KM94 rất dễ trồng, thời gian sinh trưởng trung bình (7-12 tháng sau trồng đã có thể thu hoạch). Một trong những giống sắn có nhiều triển vọng khác đang trong quá trình khảo nghiệm hiện nay là giống KM98-7. Đây là giống sắn đa dụng vừa có thể sử dụng ăn tươi, vừa dùng vào chế biến thành tinh bột. Ưu điểm nổi bật của KM98-7 là tính chịu hạn cao, điều này rất phù hợp với khí hậu tại miền núi phía bắc thường hay rơi vào tình trạng khô hạn kéo dài.

KM98-7 có dạng cây đẹp, cao, mầu nâu, lá nhỏ, thích hợp với đất đồi sỏi đá. Thời gian thu hoạch sắn tương đối ngắn (7-8 tháng sau trồng), nhưng năng suất, chất lượng củ vẫn tương đương KM94…

Kỹ thuật canh tác sắn trên vùng đất dốc

Trồng sắn trên đất dốc nếu không có biện pháp chống xói mòn, đất trồng sắn sẽ trở thành đất trống đồi núi trọc, dẫn đến đất mất khả năng sản xuất, năng suất chất lượng giảm. Trước thực tế này, Viện KHKT nông nghiệp Việt Nam đã đưa ra một số quy trình kỹ thuật cơ bản khi trồng sắn trên đất dốc như sau:

Khâu đầu tiên, phải thiết kế các băng chống xói mòn như cốt khí, cỏ vetiver, cỏ paspalum, dứa… vì những loại cây này có tác dụng giữ đất rất tốt. Nếu đất dốc dưới 15 độ, khoảng cách giữa các băng cây xanh là 8-10m, đất dốc 15-20 độ, khoảng cách dày hơn từ 4-6m.

Các biện pháp kỹ thuật chủ yếu

Làm đất: ở vùng đất bằng hoặc có độ dốc thấp, cày và lên luống theo đường đồng mức, luống cách luống 1,0m.

Thời vụ trồng: Thời gian trồng thích hợp nhất khoảng từ tháng 2 đến 15-3 (miền bắc), từ tháng 4 đến tháng 8 (miền nam).

Mật độ: Tùy thuộc vào từng loại đất, đất tốt trồng thưa, đất xấu trồng dày, bảo đảm khoảng cách trung bình 1,0 x 0,8 x 1,0m, tức mật độ cây từ 10.000 – 12.500 cây/ha.

Bón phân: Lượng phân bón cho 1 ha khoảng 10-15 tấn phân chuồng, 110-160kg đạm ure, 220-270kg supe lân, 160-250kg kali, 180 kg phân tổng hợp NPK theo tỷ lệ 60kg N, 40kg P2O5, 80kg K2O. Cách bón, bon lót toàn bộ phân chuồng và phân lân. Bón thúc lần 1 (sau trồng 45 ngày) 50% đạm + 50% kali. Bón thúc lần 2 (sau trồng 3 tháng) toàn bộ lượng phân còn lại kết hợp làm cỏ và vun cao.

Một trong những biện pháp khá hiệu quả chống xói mòn cho đất là trồng xen với các cây họ đậu như lạc, đậu xanh, đậu đen, đậu tương. Kỹ thuật trồng xen tốt nhất là trồng xen hai hàng đậu vào giữa hai hàng sắn, khoảng cách sắn vẫn giữ nguyên. Khi sử dụng biện pháp trồng xen, lượng phân bón cho cây xen cần thiết là 70% lân + 20% đạm + 30% kali trong tổng số phân bón cho sắn cộng thêm 300kg vôi bột để diệt trừ sâu, bệnh.

Phương pháp này hiện đã được ứng dụng ở nhiều nơi như Yên Bái, Tuyên Quang, Hà Tây, Hòa Bình. Kết quả, lượng đất bị xói mòn đã giảm tới 68-96% so với các chân đất không băng chắn. Năng suất tăng cao hơn, cải tạo cơ bản được độ phì nhiêu của đất.

LÊ HÂN – Nông thôn ngày nay – 2003

Phòng trừ rệp sáp bột hồng hại sắn 

Ngăn chặn rệp sáp bột hồng hại sắn lây lan

Rệp sáp bột hồng (RSBH) là loại sâu hại nguy hiểm, khó phòng trừ và là đối tượng sâu hại mới, lần đầu tiên xuất hiện ở nước ta. Nếu không có biện pháp ngăn chặn kịp thời, sâu hại này sẽ phát tán, lây lan nhanh chóng ra các vùng trồng sắn ở các địa phương khác. Do tính chất nguy hiểm và nguy cơ gây hại nghiêm trọng của RSBH đối với sản xuất sắn ở trong tỉnh nên việc triển khai sớm các biện pháp cụ thể để ngăn chặn sự lây lan gây hại của RSBH là hết sức cần thiết.

Phú Yên có diện tích sắn khoảng 21.000ha, là một trong những cây trồng chủ lực của tỉnh và góp phần mang lại nhiều lợi ích kinh tế cho nông dân. Năm 2014, Chi cục Bảo vệ thực vật (BVTV) Phú Yên đã phát hiện RSBH gây hại sắn trên giống KM94 với diện tích khoảng 40ha, tập trung tại xã An Hải và An Hòa (huyện Tuy An) với tỉ lệ hại 15 – 80% cây. Đầu tháng 4/2015, Chi cục BVTV Phú Yên đã phát hiện RSBH gây hại trên cây sắn giai đoạn khoảng 3 tháng tuổi tại huyện Đồng Xuân với diện tích 40ha, tỉ lệ hại 1 – 70% cây, trên giống KM94, KM98-5, KM419…

Để chủ động phát hiện, phòng trừ, ngăn chặn sự lây lan của RSBH giữa các địa phương trong địa bàn tỉnh, Chi cục BVTV Phú Yên đề nghị các địa phương có trồng sắn chủ động và khẩn trương thực hiện một số nội dung sau:

1. Biện pháp phòng, chống:

– Đối với những ruộng sắn có tỉ lệ hại > 30%, tiến hành tiêu hủy cây sắn bị RSBH gây hại và toàn bộ tàn dư thực vật có trên ruộng bị hại, tưới đều dầu hoặc vật liệu dễ cháy khác lên thực vật cần tiêu hủy đã được chất đống và tiến hành đốt hoặc đào hố chôn. Diện tích sắn cần tiêu hủy bao gồm diện tích bị nhiễm RSBH và khu vực giáp ranh trong vòng ít nhất 30m; cày lật đất toàn bộ diện tích đã bị tiêu hủy sau đó sử dụng các thuốc trừ sâu có hoạt chất gốc Thiamethoxam hàm lượng hoạt chất 350g/lít, dạng thành phẩm SC; gốc Imidacloprid hàm lượng hoạt chất 25% W/W, dạng thành phẩm WP; gốc Nitenpiram hàm lượng hoạt chất 50% W/W, dạng thành phẩm WP; gốc Dinotefuran hàm lượng hoạt chất 20% W/W, dạng thành phẩm WP (Actara 25WG, Midan 10WP, Confidor 700WP, Azorin 400WP…). Sử dụng theo nồng độ khuyến cáo và phun với lượng dung dịch nước thuốc đã pha là 600 lít/ha; có thể phối hợp với dầu khoáng để tăng hiệu quả của thuốc; phun thuốc hóa học phải theo nguyên tắc 4 đúng và đảm bảo thời gian cách ly theo khuyến cáo trên bao bì.

– Đối với những ruộng sắn có tỉ lệ hại < 30%, ngắt những bộ phận bị hại cho vào bao đem ra khỏi ruộng để tiêu hủy (biện pháp tiến hành giống như phần tiêu hủy trên) và tiến hành phun trừ RSBH trên toàn bộ diện tích nhiễm bằng những loại thuốc hóa học như phần tiêu hủy. Diện tích phun phủ vùng giáp ranh ít nhất 30m.

2. Một số hoạt động để quản lý RSBH:

Trạm BVTV phối hợp với các xã, thị trấn tiến hành tổng điều tra RSBH trong toàn tỉnh, nhằm xác định vùng gây hại của RSBH để có biện pháp quản lý kịp thời tránh để lây lan trên diện rộng.

– Tập huấn cho nông dân tại các vùng trồng sắn đã nhiễm RSBH về tác hại và biện pháp quản lý cũng như cách tiêu hủy ruộng sắn bị RSBH gây hại.

– Tổ chức tiêu hủy các diện tích sắn bị RSBH gây hại nặng nhằm nhanh chóng cắt đứt nguồn lây lan của dịch hại.

– Theo dõi tỉ lệ ký sinh trong phòng thí nghiệm; bước đầu nhân nuôi ong ký sinh A lopezi chuyên tính trên RSBH để phóng thích trên ruộng sắn.

ThS. NGUYỄN THANH HIẾU (Chi cục Bảo vệ thực vật Phú Yên) – Báo Phú Yên, 25/08/2015

Cách phòng trừ rệp sáp bột hồng hại sắn

Rệp sáp bột hồng hại sắn là đối tượng dịch hại nguy hiểm, rất khó phòng trừ. Từ tháng 6/2012, ngành Nông nghiệp phát hiện rệp sáp bột hồng gây hại trên cây sắn tại Tây Ninh và đến tháng 5/2013, tỉnh này đã công bố dịch rệp sáp bột hồng với hơn 30% diện tích trồng sắn bị hại. Từ năm 2013 đến nay, rệp sáp bột hồng tiếp tục lây lan sang nhiều tỉnh khác như Đồng Nai, Quảng Trị, Nghệ An, Thanh Hóa, Sơn La, Đắk Lắk, Phú Yên…

Đầu tháng 9/2014 vừa qua, Chi cục Bảo vệ thực vật Phú Yên đã phát hiện rệp sáp bột hồng hại sắn tại xã An Hải và An Hòa (huyện Tuy An); giống sắn bị nhiễm là KM 94 với diện tích khoảng 15ha. Rệp sáp bột hồng là loại sâu hại nguy hiểm, rất khó phòng trừ và là đối tượng dịch hại mới, lần đầu tiên xuất hiện ở nước ta. Rệp sáp bột hồng có khả năng lây lan rất nhanh qua hom giống, phát tán theo gió, trôi theo nguồn nước, bám dính trên phương tiện vận chuyển… và có nguy cơ gây hại nghiêm trọng làm giảm năng suất, chất lượng sắn. Nếu không có biện pháp ngăn chặn kịp thời, sâu hại này sẽ phát tán, lây lan nhanh chóng ra các vùng trồng sắn ở những địa phương khác.

Do tính chất nguy hiểm và nguy cơ gây hại nghiêm trọng của rệp sáp bột hồng đối với sản xuất sắn trong tỉnh, Sở NN-PTNT vừa có văn bản đề nghị UBND các huyện, thị xã, thành phố chỉ đạo phòng Kinh tế, phòng NN-PTNT phối hợp cùng các trạm Bảo vệ thực vật và Khuyến nông tổng điều tra rệp sáp bột hồng trên địa bàn, nhằm xác định, đánh giá vùng gây hại của rệp sáp bột hồng để có biện pháp quản lý kịp thời, hiệu quả. Tập huấn cho nông dân các vùng trồng sắn về tác hại và biện pháp quản lý dịch rệp sáp bột hồng. UBND huyện Tuy An cần sớm chỉ đạo các xã An Hải và An Hòa phối hợp cùng Trạm Bảo vệ thực vật huyện khoanh vùng bị dịch hại, tiêu hủy các diện tích sắn bị nhiễm rệp sáp bột hồng gây hại nặng theo đúng quy trình…

Biện pháp phòng trừ rệp sáp bột hồng:

Khi làm đất trồng sắn cần phải tiêu hủy triệt để tàn dư cây sắn, cây ký chủ phụ của rệp sáp bột hồng. Chọn hom giống không bị nhiễm rệp sáp bột hồng để trồng, phải xử lý hom giống trước khi trồng. Chăm sóc tốt để cây sắn sinh trưởng phát triển nhanh, tăng sức chống chịu dịch hại. Trồng sắn với mật độ hợp lý, bón phân đầy đủ, cân đối để cây sắn sinh trưởng phát triển khỏe mạnh tăng khả năng chống chịu rệp. Thường xuyên vệ sinh ruộng sắn, diệt sạch cỏ dại, cây ký chủ phụ để rệp không có nơi cư trú. Luân canh cây sắn với các cây trồng khác như đậu, lúa nước… để giảm nguy cơ xuất hiện rệp sáp bột hồng. Biện pháp sinh học: Nhân nuôi và phóng thích ra đồng ruộng ong ký sinh Anagyrus lopezi De Santis hoặc Epidiocarsis lopezi De Santis để kiểm soát rệp sáp bột hồng hại sắn. Bảo vệ và lợi dụng các loài côn trùng bắt mồi ăn thịt trong tự nhiên như bọ rùa, bọ cánh gân, bọ xít đỏ… để kiểm soát rệp sáp bột hồng. Đánh giá, chọn những giống sắn kháng hoặc chống chịu rệp sáp bột hồng, đảm bảo năng suất và chất lượng để đưa vào trồng thay thế các giống sắn bị nhiễm bệnh. Biện pháp hóa học: Trước khi trồng phải xử lý hom giống bằng cách ngâm trong dung dịch nước thuốc 30 phút trước khi trồng. Sử dụng các thuốc trừ sâu có hoạt chất Thiamethoxam, Imidacloprid (pha 4g thuốc trong 20 lít nước) hoặc Dinotefuran (pha 40g trong 20 lít nước). Khi phát hiện rệp sáp bột hồng hại sắn trên đồng ruộng trong điều kiện thời tiết khô, nắng nóng, một số thiên địch trên đồng ruộng thấp thì phải phun trừ rệp sáp bột hồng trên diện tích sắn bị nhiễm và diện tích liền kề bao quanh trong phạm vi tối thiểu 30m bằng các thuốc trừ sâu gốc Thiamethoxam. Sử dụng theo nồng độ khuyến cáo và phun với lượng dung dịch nước thuốc đã pha là 600 lít/ha. Có thể phối hợp với dầu khoáng để tăng hiệu quả của thuốc. Phun thuốc hóa học phải theo nguyên tắc 4 đúng và đảm bảo thời gian cách ly theo khuyến cáo trên bao bì.

NGỌC NHƯ (tổng hợp) – Báo Phú Yên, 23/09/2014

Giải pháp phòng trừ rệp sáp bột hồng hại sắn

Lần đầu tiên các tổ chức quốc tế chung tay bàn giải pháp ngăn chặn sự tàn phá của loài rệp sáp bột hồng (RSBH) gây hại cây mì (sắn) tại VN cũng như các nước trong khu vực Đông Nam Á.

Loài sâu bệnh này được cảnh báo sẽ gây ra sự tàn phá vô kể trên cây mì với mức độ thiệt hại năng suất có thể lên đến 82%… RSBH gây hại nhiều nhất cho cây mì được phát hiện tại VN từ tháng 7/2012 sau khi bùng phát ở Thái Lan (2008) và Campuchia (2009).

Loài rệp này xâm nhập vào VN chủ yếu qua việc trao đổi buôn bán hom giống mì từ vùng biên giới với Campuchia. RSBH đang phát tán tấn công trên nhiều vùng trồng mì ở nước ta và Lào, Campuchia, Myanmar, Indonesia… đe dọa tàn phá các vùng trồng mì trong khu vực Đông Nam Á. 

Theo các nhà khoa học, RSBH có khả năng lây lan rất nhanh qua hom giống, phát tán theo gió, trôi theo nguồn nước, bám dính trên cơ thể động vật, người, hay các công cụ, phương tiện vận chuyển…nên rất khó phòng ngừa. Khi bị RSBH tấn công, cây mì có hiện tượng chùn ngọn và nếu bị nhiễm ở mật độ cao có thể làm rụng hết lá. Do vậy, chất lượng và năng suất sẽ giảm đáng kể. 

TS Kris Wyckhuys, nhà côn trùng học thuộc Trung tâm Nông nghiệp nhiệt đới quốc tế (CIAT) cho biết: “Không chỉ ở cây mì, loài RSBH có thể chuyển sang sống trên các lộc non của cây cao su để gây hại trong những điều kiện nhất định. Đây là nguy cơ rất lớn đối với một nước có diện tích trồng cao su nhiều như VN. Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy dịch bệnh có tác động gây hại lớn đối với mì”.

Theo ông Kris Wyckhuys, loài rệp này đã gây hại làm giảm năng suất của cây mì ở châu Phi lên tới 82% (1980). Tuy nhiên, cũng rất khó đánh giá được tác động chính xác của các loài gây hại và bệnh mới, mặc dù chúng làm giảm năng suất, sản lượng đáng kể cho cây trồng và đang lan truyền nhanh chóng trong khu vực Đông Nam Á.

Trước thực trạng này, việc tìm ra các giải pháp để ngăn chặn và kiểm soát chặt chẽ loài RSBH đang là vấn đề cấp bách nhằm bảo vệ cây mì tại VN cũng như trong toàn khu vực. TS Trịnh Xuân Hoạt, Phó Viện trưởng Viện BVTV nhấn mạnh: “Chúng tôi xem sâu bệnh trên cây mì là một vấn đề mới và nghiêm trọng không riêng ở quốc gia nào mà ở toàn khu vực. Do đó, cần có kiến thức hiểu biết rộng về loại dịch hại này và hợp tác nghiên cứu giữa các nước để giải quyết những mối đe dọa trên cây trồng”.

Theo ông Hoạt, thực tế việc sử dụng thuốc hóa học để phun phòng trừ RSBH đem lại hiệu quả rất thấp chỉ đạt 5% do rệp sống ở những vị trí kín trên cây mì. Ngoài ra, do rệp có lớp sáp và bột trắng bao phủ trên thân nên thuốc không bám dính hết vào cơ thể và tiêu diệt được chúng. Do vậy, cần tổ chức các khóa đào tạo để trang bị cho các hội nghiên cứu khu vực kiến thức mới về các mối đe dọa đối với cây mì và phán đoán, điều tra phân tích kỹ thuật quản lý dịch hại.

TS Ngô Quang Vinh, Phó Viện trưởng Viện KHKT Nông nghiệp miền Nam (IAS) cho biết: “Không chỉ gây hại cho cây mì, RSBH còn xuất hiện trên một số cây ăn quả như nhãn, ổi, đu đủ, thơm… Tại thời điểm này, rệp sáp chính là đối tượng sâu hại nguy hiểm nhất đối với cây mì và mức độ gây hại thì vô cùng.

Kinh nghiệm ở châu Phi cho thấy, phần lớn RSBH trên cây mì đến nay đã được kiểm soát nhờ có ong ký sinh Anagyruslopezi, một kẻ thù tự nhiên chuyên biệt của dịch hại. Còn tại Thái Lan ngay từ khi phát hiện loài rệp này lần đầu tiên cũng đã nhanh chóng phóng thích loài ong ký sinh và đã thu được hiệu quả rất cao”. 

PGS.TS Nguyễn Xuân Hồng, Cục trưởng Cục BVTV:

“RSBH là đối tượng sâu bệnh mới phát hiện ở VN năm 2012 tại vùng mì Tây Ninh. Nhiều nước trồng mì trong khu vực cũng bị ảnh hưởng bởi đối tượng dịch hại này. Một trong những biện pháp phòng trừ bền vững hiệu quả nhất hiện nay là sử dụng ong ký sinh.  

Những ổ dịch mới phát sinh cần phải tiêu hủy ngay nguồn bệnh từ gốc. Đồng thời kiểm tra chặt chẽ hom giống, không để lây lan từ vùng dịch, hướng dẫn nông dân ngăn chặn bằng biện pháp kiểm dịch nội địa. Việc nhân nuôi ong ký sinh để thả ra môi trường sẽ cho hiệu quả rất cao, tới 90% như ở Tây Ninh”. 

MINH SÁNG  – Nông nghiệp VN, 11/12/2013

Phòng trừ bệnh chổi rồng trên cây mì 

Triệu chứng: Hom giống bị nhiễm bệnh chổi rồng nẩy mầm chậm, mầm sinh trưởng kém, lóng thân mầm ngắn, lá thường nhỏ hơn bình thường, mầm cây thấp lùn. Trên thân cây đang thời kỳ sinh trưởng, các mầm ngủ thường mọc ra nhiều chồi phụ. Những cây nhiễm bệnh sớm sẽ sinh trưởng kém, năng suất và chất lượng củ giảm. Những cây nhiễm bệnh nhẹ, thời điểm nhiễm bệnh muộn, đến gần thời kỳ thu hoạch ngọn cây bị khô, các chồi trên thân mọc ra nhiều chùm nhánh trông giống bụi cỏ nhỏ, cây sẽ ít củ và củ nhỏ. Nếu bệnh nặng thì thân cây có biểu hiện chảy mủ và chuyển màu nâu xám.

Bệnh do một loài dịch khuẩn bào (tên khoa học là Phytoplasma), là một loài dịch khuẩn chuyển tiếp từ virus và vi khuẩn. Nguồn lây lan chủ yếu từ hom giống bị nhiễm bệnh, hoặc do một loài rầy xám (tên khoa học Hishimonus phycitis) làm trung gian lây truyền bệnh từ cây này sang cây khác, từ vườn này sang vườn khác. Bệnh thường phát sinh phát triển trong điều kiện nhiệt độ cao (từ tháng 5 đến tháng 8 hàng năm), trên những diện tích trồng độc canh, đầu tư chăm sóc kém.

Biện pháp phòng trừ: Hiện nay chưa có thuốc trị bệnh chổi rồng cây mì, nên phòng bệnh là chính. Đối với những diện tích bị nhiễm bệnh vào gần thời kỳ thu hoạch, cần tập trung thu hoạch nhanh, gom tất cả thân, gốc, rễ, lá đem tiêu hủy. Thực hiện việc kiểm dịch giống mì nội địa, không lưu thông và trồng giống nhiễm bệnh. Luân canh mì với cây bắp, đậu nành, đậu phụng, rau dưa… từ 1 – 2 năm, rồi lại trồng mì. Đầu tư thâm canh đúng mức (bón phân đủ lượng, cân đối, kịp thời; vệ sinh phòng bệnh). Theo dõi, phát hiện bệnh sớm, đào cây bị bệnh đem tiêu hủy, rắc vôi bột để diệt mầm bệnh và hạn chế lây lan. Có thể xử lý hom giống trước khi trồng bằng nước nóng 540C trong thời gian 60 – 90 phút, hoặc sử dụng một số loại thuốc như Kendal, Bion, Olivis (theo hướng dẫn trên bao bì) để loại trừ mầm bệnh. Nên trồng các giống sắn KM 140, KM98-5, SM973-26… có năng suất cao, chất lượng củ tốt, có khả năng kháng bệnh chổi rồng.

TRẦN DUY KHẢ (Trung tâm KNKN tỉnh Bình Định) – Báo Bình Định, 20/03/2015

Kinh nghiệm trồng mì đạt năng suất, chất lượng cao 

Để cây mì sinh trưởng tốt, cho nhiều củ, ông Ngọc tìm hiểu các kỹ thuật trồng mì hiệu quả trên các phương tiện thông tin đại chúng và các tài liệu khuyến nông, tài liệu kỹ thuật. Ông Ngọc cũng nhận thấy mì là loại cây trồng có sức hút dinh dưỡng mãnh liệt từ đất nên việc bón phân, bổ sung dưỡng chất cho đất là yêu cầu bắt buộc nếu không muốn đất nhanh bạc màu.

Ông Bùi Công Ngọc (sinh năm 1979, ngụ ấp Tân Trường, xã Tân Hiệp, Tân Châu, Tây Ninh) là nông dân trồng mì (sắn) tiêu biểu của tỉnh. Nhiều năm liền, diện tích mì do ông Ngọc trồng luôn cho năng suất và hàm lượng bột (chữ bột) cao.

Năng suất củ mì bình quân ông Ngọc trồng đạt từ 45 – 50 tấn/ha, cá biệt có những đám mì đạt năng suất đến 80 tấn/ha. Nhờ cây mì mà gia đình ông Ngọc có thu nhập ổn định, nâng cao đời sống kinh tế. Ông Ngọc chia sẻ một số kinh nghiệm trồng đúc kết được từ hơn 10 năm qua.

Ông Ngọc cho biết, ông là con nhà nông “chính gốc”. Tuy nhiên, như đa phần nông dân khác, gia đình ông Ngọc sản xuất nông nghiệp kiểu tự phát, quá trình canh tác thụ động, phụ thuộc thiên nhiên, công cụ thô sơ, kiến thức hạn chế.

Mặt khác, lúc ấy ông cũng chưa có điều kiện tiếp cận tiến bộ khoa học kỹ thuật để áp dụng vào thực tiễn sản xuất. Vì thế, suốt một thời gian dài hiệu quả sản xuất rất kém. Sau nhiều lần chọn lựa, thay đổi nhiều loại cây trồng, ông Ngọc quyết định trồng mì trên toàn bộ diện tích 10 ha đất với sự đầu tư, chăm sóc “bài bản”.

Để cây mì sinh trưởng tốt, cho nhiều củ, ông Ngọc tìm hiểu các kỹ thuật trồng mì hiệu quả trên các phương tiện thông tin đại chúng và các tài liệu khuyến nông, tài liệu kỹ thuật.

Ông Ngọc cũng nhận thấy mì là loại cây trồng có sức hút dinh dưỡng mãnh liệt từ đất nên việc bón phân, bổ sung dưỡng chất cho đất là yêu cầu bắt buộc nếu không muốn đất nhanh bạc màu.

Tuy nhiên, không giống như nhiều người khác, ông Ngọc hạn chế sử dụng phân hoá học, thay vào đó là phân bón có nguồn gốc hữu cơ, hữu cơ vi sinh. Đồng thời, để cải tạo đất trồng, ông Ngọc áp dụng phương pháp luân canh, trồng nhiều loại cây khác nhau như bắp, đậu phộng chứ không chỉ độc canh cây mì.

“Giống cũng là một yếu tố mang tính quyết định đến năng suất của cây mì. Hiện nay, trên địa bàn huyện Tân Châu nói riêng và Tây Ninh nói chung, nông dân đang trồng một số giống mì chủ lực như KM94, KM98-5, KM419, KM140, MO101… Những giống mì này có ưu điểm và hạn chế nhất định.

Sau khi trồng qua nhiều loại giống mì, tôi nhận thấy giống KM94 rất tốt, năng suất và chữ bột cao. Tuy nhiên, đáng tiếc là gần đây, giống này dần có hiện tượng bị thoái hoá, mẫn cảm với bệnh chổi rồng nên tôi đã hạn chế sử dụng. Giống KM98-5 phù hợp với đất gò nhưng củ mì có cuống dài, khi thu hoạch dễ bị đứt củ; khi trồng ở vùng đất trảng cho hàm lượng bột thấp.

Giống KM140 sinh trưởng tốt nhưng thời gian giữ bột ngắn nên độ bột sẽ giảm nhanh nếu thu hoạch muộn khi đến tuổi. Giống MO101 cho năng suất và chữ bột cao nhưng bột lại có màu ngả vàng, thị trường tiêu thụ không chuộng.

Hiện thời, tôi đánh giá cao giống KM419 do có nhiều ưu điểm vượt trội so với các giống mì vừa kể. Giống này cho củ độ bột cao (bình quân 28 – 30%) khi trồng ở đất gò, năng suất bình quân từ 40 – 45 tấn/ha; nếu mì được chăm sóc tốt có khả năng đạt 70 – 80 tấn/ha.

Khi trồng ở vùng đất thấp, năng suất bình quân đạt khoảng 35 – 40 tấn/ha, độ bột 25 – 26%, nhỉnh hơn nhiều giống mì khác”, ông Ngọc cho biết.

Cách trồng mì cũng là yếu tố quan trọng tác động nhiều đến năng suất. Khi trồng, đất phải được dọn kỹ, phải tơi xốp. Ông Ngọc đã thử nghiệm nhiều cách trồng khác nhau từ trồng hom nằm truyền thống đến cách trồng mới là cắm hom đứng, hom xiên.

Kết quả cho thấy, mỗi cách trồng cho hiệu quả khác nhau, trong đó nếu trồng theo cách cắm hom xiên cho năng suất cao nhất. Mì được trồng theo cách cắm hom xiên giúp mầm phát triển nhanh hơn. Nếu gặp mưa, bào cây mì vẫn không bị đất vùi lấp và vẫn nảy mầm, phát triển với tỷ lệ từ 96 – 98%.

Năng suất mì trồng hom xiên cao hơn các cách trồng khác còn là do bề mặt hom tiếp với đất nhiều, phần củ phát triển vòng tròn xung quanh gốc và được nhiều tầng củ.

ĐÌNH CHUNG – Báo Tây Ninh, 28/09/2015

Sử dụng ong ký sinh để quản lý rệp sáp bột hồng hại sắn 

Quy trình là giải pháp kỹ thuật của Trung tâm Bảo vệ thực vật phía Nam và Chi cục Bảo vệ thực vật Tây Ninh, với sự hỗ trợ của Tổ chức FAO (năm 2013), đã nhân nuôi và phóng thích thành công ong ký sinh (Anagyrus lopeizi), giúp nông dân trồng sắn (Manihot esculenta Crantz) tại các tỉnh Tây Ninh, Đồng Nai và Bà Rịa – Vũng Tàu quản lý rệp sáp bột hồng (Phenacoccus manihoti) hiệu quả, bảo vệ môi trường bền vững.

Quy trình này áp dụng cho cho các vùng trồng sắn trong cả nước.

Cây sắn bị rệp sáp bột hồng

1. Vật liệu và phương tiện

– Chậu nhựa có đường kính 30 cm, cao 40 cm.

– Hom giống (sắn), quả bí.

– Đất, tro (mùn), phân.

– Lồng lưới có kích thước 1 x 1 x 1 m, kệ, vải lưới.

– Tủ định ôn, máy định vị.

– Dụng cụ dùng để bắt ong, chai nhựa để trữ ong, mật ong, bông gòn,…

2. Phương pháp thực hiện

Bước 1: Nhân nuôi rệp sáp bột hồng

Tiến hành trồng các hom sắn vào trong chậu có chuẩn bị sẵn đất trồng bên trong, mỗi chậu trồng 03 hom sắn. Khi cây sắn được 2 tháng tuổi, thu thập các ổ trứng của rệp sáp bột hồng ngoài đồng đem thả trên các lá sắn. Số lượng từ 5-8 ổ/cây, ấu trùng mới nở sẽ di chuyển đến chồi non để sinh sống.

Trong trường hợp cây sắn héo hoặc chết, ấu trùng mới nở sẽ được chuyển sang cây sắn mới bằng cách đặt các lá sắn lên cây bị héo để bẫy các ấu trùng di chuyển sang, sau đó đem các lá có ấu trùng đặt lên cây sắn mới.

Sau 21 -25 ngày sẽ có được ấu trùng từ tuổi 3 đến trưởng thành.

Khi rệp sáp bột hồng trên cây chuyển sang tuổi 3, tiến hành nhân nuôi trên quả bí. Cách nhân nuôi trên quả bí như sau:

– Chọn các quả bí có màu xanh đậm (loại quả có da sần sùi sẽ rất thích hợp để nhân nuôi rệp sáp bột hồng). Rửa sạch các quả bí, để cho khô, sau đó xếp các quả bí lên kệ, số lượng từ 18-20 quả, kệ được đặt bên trong lồng lưới có kích thước 0,8 x 0,9 x 0,7 m, các lồng lưới được kê lên cao cách mặt đất khoảng 0,5m.

– Cắt các lá sắn có rệp sáp bột hồng tuổi 3 đặt lên các quả bí, sau đó dùng một miếng vải tối màu che lại để rệp sáp bột hồng di chuyển sang các quả bí. Sau 3-5 ngày, rệp sáp bột hồng sẽ di chuyển hết và sổng ổn định trên quả bí, chúng sẽ sinh trưởng phát triển và gia tăng quần thể.

Bước 2: Nhân nuôi ong ký sinh

Khi quan sát thấy quần thể rệp sáp bột hồng phủ 75% bề mặt của quả bí thì tiến hành cho ký sinh, số lượng ong được thả vào lồng là 8 cặp ong/quả bí (tùy thuộc vào số lượng quả bí có trong lồng). Sau 15-21 ngày (tùy thuộc vào điều kiện nhiệt độ môi trường) sẽ thu được nguồn ong ký sinh mới.

Chuẩn bị dụng cụ chứa ong ký sinh:

– Dùng chai nhựa (có thể sử dụng chai nước suối đã qua sử dụng), phơi khô. Cắt một lỗ có kích thước khoảng 4 x 4 cm trên thân chai, sau đó cắt một miếng vải lưới có kích thước lớn hơn dán vào để tạo độ thông thoáng.

– Cắt một miếng giấy xốp cỡ 3 x 3 cm thấm vào dung dịch mật ong đã pha loãng 5%, dán vào trong thành của chai nhựa để bổ sung thức ăn cho ong.

Dùng dụng cụ bắt ong để thu ong cho vào các chai nhựa chứa ong đã được chuẩn bị sẵn, mỗi chai nhựa loại 500ml có thể chứa được 500 cặp ong. Nếu chưa phóng thích ngay thì có thể trữ ong vào tủ định ôn ở nhiệt độ 15°C trong vòng 30 ngày.

Bước 3: Phóng thích ong ký sinh

Chọn ruộng sắn bị nhiễm rệp sáp bột hồng để phóng thích ong ký sinh.

Tiến hành điều tra, đánh giá hiện trạng ruộng sắn bị nhiễm rệp sáp bột hồng để xác định mức độ nhiễm rệp sáp bột hồng trước khi phóng thích.

Số lượng ong phóng thích: từ 300 – 1.000 cặp ong ký sinh/1 ha, tùy theo mức độ nhiễm rệp sáp bột hồng trên ruộng sắn. Cách phóng thích như sau:

– Chia ruộng sắn thành từng điểm nhỏ và phóng thích ong theo từng điểm trên ruộng.

– Phóng thích theo hướng gió để ong ký sinh thuận lợi phân bố và phát tán.

– Mở nắp chai đựng ong, vỗ nhẹ vào thành chai ong sẽ bay ra. Thả 4-5 cặp ong/ngọn sắn nhiễm rệp.

– Lưu ý: Không phóng thích ong khi trời đang mưa, sáp chuyển mưa hoặc nắng gắt. Phóng thích ong tốt nhất vào sáng sớm. Thông báo, vận động nông dân không phun thuốc hóa học, nhất là nhóm thuốc trừ sâu trong khu vực đã phóng thích ong ký sinh.

Khuyến Nông VN, 27/06/2017 

Các tin có liên quan