Kỹ thuật trồng cam, quýt, cam sành, cam cara

Giống cam chín sớm CS1 

Đây là giống cam chín sớm, sinh trưởng khoẻ, góc phân cành rộng, năng suất thu hoạch cao (trung bình đạt 27 – 30 tấn quả/ha)…

Nguồn gốc: Giống cam CS1 do Th.S Nguyễn Xuân Hồng, Th.S Phạm Ngọc Lin và cộng sự Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển cây có múi (Viện Nghiên cứu Rau quả) chọn lọc cá thể từ quần thể cam trồng tại xã Liên Nghĩa, huyện Văn Giang, Hưng Yên. Giống đã được Bộ NN-PTNT công nhận chính thức từ tháng 2/2017.

Đặc điểm: Đây là giống cam chín sớm, sinh trưởng khoẻ, góc phân cành rộng, năng suất thu hoạch cao (trung bình đạt 27 – 30 tấn quả/ha). Thời gian cho thu hoạch quả từ 15 – 20/10. Khối lượng quả trung bình đạt 230 gram. Khi chín vỏ quả màu da cam, ruột quả vàng, ít hạt, tép nhỏ, ít xơ, mọng nước, hương thơm, vị ngọt đậm (Brix 10,5%).

Hướng sử dụng và yêu cầu kỹ thuật: Chọn đất trồng có tầng canh tác dày trên 1m, tưới tiêu thuận lợi. Vườn trồng cam nên trồng mít hoặc hồng xiêm làm hàng cây chắn gió. Thời vụ trồng tốt nhất: tháng 2 – 4 và tháng 8 – 9. Mật độ trồng 550 cây/ha. Khoảng cách trồng 4 x 4m/1 cây. Đào hố trồng kích thước 1 x 1 x 1m/1 hố.

Lượng phân bón/1 gốc cam từ 1 – 4 năm tuổi là: Urê 100 – 300g; Lân supe 300 – 400g; Kali clorua 70 – 240g (chia đều phân bón cho cây vào các tháng 2; 4; 6; 10 và 12. Riêng phân chuồng bón 50 – 60kg/gốc vào tháng 2 hàng năm.

Làm cỏ, tưới nước, tủ gốc giữ ẩm, đảm bảo độ ẩm đất vườn luôn đạt từ 70 – 75% từ sau cây đậu quả và trong giai đoạn quả lớn. Cắt tỉa 3 lần/năm (sau thu hoạch, vụ xuân và vụ hè), cắt bỏ tất cả những cành nằm sâu trong tán, cành nhỏ, cành gày yếu, cành sâu bệnh, một số cành vượt, cành mọc đan xen nhau và tỉa bỏ các quả nhỏ quả dị hình.

Sâu bệnh hại chính và thuốc phòng trừ: Sâu vẽ bùa phun Polytrin 440EC khi lộc non mới nhú. Sâu đục cành dùng Supracide 0,2 – 0,25% khi lộc non xuất hiện, hoặc bơm Ofatox 0,1% vào lỗ đục trên cành, sau lấy đất vườn bịt kín miệng vào lỗ. Rệp hại phun DC Tron Plus 0,5% hoặc Supracide 0,2%. Rầy chổng cánh sử dụng dầu khoáng DC Tron Plus 0,5% hoặc dùng Sherpa 0,2% phun trừ. Nhện đỏ dùng một trong các loại DC Tron Plus 0,5%, Pegarus 0,2% hoặc Saromite 0,15%. Bệnh loét cam phun phòng bằng Boocđo 1%. Để phòng trừ sâu đục thân cần vệ sinh vườn, gốc cây sạch sẽ, dùng nước vôi đặc quét gốc cây, bơm Supracide 0,2 – 0,25% vào lỗ có sâu để diệt sâu non.

Cam CS1 sau trồng 3 năm đã bắt đầu cho quả bói, từ sau năm thứ 5 cho năng suất cao sản. Thu hoạch quả vào ngày nắng ráo. Quả thu xong cần để nơi thoáng mát. Không thu hái quả vào các ngày có mưa, ngay sau mưa hoặc ngày có sương mù, vì chất lượng quả sẽ giảm, dễ bị ẩm thối.

Địa phương đã áp dụng thành công: Hưng Yên, Hoà Bình, Sơn La, Hà Giang, Nghệ An…

PHƯƠNG NGUYỄN – Nông nghiệp VN, 09/10/2018

Lợi ích từ trồng hoa mười giờ trong vườn cam 

Ông Mai Văn Chợ, ở ấp Bình Trung, xã Long Bình, thị xã Long Mỹ, tỉnh Hậu Giang, trồng được gần 800 gốc cam mật. Trong đó, diện tích đang cho trái là 3,5 công, còn lại đang chuẩn bị cho trái chiếng và khoảng 2 công mới trồng được hơn 1 năm. Trên diện tích cam mới trồng, ông Chợ đã trồng các loại hoa mười giờ Đà Lạt trên các mô xung quanh gốc cam. Theo ông Chợ việc trồng hoa mười giờ Đà Lạt xung quanh gốc cam không chỉ giúp tạo độ ẩm cho đất mà còn dẫn dụ các loại thiên địch có lợi cho cây trồng. Sau khoảng 1 năm trồng hoa trong vườn cam, ông Chợ đã thấy hiệu quả rõ rệt. Nếu như trước đây cùng với diện tích này, ông Chợ phải mất mỗi tháng hàng trăm ngàn tiền thuốc bảo vệ thực vật thì nay chi phí giảm 50%. Công chăm sóc cho diện tích cam này cũng giảm vì hoa đã giúp che gốc tạo độ ẩm lâu dài hơn cho cam nên nhẹ công tưới trong mùa khô hạn.

Tin, ảnh: NGUYÊN HÀ – Báo Hậu Giang, 07/06/2017

Xử lý cam cho trái nghịch vụ bằng màng phủ 

Cam xoàn mùa nghịch thường cho giá trị cao gấp đôi so với mùa thuận, vì vậy hiện nay một số nhà vườn trồng cam trong tỉnh Hậu Giang đã áp dụng kỹ thuật xử lý cho trái mùa nghịch. Đó là sử dụng màng phủ nông nghiệp trong canh tác cam.

Hai năm nay, ông Phạm Văn Cơ, ở ấp Ba Ngàn, xã Đại Thành, thị xã Ngã Bảy, đã ứng dụng màng phủ xử lý ra hoa nghịch vụ cho cam. 5 năm trước, ông Cơ đầu tư trồng 6 công cam xoàn, khi cây cho trái chiếng đúng vào mùa thuận nên bán giá không cao, chưa có lợi nhuận. Từ đó, ông đã nghĩ đến việc tăng thu nhập bằng việc cho trái nghịch vụ nên ông đi tìm tòi, học hỏi kinh nghiệm nhiều nơi để áp dụng. Năm đầu thực hiện màng phủ che gốc cam thì việc xử lý không cho kết quả như mong đợi. Ông Cơ cho biết vì lúc đó ông chưa nắm rõ kỹ thuật phủ gốc, đôi lúc chỗ gốc cây bị nước rỉ vào, thời gian đậy chưa đúng nên cam cho trái không đồng loạt. Đến năm 2016, ông Cơ được ngành nông nghiệp xã mời tham gia lớp tập huấn kỹ thuật trồng cam do nhà khoa học từ Trường Đại học Cần Thơ hướng dẫn nên từ vụ cam năm tiếp theo ông đã xử lý ra hoa thành công.

Ông Cơ chia sẻ kinh nghiệm: “Đậy màng phủ là phương pháp cắt nước trong mùa khô, nhằm tạo sự căng thẳng sinh lý trong cây để kích thích ra chồi non. Sau đó, mở màng phủ và tưới nước thì cây sẽ ra hoa. Phương pháp này giúp cây cho trái đồng loạt, việc thu hái cũng dễ dàng hơn”. Ông Cơ cũng lưu ý khi thực hiện nên bón phân hữu cơ hoai mục để giữ ẩm cho cây và đảm bảo dinh dưỡng cho cây phát triển, tránh rụng lá trong thời gian bị cách ly với nước. Trong thời gian này nên dùng các loại thuốc chống rụng trái, phòng tránh nhện đỏ, nhện vàng bằng các loại thuốc an toàn được khuyến cáo. Cũng nhờ biết kỹ thuật, vụ cam năm 2016, ông Cơ bán cam được giá cao, dao động từ mức 24.000-30.000 đồng/kg. Với 6 công cam cho trái nghịch vụ, ông Cơ nhẩm tính thu lời hơn 500 triệu đồng sau khi trừ chi phí đầu tư, công chăm sóc.

Nông dân Nguyễn Văn Kịch, ở ấp Phương An B, xã Phương Phú, huyện Phụng Hiệp, cũng rủng rỉnh thu tiền nhờ áp dụng biện pháp này. Ông Kịch cho biết, làm màng phủ cho cây cam cũng tương tự như làm màng phủ trong canh tác hoa màu, bao gồm cao su dẻo đậy phủ kín gốc cây. Việc che màng phủ cho cam khoảng 2 tháng thì màng phủ sẽ ngăn nước mưa tiếp xúc với mặt đất, làm ẩm độ trong đất tăng cao. Nhà vườn vẫn chăm sóc, bón phân cho cây bình thường, khi mở màng phủ mới tưới nước, làm cây cam bị sốc nhiệt, cho ra hoa. Để làm màng phủ cho 1 công cam, ông Kịch phải bỏ ra chi phí đầu tư khoảng 7 triệu đồng, nhưng hiệu quả mang lại khá cao. Vì ông Kịch trồng cam xoàn, loại trái cây luôn được ưa chuông trên thị trường và giá bán cao hơn các loại cam khác. Vào mùa nghịch, cam xoàn thường có giá khoảng 50.000 đồng/kg, cao gấp đôi so với mùa thuận. Vì vậy, thu nhập của ông Kịch cả tỉ đồng/5 công cam mùa nghịch.

Áp dụng kỹ thuật đậy màng phủ cho cây cam chỉ mới xuất hiện khoảng 2 năm gần đây, được nông dân thực hiện chưa nhiều nhưng đã mang về hiệu quả thiết thực. Nếu cách làm này được nhân rộng trên nhiều loại cây trồng khác như chôm chôm, nhãn… sẽ góp phần cải thiện thu nhập cho nhà vườn Hậu Giang.

Bài, ảnh: TRÚC LINH – Báo Hậu Giang, 31/08/2017

Những giải pháp ứng phó tạm thời bệnh vàng đầu trên cam sành 

Trong khi chưa có kết luận chính thức nguyên nhân gây bệnh vàng đầu trên cam sành, các nhà khoa học trong và ngoài tỉnh khuyến cáo nhà vườn tiến hành thực hiện những giải pháp tạm thời như:

– không phun xịt các loại thuốc bảo vệ thực vật trừ dịch hại bừa bãi;

– cần bón phân cân đối dinh dưỡng, áp dụng đúng quy trình kỹ thuật canh tác theo khuyến cáo và quản lý cỏ dại hợp lý trong vườn cam;

– không sử dụng nguồn nước tưới bị nhiễm chất độc hại, đồng thời có biện pháp quản lý sâu bệnh thích hợp;

– đối với vườn cam bị nhiễm bệnh nặng cần đốn bỏ tránh dịch hại lây lan.

Thời gian qua, hiện tượng “vàng đầu” trên cam sành ngày càng diễn biến phức tạp. Từ đó đã gây hoang mang, lo lắng cho không ít nhà vườn ở huyện Châu Thành và thị xã Ngã Bảy. Bởi loại bệnh này chưa xác định rõ nguyên nhân và chưa có thuốc khống chế hữu hiệu.

GIA NGUYỄN – Báo Hậu Giang, 23/04/2014

Để vườn cam sành lâu cỗi 

Nỗi lo của các nhà vườn trồng cam sành là vườn cam rất mau cỗi (trái nhỏ, năng suất giảm). Để khắc phục tình trạng này, cần quan tâm các việc sau đây khi lập vườn cam:

Thời kỳ đầu lập vườn: Ngoài chú ý khoảng cách hợp lý giữa các cây và chuẩn bị phân hữu cơ cho các hốc trồng, việc tạo tán làm cơ sở cho cây có năng suất cao về sau rất quan trọng: từ vị trí mắt ghép trên thân lên khoảng 50- 60cm thì bấm đọt, mục đích là để các mầm ngủ và các cành bên phát triển.

Khi cây được 3 tháng tuổi, chọn 3 cành khỏe từ thân chính dùng cọc cố định cho phát triển ra 3 hướng đều nhau để cây phát tàn đều và rộng. Năm thứ nhất, cây cần phát triển mạnh bộ rễ nên chọn loại phân có tỷ lệ lân (P) cao. Vườn bón đủ lân cây có lá to và dày nên quang hợp mạnh phát triển tốt. Những cây có trái sớm nên lặt bỏ bông và trái để không ảnh hưởng sự phát triển của cây.

Thời kỳ khai thác: Khi cây cho trái toàn thân vẫn tiếp tục chăm sóc bộ rễ cho cây, đậy gốc giữ ẩm cho cây vào mùa khô, loại bỏ các cành vô hiệu tạo thông thoáng cho cây, bón phân NPK đầy đủ cho cây nuôi trái, chú ý bón phân hữu cơ để cải tạo đất cho cây phát triển tốt (10- 30 tấn/ha vì cây có múi rất cần loại phân này). Sau khi thu hoạch trái nhớ tỉa cành cho vườn cây.

Thời kỳ cây già cỗi: Chú ý xới nhẹ gốc, bón nhiều phân đạm (N) giúp cây phát triển nhằm hạn chế trái bị rụng và nhỏ.

Chăm sóc vườn cam sành giai đoạn đầu tốt sẽ giúp vườn cam nói riêng, vườn cây có múi nói chung lâu già cỗi, mang lại hiệu quả kinh tế cao.

TRUNG TÍN – Báo Vĩnh Long, 25/02/2014

Kỹ thuật trồng cam sành 

I. Đặc tính giống:

Cam sành được nhân giống từ nguồn sạch bệnh, Trái dạng tròn dẹp, màu vàng sậm, thịt trái nhiều nước, dẻo, hương vị chua ngọt, trọng lượng trung bình 275 gram/ trái. Chu kỳ khai thác 10 – 15 năm. Phù hợp ăn tươi, chế biến và tiêu thụ nội địa.

Chọn cây giống ghép, đảm bảo tiêu chuẩn trồng và đúng giống, qui cách 60-80 cm, cây xanh tốt, không vàng lá, sâu bệnh.

II. Kỹ thuật trồng:

1/ Chuẩn bị đất trồng:

– Khoảng cách trồng: 6m x 5m, hoặc 5m x 4m

– Kích thước hố: 40cm x 40cm x 40cm, hoặc 60 x 60 x 60 cm.

– Bón phân vào hố: Bón lót: 30 – 40 kg phân chuồng hoai mục + 0,3 – 0,5 kg lân + 0,1-0,2 kg Kali + Vôi bột 0,5 – 1 kg; thuốc sâu bột (Basudin 10H…) 0,1kg). Trộn đều lượng phân trên (không có vôi và thuốc) với lớp đất mặt và lớp đất giữa (khi đào hố để riêng). Trả lớp đất dưới xuống hố, tiếp đó lấp phân và đất đã trộn xuống hố, dùng cuốc phá thành hố sau đó rải vôi lên mặt hố và lấp đất mỏng 2-3 cm. Tiếp đó bơm nước vào đầy hố, khoảng 10-15 ngày sau bón thuốc sâu bột trên mặt hố, dùng cuốc đảo trộn đều khoảng 15 ngày sau là trồng được. Nếu không có phân chuồng có thể sử dụng phân hữu cơ sinh học với lượng 10 – 15 kg/hố. Dùng phân xanh thì phải ủ trước 2 -3 tháng với vôi cho đến khi hoai mục.

2. Bón phân cho cam sành:

Tuổi câyPhân chuồng (kg/cây)Kg/cây
UrêLânKali
1-320-300,1-0,30,3-0,50,2
4-630-500,4-0,50,6-1,20,3
7-960-900,6-0,81,3-1,80,4
Trên 101000,8-1,52,00,5


* Thời kỳ bón:

– Cây từ 1-3 tuổi:có phân chuồng + phân lân bón vào tháng 12 đến tháng 01.

Đạm urê và kali bón làm 3 lần: Lần 1: vào tháng 1-2: 30% đạm; Lần 2: vào tháng 4-5: 40% đạm + 100%kali; Lần 3: tháng 8 – 9: 30% đạm. (thời gian bón còn tùy thuộc vào khí hậu từng vùng)

– Năm thứ 4 trở đi: phân chuồng + lân + vãi sau khi thu hoạch quả (quả tháng 12 sang tháng 1). Thúc lần 1(Bón đón lộc xuân ): Khỏang từ 15/2-15/3: 40% đạm + 40% kali; + Thúc lần 2: vào tháng 4-5: 30% đạm + 30% kali; Thúc lần 3 (Bón thúc cành thu và nuôi quả ): vào tháng 6-7: 30% đạm + 30% kali.

Cách bón: Sau khi thu hoạch: bón theo vành mép tán, đào rãnh sâu 20cm, rộng 30cm. Các loại phân trộn đều cho vào rãnh lấp kín đất, tủ rơm giữ ẩm. Bón thúc vào Lần 1, lần 2 và 3: trộn đều các loại phân hóa học rải đều trong vòng tán cây, với đảo sâu 4-5cm, vùi đất lấp kín, tủ rơm rác giữ ẩm.

3. Tưới nước:

Sau trồng tưới ướt đẩm đất, Sau trồng hai ngày tưới 1 lần, khi cây xanh tốt trở lại 5 – 7 ngày tưới 1 lần. thời kỳ khô hạn, ít mưa nên tưới 3 – 5 ngày 1 lần. Tưới dặm nếu nắng gắt, thoát nước kịp thời khi bị úng. Tiến hành tủ gốc cam.

4/ Sâu bệnh hại và biện pháp phòng trừ:

– Sâu vẽ bùa (Phyllocnistis citrella ): Sâu non đục vào lá gây nên những đường ngoằn ngoèo, thường đi chung với bệnh loét gây nên.
Tỉa cành, bón phân hợp lý, điều khiển sự ra chồi sao cho đồng loạt để hạn chế sư lây nhiễm liên tục trong năm. Phòng trừ bằng cách phun thuốc sớm ngay từ giai đoạn cây ra lộc non . Sử dụng 1 trong các loại thuốc: Phosphomidon, Dimethoate, Trigard, Abamectin và Dimilin có hiệu qủa phòng trị tốt sâu vẽ bùa. Bên cạnh các loại thuốc hóa học thì hiệu quả của dầu khoáng đối với sâu vẽ bùa cũng đã được khẳng định.

– Sâu đục thân, cành: Sâu đục rỗng thân cành gây chảy mủ, cành chết. Sâu đùn mạt cưa ra ngoài miệng hang. Phòng trừ bằng cách cắt bỏ cành bị hại nặng, chích thuốc trừ sâu vào lỗ đục (Dùng thuốc cypermap 25EC, Map permethrin 50EC…), có thể rải ít Basudin 10 H, dùng móc sắt bắt sâu.

– Nhện đỏ, nhện trắng: Có thể sử dụng thuốc hoá học khi mật số Nhện đạt 3 con thành trùng /lá hoặc trái. Sử dụng các loại thuốc đặc trị Nhện, các loại thuốc trừ Sâu gốc Cúc hoặc Lân hữu cơ kết hợp với Dầu khoáng. Ðể ngăn chặn sự bộc phát tính kháng thuốc, khi sử dụng thuốc hóa học cần luân phiên các loại thuốc có gốc hóa học khác nhau. Có thể sử dụng các loại thuốc như Comite, Trebon, Pegasus, Bi 58, Kelthane, Danitol, Ortus 5SC, Selecron 500EC/ND… (theo liều lượng khuyến cáo) và Dầu khóang DC-Tron Plus (nồng độ 0,5%)…

Bệnh Bồ hóng: Bệnh thường xuất hiện nơi râm mát, và đây là bệnh kế phát sau khi có sự hiện diện của côn trùng họ chích hút. Nấm phát triển trên bề mặt lá, cành non, tạo thành lớp dày che kín cả mặt lá, thân, trái. Hạn chế sự phát triển của nhóm côn trùng họ chích hút, bằng các loại thuốc đặc trị cho từng nhóm côn trùng chích hút ấy. Dùng máy phun nước lên tán cây rửa trôi các chất thải của côn trùng họ chích hút thải ra. Hạn chế sử dụng phân bón qua lá, nếu phun phân bón qua lá nhiều bệnh gây hại ngày càng nặng hơn. Phun thuốc trị khi bệnh nặng: Copper B 75 WP, Derosal 60 WP, Kumulus 80 DF, Champion 77 WP với nồng độ 0,2-0,5% hoặc Chlorine 0,04%, phun 7-10 ngày/lần.

5. Các biện pháp chăm sóc khác:

Thường xuyên làm sạch cỏ và trồng cây xen che phủ đất, giữ ẩm, hạn chế cỏ dại theo phương châm lấy ngắn nuôi dài (có thể trồng chuối trong 2 -3 năm đầu)

Tạo tán: đối với cây ghép được tiến hành như sau:Khi chồi mắt ghép cao 30-40 cm thì bấm ngọn tạo cành cấp 1. Khi cành cấp 1 dài 30-40 cm bấm ngọn để tạo cành cấp 2, từ các cành này mọc ra cành cấp 3. Nên để 3-4 cành cấp 1; 6-8 cành cấp 2 và 12-16 cành cấp 3 để tạo cho cây có tán hình mâm xôi, thấp cây dễ chăm sóc.

Thời kỳ nụ hoa, quả non: tỉa hoa dị hình, quả ra muộn. Thời kỳ đậu quả 1-2 tuần: phun bổ sung chất dinh dưỡng và nguyên tố vi lượng.

6/ Chăm sóc cam sau thu hoạch:

Cam, quýt sau thu hoạch cần được chăm sóc, vệ sinh, cắt tỉa, phòng trừ sâu bệnh để cây tiếp tục phát triển và cho mùa bội thu sau.

– Tiến hành làm sạch cỏ dại, sau 25 – 30 ngày thu hoạch cắt tỉa các cành sâu bệnh, cành tược, khô héo, cành tăm hương, mọc không đúng hướng…

– Quét vôi vào gốc cây ngăn sự cư trú của sâu bệnh.

– Phòng trừ sâu bệnh bằng các biện pháp kỹ thuật tổng hợp: bón phân đầy đủ, cân đối, kịp thời, bón đúng kỹ thuật, phun thuốc đúng lúc, đúng cách.

7/ Xử lý ra hoa:

Ngưng tưới và rút nước mương (nếu có) khoảng 2-4 tuần cho đến khi cây vừa “xào lá” (lá hơi héo vào buổi chiều nhưng sáng mai không tươi lại hoàn toàn). Sau đó tưới nước đẫm lại ba ngày liền, ngày tưới hai lần. Ngày thứ tư thì tưới mỗi ngày/lần.

Sau khi tưới nước lại bộ lá tươi trở lại, pha 35ml RA HOA C.A.T + 15g F.Bo/8 lít hoặc kích phát tố hoa trái Thiên Nông 7g + 15g F.Bo/8 lít , phun sương đều tán cây và trong thân cây hai lần (5 ngày/lần) thúc ra hoa đồng loạt, sau khi cây ra đọt non tưới hai ngày/lần.

8/ Thu hái và bảo quản:

Khi quả có màu đỏ da cam và vàng lá cam 1/3 – ¼ diện tích vỏ quả thì thu hoạch, thu hoạch và ngày nắng ráo, dùng kéo cắt hạn chế rụng lá gãy cành.

Hoinongdan, 17/09/2007

Trồng cam sành bằng gốc ghép cây Volka

Anh Nguyễn Văn Ba (tức Bé Ba, sinh 1960), ở ấp 3, xã An Thái Trung (Cái Bè, Tiền Giang) nhờ mạnh dạn, ghép cây cam sành với gốc ghép cây Volka, một loại thuộc họ cây có múi, nhưng có nhiều đặc tính ưu việt, nên vườn cây ăn trái 1,6 ha của anh cho thu nhập lên đến 200 triệu đồng/vụ. Vậy anh Bé Ba, làm bằng cách nào?

Anh Bé Ba nói về bí quyết thành công của mình: “Những năm đầu, anh vẫn chăm sóc cây theo lối truyền thống; sử dụng phân và thuốc hoá học nhiều, nên cây thường bị thiếu nước, năng suất và sản lượng không cao. Anh áp dụng chương trình IPM, theo hướng dẫn của các nhà chuyên môn, anh đã mạnh dạn thả kiến vàng và tăng lượng phân bón hữu cơ theo hướng giảm phân bón hoá học. Nhờ biện pháp trên, trong những năm gần đây vườn cam của anh có sản lượng trên 35 tấn; trong khi đó chi phí sản xuất giảm”. Ngoài việc áp dụng kỹ thuật chăm sóc vườn cây, anh Bé Ba còn mạnh dạn thử nghiệm việc ghép cây cam ghép với gốc Volka, cây có múi cho năng suất cao. Sau kết quả thử nghiệm đó, anh đã thành công; gốc ghép cây cam có một số ưu điểm, như: bộ rễ của cây cam ghép ăn sâu, cây ghép phát triển nhanh, có khả năng chịu được nắng hạn, úng, sâu bệnh và cho năng suất cao…

Thạc sĩ Nguyễn Việt Hoa, Chủ tịch Hội làm vườn huyện Cái Bè, cho biết: nhiều nhà vườn còn e ngại về kỹ thuật ghép gốc Volka vào cây có múi, nhưng anh Bé Ba đã mạnh dạn áp dụng và đạt hiệu quả rất cao.

Agroviet, 2/12/2004

Tìm hiểu giống cam cara cara 

Cam Cara Cara là một giống cây có múi nhập nội, được nhiều nhà vườn quan tâm trong thời gian gần đây. Báo Khoa Học Phổ Thông đã tìm hiểu về việc đưa giống vào Việt Nam cũng như triển vọng phát triển của cam Cara Cara nhằm cung cấp cho các nhà vườn những thông tin cần thiết.

Theo Viện di truyền nông nghiệp (Bộ NN & PTNT), cam Navel là giống cam ngọt đã được trồng rộng rãi ở các vùng cận nhiệt đới, đặc biệt là Mỹ, Brasil, Bắc Phi, Địa Trung Hải từ nhiều thập niên qua. Gần đây Trung Quốc cũng chú trọng phát triển giống cam Navel. Cam Navel có cỡ trái to, dạng trái hình cầu hơi xổm, vỏ dày, khi chín có màu vỏ vàng cam đậm và bóng, mẫu mã rất đẹp. Cam Navel không hạt (0 – 2 hạt), tép đều và sắp xếp đẹp. Từ giống gốc cam Navel, bằng kỹ thuật đột biến các nhà chọn giống đã chọn tạo được một số cá thể có đặc tính ưu việt hơn nhưng vẫn giữ nguyên những đặc tính quý của giống gốc.

Một trong những giống được chọn có tên là giống Cara Cara Navel. Cara Cara Navel được chọn tạo từ một dòng đột biến của giống cam Navel thương mại có tên Washington Navel xuất xứ từ Venezuela. Ở Mỹ và các nước trong khu vực, Cara Cara Navel cho thu hoạch muộn so với cam Hamlin và Valencia – hai giống cam ngọt phổ biến. Giống Cara Cara Navel mang tất cả các đặc điểm chung của giống Navel nhưng khác với các giống Navel khác ở đặc điểm thịt và nước trái có màu đỏ do trong thành phần có chứa hàm lượng lycopen cao.

Năm 2001 Viện di truyền nông nghiệp phối hợp với Nông trường 3/2 Phủ Quỳ – Nghệ An, Nông trường Hòa Bình – Hòa Bình; một số địa phương như Thác Bà – Yên Bái, Văn Giang – Hưng Yên, Bảo Lộc – Lâm Đồng… tiến hành khảo nghiệm giống cam Cara Cara Navel nhập nội, từ Mỹ. Sau đó viện xác định giống cam Cara Cara Navel ruột đỏ không hạt (ký hiệu là N.02) là giống có triển vọng. Viện đang cho trồng thử nghiệm trên diện rộng, sau đó hoàn thiện hồ sơ báo cáo Hội đồng KHCN Bộ NN-PTNT đề nghị công nhận là giống tạm thời.

Trong khi đó, chủ trang trại Phương Mai thuộc Công ty TNHH Phương Mai tại thôn Định An, xã Hiệp An, huyện Đức Trọng, Lâm Đồng, KS. Mai Viết Phương (Việt kiều Úc hồi hương, cựu giảng viên chuyên ngành nông học Trường đại học Western Sydney) cho biết: Cam Cara Cara không hạt giống gốc có xuất xứ từ vùng Valencia -Venezuela, du nhập qua Mỹ, sau đó đến Úc. Từ giống gốc đó, tiến sĩ thực vật học Graeme Richards, Đại học Hawkesbury, miền tây Sydney (Úc) cùng ông Phương và nhóm công tác gồm 30 nhà khoa học lai tạo bằng phương pháp gây đột biến, chọn và duy trì các cá thể biến dị để có được cá thể ruột đỏ thẫm và đặt tên Cara Cara Navel. Ông Mai Viết Phương đem giống cam Cara Cara về trồng thử trên một khu đồi thuộc Đức Trọng, Lâm Đồng. Hiện Công ty Phương Mai đã xuống 10 ngàn cây cam Cara Cara, 5 ngàn cây cam Navel trong nông trại tại Hiệp An, Đức Trọng. Ông Phương cho biết rất nhiều tỉnh, thành trong nước đã đến tham quan tại vườn thực nghiệm trồng cam Cara tại Đức Trọng, sau đó đặt mua giống và nhờ công ty chuyển giao kỹ thuật trồng, chăm sóc cây. Hiện công ty đang cung cấp giống và trợ giúp kỹ thuật cho tỉnh Thanh Hóa trồng 300 ha cam Cara Cara tại Bỉm Sơn; cung cấp giống và trợ giúp kỹ thuật cho tỉnh Kiên Giang lập một vườn cây ăn trái phục vụ du lịch sinh thái trên đảo Phú Quốc; trồng trên 100 ha cam Cara Cara và các giống cây ăn trái nhiệt đới khác tại Ba Vì – Hà Nội; tham gia chương trình cải tạo giống cây ăn trái cho tỉnh Hòa Bình. Ông Phương cho biết toàn bộ giống cam Cara Cara hiện đang nhập từ Úc theo giấy phép của cơ quan quản lý thuộc Bộ NN & PTNT.

Kết quả khảo nghiệm của Viện di truyền

Cây cam Cara Cara Navel trên các vùng trồng thử nghiệm sinh trưởng phát triển khá, phân cành đều. Cây 3 năm tuổi đạt chiều cao trung bình 2,2 m, tán lá trung bình đạt 2,3 m; lá cam Cara Cara Navel hình ô van cong đều và phồng ở bản lá. Cây cam Cara Cara Navel cho thu hoạch lứa trái đầu từ năm thứ ba sau trồng, trung bình 72 trái/cây (60 – 85 trái/cây). Trái cam Cara Cara Navel hình cầu dài hay ô van, rốn trái hơi lồi do có một trái phụ nhỏ bên trong đuôi trái. Vỏ trái dày 3,1 mm, trọng lượng trái trung bình 217 g/trái (180 – 235 g/trái). Vỏ trái khi chín có màu da cam đậm, nhẵn bóng. Cam Cara Cara Navel dễ bóc vỏ, dễ tách múi, hương thơm dễ chịu, vị ngọt có hàm lượng acid ít hơn các giống cam nội địa. Cam Cara Cara Navel không hạt do hoa cam Cara Cara Navel bất dục đực hoàn toàn, bao phấn hoa cam Cara Cara Navel hầu như không có phấn trái nên hoàn toàn không có hạt khi trồng cách ly hoặc trong nhà lưới. Ngay cả trong điều kiện trồng xen với các giống hữu thụ đực khác, cam Cara Cara Navel vẫn hầu như không hạt, chứng tỏ cam Cara Cara Navel còn có tính bất dục cái. Ở các địa điểm khảo nghiệm, cam Cara Cara Navel cho thu hoạch sớm (tháng 9 đến 11). Về năng suất, ở năm thứ tư sau trồng đạt 8 tấn/ha, thấp hơn giống cam Xã Đoài làm đối chứng. Do giống y như cam nhập nội, chất lượng tốt, mẫu mã trái đẹp, cho thu hoạch sớm hơn các giống cam khác nên cam Cara Cara Navel cùng thời điểm bán được giá cao hơn các giống cam nội địa. Nhược điểm của giống cam Cara Cara Navel là dễ bị rụng quả do độ ẩm cao, nhất là trong mùa mưa; khi bộ lá phát triển mạnh cây dễ bị bệnh loét.

MINH TUẤN – Khoa học PT, 04/09/2009

Đổi màu cam sành từ xanh đến vàng 

Trên thị trường trái cây có múi, vỏ trái màu vàng cam đến vàng sậm luôn thu hút khách hàng. Trái cam sành có chất lượng nhất nhì trong những giống cam trồng ở Nam bộ. Nước vắt cam sành màu vàng tươi, ngọt mát và thơm dịu. Ở Nam bộ, cam sành phát triển rất tốt, cho trái quanh năm. Nhưng do vùng khí hậu nhiệt đới nên vỏ trái cam sành có màu xanh đậm, kể cả khi trái đã già và thậm chí khi chín hết cỡ, vỏ trái vẫn mang màu xanh.

Nhóm nghiên cứu (thuộc nhóm bảo quản chế biến Viện Cây ăn quả miền Nam) đã xông khí ethylen nồng độ 18ppm trong thời gian 36 giờ làm vỏ trái cam sành đổi từ màu xanh sang màu vàng tương đối đều trên mặt vỏ trái. Tiếp tục bảo quản 2 ngày ở nhiệt độ 150C, màu vàng xanh sẽ chuyển sang màu vàng cam phủ đều khắp trái mà thành phần bên trong của trái cam (múi, tép, chất lượng nước…) hầu như không thay đổi. Nhóm nghiên cứu này đã cho biết cơ chế thí nghiệm như sau: Thông thường, lượng chlorophyll trong vỏ trái đều bị tiêu hủy hết khi trái chín do ethylen nội sinh trong quá trình hô hấp. Trong trường hợp trái cam sành, khi trái đã chín, lượng chlorophyll trong vỏ trái chưa bị tiêu hủy hết do ethylen nội sinh trong trái không đủ để phá hủy nó. Do đó, muốn đổi màu vỏ trái cam sành, phải tăng cường sự hoạt động của khí ethylen sau thu hoạch.

Trồng cam ruột đỏ không hạt 

Những năm gần đây, thị trường cây giống xuất hiện nhiều loại cây trồng mới lạ như mít ruột đỏ, ổi không hạt… Những giống này đang thịnh hành, được nhiều nhà vườn ĐBSCL tìm mua để trồng. Mùa cây giống 2006, tại huyện Chợ Lách tỉnh Bến Tre, lại xuất hiện một loại cây giống mới: cam ruột đỏ không hạt. Giống cam này hiện đang khan hiếm và hút hàng vì là giống “mới ra lò”… Tuy nhiên, từ những khảo nghiệm ban đầu, các nhà khoa học khuyến cáo nông dân cần thận trọng khi quyết định đầu tư trồng loại giống mới này.

Sức hút của giống mới

Hiện nay, nông dân Trần Văn Tứ, ở xã Sơn Định, được xem là người có giống cam ruột đỏ không hạt đầu tiên ở huyện Chợ Lách. Anh Tứ hiện có 25 cây cam ruột đỏ không hạt chuyên để lấy bo nhân giống. Giống cam này anh Tứ mua ở Viện Nghiên cứu Cây ăn quả miền Nam năm 2002 và trồng xen trong vườn cam sành. Cam trồng phát triển tốt và năm 2005, cây cam ra trái rất nhiều, mỗi cây khoảng 40 trái. Theo quan sát của anh Tứ, khi trái cam còn non, ruột có màu hồng như bưởi da xanh; lúc chín, ruột đỏ đậm như ruột dưa hấu, trông rất đẹp mắt. Trái cam ruột đỏ không hạt khi còn nhỏ, phần dưới trái có “đuôi” bằng cọng chân nhang, dài khoảng 2 phân; đến khi chín, “đuôi” rụng, tạo thành lỗ hổng. Cam ruột đỏ không hạt chín ăn ngon như cam mật.

Cam ruột đỏ không hạt là cây giống còn rất mới ở huyện Chợ Lách và là cơ hội làm ăn của những người đi đầu trong lĩnh vực làm cây giống. Vì vậy, anh Tứ quyết định nhân giống cam mới này để cung cấp cho người tiêu dùng chứ không để trái bán. Chỉ từ đầu mùa bán giống năm 2006 đến nay, anh Tứ đã cung cấp cho thị trường khoảng 20.000 cây giống cam ruột đỏ không hạt, giá bán 15.000 đồng/ cây. Nhiều người bạn là chủ cơ sở làm cây giống khác ở các xã lân cận cũng tìm đến anh để mua bo về nhân giống bán và số bo anh cung cấp ra ghép khoảng 7.000- 8.000 cây. Anh cũng nhượng lại cho người bạn thân 2 cây cam ruột đỏ tại vườn với giá 6 triệu đồng để trồng chiết giống. Anh Tứ cho biết: “Nhiều cơ sở chuyên cung cấp cây giống thường xuyên gọi điện thoại để đặt hàng cam ruột đỏ nhưng tôi không có đủ để cung cấp”.

Tại xã Đa Phước Hội, huyện Mỏ Cày, tỉnh Bến Tre, anh Triệu Văn Trinh cũng là người đang có giống cam ruột đỏ. Giống cam này anh Trinh có được là do một người bạn từ bên Mỹ tặng hạt, anh ương lên trồng từ năm 2000. Hiện nay, anh Trinh đã nhân giống được 200 cây cam ruột đỏ 2 năm tuổi. Anh Trinh nói: “Giống cam ruột đỏ tôi trồng có đặc điểm như cam ruột đỏ không hạt ở Chợ Lách; chỉ khác là lúc nhỏ có hạt, khi chín, hạt tan mất. Ngoài ra, theo quan sát của tôi, cam ruột đỏ trồng 6 năm vẫn phát triển tốt, trong khi vườn cam sành trồng cùng lúc đang bị bệnh”.

Nông dân nên thận trọng

Theo Viện Nghiên cứu Cây ăn quả miền Nam, cam ruột đỏ không hạt là giống cam Cara cara nevel SH 2–1–16. Giống cam này có nguồn gốc từ Mỹ, được du nhập vào Viện từ tháng 11 năm 1996 với mục đích khảo nghiệm. Tháng 10 năm 1999, giống cam này được trồng và đánh giá tại Đà Lạt, Lâm Đồng. Qua đó, khảo sát của Viện cho thấy cam có một số đặc tính: cây sinh trưởng khá, cho trái ít (29 kg/ cây sau 4 năm trồng); quả cam to (trung bình 320g/ quả), dạng quả hình ê-lip, vỏ quả màu xanh, sần nhiều, dễ tróc và dày (trung bình 9,5mm); thịt quả có màu đỏ rất đẹp, cấu trúc khá cứng, độ brix 7,4- 8,5%, độ pH 3,65, lượng axít tổng số 0,69g/100ml dịch quả, tỷ lệ nước thấp (trung bình 24,2%) so với cam mật (trung bình 32,1%). Ưu điểm của giống cam này là không hạt, ruột đỏ rất đẹp. Tuy nhiên nhược điểm của loại cam này là có vị ngọt chua hơn so với cam mật, nước quả ít hơn, múi cứng hơn.

Thạc sĩ Nguyễn Ngọc Thi, cán bộ phòng chọn tạo giống thuộc Viện Nghiên cứu Cây ăn quả miền Nam, cho biết: “Một giống cây trồng khi được nhập về muốn nhân sản xuất ngoài dân thì phải được khảo nghiệm. Nếu kết quả khảo nghiệm cho thấy giống mới có ưu điểm hơn so với giống địa phương thì giống mới sẽ được khu vực hóa. Khi khu vực hóa đạt kết quả mới tiến tới công nhận giống rồi triển khai sản xuất đại trà”. Theo Thạc sĩ Thi, hiện nay, việc khảo nghiệm về giống cam này của Viện đã dừng lại do cam trồng ở Đà Lạt đã bị hư, Viện không có điều kiện để theo dõi tiếp. Mặc dù chưa đánh giá chính xác, nhưng những đặc điểm khởi đầu đã nêu cho thấy giống cam này không có triển vọng so với cam mật không hạt đang có ở địa phương. Giống cam mật không hạt được đánh giá rất triển vọng để phát triển có cây đầu dòng ở xã Thanh Hòa huyện Cai Lậy (Tiền Giang) do ông Nguyễn Văn Lộc trồng. Viện đã khảo nghiệm giống cam này và đang xin công nhận giống tạm thời. Vì vậy, Viện Nghiên cứu Cây ăn quả miền Nam khuyến cáo bà con nông dân phải tính toán kỹ càng khi đầu tư trồng giống cam ruột đỏ không hạt.

Giống cam ruột đỏ không hạt hiện nay đang hút hàng tại các cơ sở sản xuất giống ở Bến Tre. Chợ Lách nổi tiếng làm cây giống và các cơ sở sản xuất giống đang sản xuất ra một lượng lớn cây giống cam ruột đỏ không hạt để đáp ứng nhu cầu của người thích trồng cây giống mới. Với khảo nghiệm ban đầu và khuyến cáo của Viện Nghiên cứu Cây ăn quả miền Nam, người dân cần hết sức thận trọng để tránh những thiệt thòi khi quyết định trồng giống cam này.

CAO DƯƠNG – CT, 5/8/2006

Trồng cam mùa nghịch 

Tại tỉnh Vĩnh Long, một trong những vùng đặc chủng của cây ăn trái có múi nổi tiếng, nếu huyện Bình Minh có đặc sản bưởi Năm Roi thì Tam Bình (TB) nổi tiếng là “vương quốc cam sành”. Những trái cam sành to, tròn, ngọt lịm, mang thương hiệu Tam Bình giờ đây không chỉ có mặt ở hầu hết các tỉnh-thành lớn như TPHCM, Hà Nội… mà còn được xuất khẩu. Vùng chuyên canh cam sành xã Mỹ Thạnh Trung còn cung cấp cho thị trường những trái cam mùa nghịch chất lượng không thua gì cam mùa thuận.

“Ép”… cho cam ra trái mùa nghịch là kỹ thuật độc đáo của nông dân vùng chuyên canh cây ăn trái có múi nổi tiếng của xã Mỹ Thạnh Trung. Cam sành mùa nghịch có giá khá cao. Anh Trần Văn Nam ở ấp Phú Sơn C, có 2 công đất trồng cam sành nói vui: “Hái… tiền triệu cũng nó, hái ra… tivi, đầu máy và hái cả “giấc mơ” (xe Dream) cũng nó!” Một số nhà vườn trồng cam ở đây cho biết, cam mùa thuận bắt đầu rộ từ tháng 11 Âm lịch cho đến những tháng sau Tết, giá tại vườn năm mười ngàn đồng/ký, đủ trả tiền phân diêm, công cán, nên một số nhà vườn bỏ cam vụ chính tập trung vụ nghịch.

Từ những tháng đầu mùa mưa trở đi, ai thu hoạch cam mùa nghịch kể như hốt bạc, do giá một ký cam trên 20.000 đồng. Thương lái mua mão sạch vườn. Để có được những quả cam trái vụ, bà con phải vất vả từ tháng 6 năm trước, đầu tiên, nhà vườn phải tập trung “siết” nước để lá khô, sau đó tưới nước cho cam ra bông. Thời gian này phải tưới nước và phân bón đầy đủ, đồng thời phải đậy cỏ giữ độ ẩm.

Anh Nguyễn Văn Chiến – nhà vườn ở Mỹ Thạnh Trung-chỉ những cây cam đang “bị” ép nghịch mùa giải thích: “Muốn “ép” cho cam ra trái mùa nghịch, trước hết cắt bỏ cam non, sau đó phải nắm vững kỹ thuật làm bông – vì đây là khâu quyết định. Giai đoạn này, ngoài việc phải thường xuyên canh giữ sâu rầy phá hoại còn phải phun thuốc dưỡng, kích thích. Rồi định lượng phân xơ dừa, lót NPK, kali, urê… cho từng gốc cam, nếu làm chưa… tới thì bông ra èo uột, còn “đậm” quá bông rụng hết.

Vô nước mương sao cho vừa phải, nhất là trong mùa lũ phải cơi, be bờ chắc chắn, không khéo nước vỡ bờ, tràn mương là thối rễ! Từ khi cam ra bông cho đến lúc thu hoạch khoảng 9-10 tháng. Nếu kỹ lưỡng, đến tháng thứ 5 bà con bắt đầu bao trái, để nắng không làm nám trái và côn trùng đục phá, cũng như giữ cho màu cam bóng láng, tươi đẹp.

Hốt bạc mùa cam sành trái vụ điển hình phải kể đến ông Lê Văn Năm, anh Cao Thanh Chí ấp Mỹ Phú 1, xã Mỹ Thạnh Trung. Anh Chí có gần 1 ha cam, hàng năm thu về hàng trăm triệu đồng. Riêng ông Năm, ngoài việc bội thu cả trăm triệu đồng/năm từ 4 công cam nghịch vụ, ông còn chiếm nhiều giải cao ở Hội thi trái cây đồng bằng sông Cửu Long mấy năm liên tục, được mời đi báo cáo điển hình ở thủ đô Hà Nội.

TRỊNH HẢI – SGGP, 4/11/2005

Bón phân cho cam quýt 

Cam quýt là các loài cây ăn quả được trồng phổ biến ở nước ta. Với năng suất  20 tấn quả cam lấy đi từ đất 34kgN; 10kg P2O5; 64kg K2O. Tính trung bình 1 tấn quả cam cây lấy từ đất 1,7kg N; 0,5kg P2O5; 3,2kg K2O.

Kali là yếu tố cam lấy từ đất nhiều nhất. Vì vậy, bón kali có thể làm tăng năng suất cam 10-46%, hệ số lãi do bón phân cân đối cho cam có thể đạt đến 4,5-5,0. Cân đối giữa phân hữu cơ và phân vô cơ làm cho năng suất cam tăng 30-50%.

Cân đối đạm-kali, ngoài tác dụng làn tăng năng suất cam còn làm tăng chất lượng quả cam, như tăng hàm lượng đường và giảm lượng axit.

Cam quýt là cây ăn quả lâu năm, cho nên hàng năm cần được bón phân và lượng phân thay đổi theo tuổi cây.

Lượng phân bón được khuyến cáo cho cam như ở bảng 7.

Bảng 7: Lượng phân bón cho cam theo tuổi cây (Ghi chú: Tài liệu của GS. Trần Thế Tục.)

Năm tuổiN (g/cây)P2O5 (g/cây)K2O (g/cây)
1-350-150500-10060
4-6200-250150-200120
7-9300-400250-300180
Trên 10400-800350-400240

Cách bón như sau:

–  Thời kỳ cây con: bón lân và kali một lần vào cuối mùa mưa, phân đạm chia thành 3-4 lần để bôi hoặc hoà nước tưới gốc cây.

– Cây trên 3 tuổi và bắt đầu thu hoạch quả: Phân chia là 3 lần để bón: trước ra hoa, sau khi đậu quả và sau thu hoạch. Chia đều mỗi lần bón 1/3 lượng phân.

Phân K chia làm 2 lần để bón: bón ½ lượng K sau khi đậu quả và ½ lượng còn lại bón trước khi thu hoạch 1-2 tháng.

Phân P: bón toàn bộ sau khi thu hoạch quả cùng với phân hữu cơ.

Dựa vào đặc điểm sinh lý và ra quả của cam quýt người ta có thể chia thời gian sinh trưởng của cây thành 2 thời kỳ để bón phân.

Thời kỳ cam quýt được 7 tuổi: Thời kỳ này cây phát triển thân, cành là chính. Vào những năm cuối thời kỳ cây đã cho quả  nhưng chỉ là những mùa quả đầu tiên, năng suất quả của cây tăng dần qua các năm. Ở thời kỳ này người ta đề nghị bón phân cho cam quýt với lượng như bảng 8.

Bảng 8: Bón phân cho cam quýt thời kỳ cây dưới 7 tuổi

Loại phân1-2 năm tuổi4-5 năm tuổi6-7 năm tuổi
Phân chuồng (kg/cây)25-3035-4045-50
Vôi bột (kg/cây)0,50,7-0,81,0
N (g/ cây)80-150200-250300-400
P2O5 (g/cây)100-150150-200250-300
K2O (g/cây)100-150150-250300-400
  • Thời kỳ cam cho quả ổn định (sau năm thứ 7). Ở thời kỳ này năng suất của cam đi dần vào ổn định. Những thay đổi vể năng suất chịu tác động chủ yếu của các yếu tố bên ngoài (khí hậu, sâu bệnh, kỹ thuật chăm bón, v.v…).

Ở thời kỳ này, lượng phân bón được thay đổi tuỳ thuộc vào năng suất của cam quýt. Lượng phân bón được khuyến nghị như ở bảng 9.

Bảng 9: Bón phân theo sản lượng cam quýt – Nguồn: Nguyễn Văn Kế – ĐHNN TP Hồ Chí Minh

Loại phân và lượng phânNăng suất trên 15 tấn/haNăng suất trên 8 tấn/ha
N (kg/tấn quả)7-811-12
P2O5 (kg/tấn quả)7-811-12
K2O (kg/tấn quả)8-1010-12

– Bón sau thu hoạch, bón phục sức cho cây, giúp cây phân hóa mầm hoa: bón vôi + toàn bộ phân chuồng + toàn bộ phân lân + 1/3 phân đạm + 1/3 phân kali.

– Bón trước trổ hoa 6 tuần: 1/3 lượng đạm + 1/3 lượng kali

– Bón lúc quả lớn bằng ngón tay cái: 1/3 lượng đạm + 1/3 lượng kali

Tuỳ theo đặc điểm đất đai ở từng vùng có thể tăng giảm lượng phân bón cho thích hợp. Thí dụ ở vùng đất đồng bằng Cửu Long có thể giảm bớt lượng kali.

Cần chia phân ra bón thành nhiều lần để chống rửa trôi mất phân. Khi bón nhớ đào hố hoặc cuốc rãnh nông luân phiên chung quanh tán cây.

Hàng năm nên bón bổ sung phân vi lượng cho cam quýt như Zn, Mg, Mn trong trường hợp bón ít phân chuồng.

Nhằm giảm hiện tượng rụng quả, cần dành 2/3 lượng phân để bón trước khi cây ra hoa. Thực hiện việc bón đón hoa kết hợp với phun phân bón là góp phần tích cực hạn chế rụng quả sau này.

Có  thể thực hiện phân tích là để chuẩn đoán tình hình thiếu dinh dưỡng, kịp thời bón phân cho cam quýt. Người ta phân tích lá 4-7 tháng tuổi của cành nhỏ tận cùng không mang quả. Nếu kết quả phân tích cho thấy N<2,2%; P<0,09%; K<0,7%; Mg<0,2%; Fe<25ppm; Mn<18ppm; Zn<18ppm; Cu<3,6ppm thì đó là tình trạng cây thiếu dinh dưỡng. Các trung tâm khuyến nông các chủ vườn có thể lấy lá đem phân tích ở các phòng thí nghiệm để kịp thời bón phân cho cây.

Khuyến nông Việt Nam

Chăm sóc cam, quýt, bưởi sau thu hoạch 

Cam, quýt sau thu hoạch cần được chăm sóc, vệ sinh, cắt tỉa, phòng trừ sâu bệnh để cây tiếp tục phát triển và cho mùa bội thu sau.

– Tiến hành làm sạch cỏ dại, sau 25 – 30 ngày thu hoạch cắt tỉa các cành sâu bệnh, cành tược, khô héo, cành tăm hương, mọc không đúng hướng…

– Quét vôi vào gốc cây ngăn sự cư trú của sâu bệnh.

– Phòng trừ sâu bệnh bằng các biện pháp kỹ thuật tổng hợp: bón phân đầy đủ, cân đối, kịp thời, bón đúng kỹ thuật, phun thuốc đúng lúc, đúng cách.

Với một số sâu bệnh hại như: sâu vẽ bùa, đục thân, sâu bướm, sâu nhớt, nhện đỏ, nhện vàng, nhất là bệnh vàng lá greening… phải thường xuyên theo dõi, quan sát phát hiện sớm để kịp thời ngăn chặn. Khi cây đã bị bệnh cần phải đào, đốt hủy, rắc vôi bột vào gốc cây bị hại.

Bón phân phục hồi và tưới nước: Đối với cây từ 3- 4 năm tuổi, bón 1 – 2kg AT1/gốc, cây 5- 6 năm tuổi bón 2- 3kg AT1/gốc, phân hữu cơ bón 20-50kg. Bón ngay sau khi thu hoạch, càng sớm càng tốt. Trước khi bón, đào đất chung quanh gốc tạo thành đường vành khuyên rộng 20-30cm, sâu 30-40cm theo đường chiếu vành tán cây, rải đều phân xuống và lấp đất lại.

– Thời kỳ kiến thiết (1-4 năm): Bón tập trung 1 đợt vào tháng 12 hoặc tháng 1 với lượng phân 20 – 25kg phân hữu cơ + 0,2kg sun phát đạm + 0,5kg super lân + 0,2kg kali sun phát.

– Vào thời kỳ thu quả: Bón 50kg phân chuồng + 1kg đạm + 1,2kg super lân + 0,5kg kali, chia ba lần bón:

+ Sau thu hoạch quả tháng 12 sang tháng 1: 50kg phân hữu cơ + 0,25kg super lân + 0,1kg kali.

+ Bón đón lộc xuân tháng 2 – 3: 0,6kg đạm + 0,6kg super lân + 0,25kg kali.

+ Bón thúc cành thu và nuôi quả tháng 6-7: 0,4kg đạm + 0,35kg super lân + 0,15kg kali.

– Cách bón:

+ Lần 1 (sau khi thu hoạch): bón theo vành mép tán, đào rãnh sâu 20cm, rộng 30cm. Các loại phân trộn đều cho vào rãnh lấp kín đất, tủ rơm giữ ẩm.

+ Bón thúc vào lần 2 và 3: trộn đều các loại phân hóa học rải đều trong vòng tán cây, với đảo sâu 4-5cm vùi đất lấp kín, tủ rơm rác giữ ẩm.

Bón phân xong tưới nước đều đặn, vừa phải cho phân tan để cây hấp thụ từ từ. Chú ý không nên tưới quá nhiều nước cho cây vì nếu thừa nước cây sẽ ra đọt non ảnh hưởng đến việc xử lý ra hoa.

– Cách tỉa cành và vệ sinh vườn : Cắt bỏ những cành già, cành sâu bệnh, cành vượt nằm bên trong tán, cành mọc sà dưới đất và cả những đoạn cành đã mang trái (dài 10-15cm). Cắt ngắn cỏ, chừa cỏ lại che phủ đất (hoặc che phủ bằng rơm rạ). Nếu trồng sát gốc cây thì dọn sạch cỏ, lá cây để mô được khô ráo. Cần tránh phủ sơ dừa sát gốc cây có múi để tránh lây lan bệnh Phytophthora. Các cành lá tỉa bỏ, trái hư, cỏ dại phải thu gom lại chôn lấp hoặc đốt bỏ.

– Nuôi dưỡng và bảo vệ : Định kỳ khoảng 10-15 ngày/lần, phun các chế phẩm HVP theo tỷ lệ: 30-10-10 (15g/8 lít nước) hoặc chế phẩm dưỡng lá (35ml/8 lít nước). Có thể pha chung với thuốc trừ sâu bệnh để phun xịt. Dưới gốc dùng vôi quét gốc, quét cao khoảng 1-1,5 m và rải vôi chung quanh các gốc cây, nhất là những cây bị bệnh. Nếu rễ cây bị tuyến trùng, rệp sáp tấn công có thể dùng Nokapd, Vimoca tưới vào gốc diệt, đồng thời pha thêm bột tốt rễ F.Bo để phục hồi bộ rễ nhanh, giúp cây sinh trưởng sung tốt trở lại.

Xử lý ra hoa

– Bón phân đón ra hoa, tạo mầm hoa: Trước thời điểm cho cây ra hoa 5-6 tuần, bón phân đón ra hoa (khoảng 200g DAP + 50KCL hoặc 400g AT 2/gốc 4-5 tuổi) và phun chế phẩm giúp cây tạo mầm hoa (phun F.Bo: 15g/8 lít, phun hai lần, cách nhau 4-5 ngày) trước khi ngưng tưới một tuần.

– Bắt cây cảm ứng ra hoa: Ngưng tưới và rút nước mương (nếu có) khoảng 2-4 tuần cho đến khi cây vừa “xào lá” (lá hơi héo vào buổi chiều nhưng sáng mai không tươi lại hoàn toàn). Sau đó tưới nước đẫm lại ba ngày liền, ngày tưới hai lần. Ngày thứ tư thì tưới mỗi ngày/lần.

– Phun thuốc thúc ra hoa đồng loạt: Sau khi tưới nước lại 2-3 ngày, bộ lá tươi lại, pha 35ml RA HOA C.A.T + 15g F.Bo/8 lít phun sương đều tán cây và trong thân cây hai lần (5 ngày/lần) thúc ra hoa đồng loạt, sau khi cây ra đọt non tưới hai ngày/lần.

KS MAI XUÂN TRÚC, Nông thôn ngày nay, 1/2004

Bệnh vàng lá thối rễ trên cây cam, quýt 

Tác nhân gây bệnh: tuyến trùng, côn trùng… gây tổn thương rễ, làm cho các loại nấm bệnh dưới đất xâm nhập gây hại, nhất là nấm Fusarium sp., Phytophthora sp., Pythium, Rhizoctonia…

Triệu chứng: Toàn lá (phiến là và gân lá) bị vàng, lá già vàng trước, sau đó các lá bánh tẻ và lá non. Các lá vàng dễ bị rụng, thường rụng từ tầng dưới lên tầng trên. Lá toàn cây bị vàng hoặc có thể chỉ một số cành bị vàng. Thường cây có cành bị vàng lá, thì tương ứng bên dưới đất cùng hướng đó có rễ bị thối. Tùy mức độ thương tổn của bộ rễ mà lá cây sẽ vàng hoặc héo tạm thời tương ứng.

Khi nhiều rễ tơ (rễ trắng) bị hư thối thì cây sẽ có biểu hiện lá nhỏ và vàng do không hút được dinh dưỡng. Khi phần lớn rễ tơ bị thối thì cây sẽ có hiện tượng héo tạm thời, dù ẩm độ đất cao.

Nếu không chữa trị, các rễ lớn cũng bị thối, cây suy kiệt dần và có thể bị chết. Trái của cây đang bị bệnh thường có màu sắc nhạt và không tươi mọng, ruột xốp và khô, nhạt và hương vị kém…

Phòng trị:

– Trồng cao: đảm bảo gốc cây sau này cao hơn mặt vườn, để không bị đọng nước ở gốc sau mưa hay tưới, đào hố bón phân, sau đó lấp đất đầy để trồng. Gốc cây phải được đắp cao để đảm bảo luôn được khô ráo.

– Nước: Cần có hệ thống tưới và tiêu thoát nước triệt để trong mùa mưa. Chỉ tưới quanh tán cây, không tưới nước thẳng vào gốc cây. Mùa khô cần tưới thường xuyên để đất đủ ẩm, không cho đất nứt nẻ, tránh các loại côn trùng và nhện xâm nhập hại rễ.

– Ánh sáng: Trước khi vào vụ mới hoặc trước mùa mưa, tỉa cành lá sâu bệnh, tỉa bớt cành khuất trong tán cây để cả vườn thông thoáng. Gốc cam cần thông thoáng, không che phủ rơm rác, cắt bỏ cành sát mặt đất và cỏ dại…

– Dinh dưỡng: Chỉ nên bón phân ở vùng quanh tán cây. Chủ yếu dùng phân hữu cơ hoai mục, ủ với sản phẩm nấm đối kháng. Ở vùng đất sét, phân hữu cơ giúp đất không nứt nẻ trong mùa nắng, không nê nước trong mùa mưa. Bón bổ sung NPK khi cần, tránh dư đạm. Bổ sung các loại vi lượng tối cần thiết như phân bón lá để cây khỏe mạnh, quả đẹp, thơm, ngọt. Sử dụng calcium nitrate để giảm độ chua đất, giúp rễ phát triển và hấp thụ được phân lân.

– Bảo vệ bộ rễ: Khi chăm sóc, bón phân thì hạn chế làm xây xát hay làm đứt rễ cam; xử lý sâu hại trong đất, nhất là trong mùa khô. Sâu, nhện hại gây vết thương cho bệnh xâm nhập (như tuyến trùng, rệp sáp, nhện, sùng, ve sầu, mối…).

– Không dùng các chất kích thích ra hoa trái liên tục trong năm, sẽ làm cây suy kiệt, dễ bị bệnh. Khi cần cây có trái quanh năm, thì cần đầu tư thâm canh cao độ và khoa học để cây không bị suy kiệt.

– Thuốc phòng trị: Sử dụng đúng loại, đúng cách.

+ Sử dụng thuốc sâu dạng hạt để trừ tuyến trùng và các loại sâu hại dưới đất nhằm hạn chế thương tổn rễ trong mùa khô.

+ Nên tưới phòng ngừa và luân phiên các loại thuốc nấm ít nhất 3 lần/năm cho toàn vườn, nhất là khi vườn đã xuất hiện cây bị bệnh.

+ Thường xuyên kiểm tra vườn, nếu phát hiện cây chớm bị bệnh thì vừa xử lý tuyến trùng và sâu, nhện hại sống trong đất, vừa phun phân vi lượng qua lá loại giàu lân. Tưới thuốc có gốc đồng luân phiên với các thuốc nấm 5-7 ngày/lần cho đến khi cây phục hồi. Cần xử lý thuốc cho các cây đứng gần cây bị bệnh, nhất làcác cây ở vị trí đất thấp hơn.

Khuyến nông VN

Cách phòng trị nhện đỏ hại cây cam sành 

Gia đình tôi trồng được một vườn cam sành, gần đây không rõ tại sao nhiều lá bánh tẻ và lá non bị  biến dạng phồng rộp lên như bánh tráng nướng, phiến lá biến thành màu vàng xanh loang lổ, lá không phát triển lên được, nhìn kỹ thấy ở mặt dưới của lá có những con vật  nhỏ li ti như con mạt gà, màu hồng, màu đỏ… bò lăng xăng. Tôi đã xịt nhiều loại thuốc nhưng không thấy bớt. Xin cho biết đây là chứng bệnh gì, cách chữa trị? (Nguyễn Như Long, Châu Thành, Bến Tre)  

Trả lời: Qua mô  tả của bạn, kết hợp với những gì mà chúng tôi hiểu biết được về sâu bệnh hại trên cây có múi nói chung và cây cam sành nói riêng ở một số vùng chuyên canh cây ăn trái ở Tiền Giang và Bến Tre trong thời gian gần đây, chúng tôi cho rằng hiện tượng trên cây cam sành nhà bạn là do con nhện đỏ gây ra. Ngoài cây cam sành như bạn đã thấy, con nhện đỏ này còn gây hại cho nhiều cây thuộc nhóm cây có múi như chanh, quýt, quất… và nhất là trên cây bưởi.  

Trên hoa nhện chích hút nhựa của nụ và cuống của đài hoa, nếu nặng nụ hoa có thể bị rụng. Trên trái nhện chích hút dịch của vỏ trái non, làm vỡ các túi tin dầu sau này tạo thành các vết sần sùi màu nâu xám và thô nhám như có phủ một lớp cám bên ngoài vì thế có người gọi là “bệnh da cám”. Ở các tỉnh phía Nam nhện đỏ thường hại nhiều trong mùa khô.  

Để hạn chế tác hại của nhện đỏ bạn có thể áp dụng một số biện pháp sau đây:

– Không nên trồng quá dày làm cho vườn cam bị um tùm rậm rập, không thông thoáng, tán bị che phủ nhiều.  

– Bón phân dứt điểm thành từng đợt và phải bón cân đối giữa đạm, lân, kali. Nếu vườn nhà bạn thường bị nhện gây hại nhiều thì nên tăng cường bón thêm phân lân và kali.  

– Tỉa bỏ những cành, lá không cần thiết bên trong tán cây để tán cây luôn luôn được thông thoáng.  

– Nếu vườn của bạn thường bị nhện gây hại nặng thì cứ mỗi đợt cây ra đọt, lá non nên phun xịt 3 lần thuốc trừ nhện: lần 1 khi cây vừa nhú đọt non, lần hai khi đọt non ra rộ và lần ba khi lá non bước sang giai đoạn bánh tẻ. Khi cây đã bước vào giai đoạn cho trái thì cứ mỗi một đợt ra bông kết trái bạn cũng nên phun xịt 3 lần thuốc: Lần 1 lúc nụ hoa ra rộ, lần 2 sau khi tượng trái rộ khoảng 1 tuần và lần 3 cách lần 2 khoảng 10 ngày.  

Do nhện đỏ có tính nhờn kháng thuốc rất nhanh vì thế bạn không nên phun xịt một loại thuốc kéo dài nhiều lần (dù thuốc có hiệu quả rất cao), mà phải luân phiên bằng một trong những loại thuốc sau đây: Danitol 10EC; Nissorun 5EC; Comite 73EC; Ortus 5 EC; Kelthane 18,5EC; Microthiol 80WP…khi xịt nhớ xịt ướt đều tất cả  những vị trí có nhện bu bám.  

WAG, 5/11/2004

Phòng bọ xít hại quả cam quýt

Vào mùa đậu quả, cam, chanh, bưởi, quýt… thường bị một số loài bọ xít gây hại, ảnh hưởng rất lớn tới năng suất và chất lượng. Bọ xít gây hại cam quýt chủ yếu là bọ xít xanh (bọ xít cam, hay con bù hút cam). Con lớn có màu xanh lá cây là con ở tuổi trưởng thành, còn những con nhỏ (màu nâu) là con đang ở tuổi ấu trùng.

Đặc điểm

Con trưởng thành có hình ngũ giác màu xanh lá cây, bóng và dài khoảng 2cm, có hai gai nhọn ở phía trước hai bên ngực, hai bên mép bụng có rìa hình răng cưa, kim chích dài đến cuối bụng. Bọ xít xanh thường hoạt động vào lúc sáng sớm hay chiều mát. Con cái đẻ trứng thành từng ổ (khoảng 10 – 15 quả/ổ) trên vỏ trái hoặc trên những lá nằm gần với trái. Trứng hình tròn, khi mới đẻ có mầu trắng trong, sau đó chuyển dần sang màu vàng nhạt, khi sắp nở có màu đen ở phần đầu. Sau đẻ khoảng 6 – 7 ngày thì trứng nở. Ấu trùng (bọ xít non) khi mới nở dài khoảng 2 – 3mm, thường sống tập trung xung quanh ổ trứng, sau đó phân tán dần để chích hút dịch quả.

Cả con trưởng thành và con ấu trùng, đều dùng vòi để chích hút dịch quả từ khi quả còn rất nhỏ. Chỗ vết chích có một chấm nhỏ và một quầng màu nâu. Nếu quả còn nhỏ đã bị bọ chích hút nhiều thì sẽ bị ngả màu vàng, chai và rụng sớm. Nếu quả đã lớn mới bị bọ gây hại thì dễ bị thối rồi rụng. Những vườn rậm rạp, cành lá um tùm, những vườn cây lớn tuổi có nhiều bóng mát (nhất là ở giai đoạn quả còn non)… thường bị chúng gây hại nhiều hơn những vườn khác. Nếu mật độ bọ xít cao, khi đi vào vườn có thể ngửi thấy cả mùi hôi đặc trưng do chúng tiết ra.

Cách phòng trị

Muốn phòng trị bọ xít có hiệu quả, người làm vườn có thể áp dụng kết hợp một số biện pháp sau:

– Không nên trồng cam quýt quá dầy, thường xuyên cắt bỏ các cành gìa, cành bị sâu bệnh, cành tược… để vườn cây luôn thông thoáng, hạn chế nơi trú ngụ và tác hại của chúng.

– Thu thập và nhử nuôi kiến vàng trong vườn cam quýt để kiến tiêu diệt bọ xít, nhất là bọ xít non.

– Dùng vợt tay để bắt bọ xít vào lúc sáng sớm hay chiều mát.

– Thường xuyên kiểm tra trái và những lá gần trái để phát hiện và thu gom ổ trứng của chúng đem tiêu hủy.

– Nếu vườn cam quýt rộng, bọ xít nhiều không thể bắt bằng vợt tay, các bạn có thể sử dụng một trong những loại thuốc như: Bascide 50EC; Hoppercin 50EC; Cyper 25EC; Dầu khoáng SK Enspray 99EC; Vibasa 50EC… để phun xịt. Nhớ đọc cách sử dụng có in trên nhãn thuốc. Sau khi xịt khoảng một tuần nếu thấy vẫn còn bọ xít thì xịt thêm một, hai lần nữa.

B.Tr – Báo Kinh tế & Đô thị, 15/12/2009

Phòng trừ bệnh loét hại cam, quýt 

Bệnh loét phá hại cam, quýt thường làm rụng quả và lá, cây cằn cỗi chóng tàn. Ở vườn ươm, khi bị bệnh nặng cây con dễ chết, quả bị bệnh phẩm chất kém không thể xuất khẩu và cất trữ được. Ở nước ta, bệnh phá hại phổ biến tại tất cả các vùng trồng cam, quýt, gây thiệt hại đáng kể cho người trồng, làm ảnh hưởng lớn tới nguồn hàng xuất khẩu.

Triệu chứng gây bệnh

Ở lá non, triệu chứng bệnh ban đầu là những chấm nhỏ có đường kính trên dưới 1mm, màu trong vàng, thường thấy ở mặt dưới của lá, sau đó vết bệnh mở rộng và phá vỡ biểu bì mặt dưới lá, màu trắng nhạt hoặc nâu nhạt. Lá bệnh không biến đổi hình dạng nhưng dễ rụng, cây con bị bệnh nặng thường hay rụng lá. Vết bệnh ở quả cũng tương tự như ở lá: vết bệnh xù xì màu nâu hơn, mép ngoài có gờ nổi lên, ở giữa vết bệnh mô chết rạn nứt. Toàn bộ chiều dày của vỏ quả có thể bị loét, nhưng vết loét không ăn sâu vào ruột quả. Bệnh nặng có thể làm cho quả biến dạng, ít nước, khô sớm, dễ rụng. Bệnh làm cho quả xấu mã, không đạt tiêu chuẩn chất lượng để xuất khẩu. Vết bệnh trên cành và thân cây con cũng giống như ở trên lá nhưng sùi lên tương đối rõ ràng. Đặc biệt có trường hợp vết loét ở thân kéo dài tới 15cm và ở cành tới 5 – 7cm.

Bệnh phát sinh từ lộc xuân (tháng 3), tăng mạnh đến lộc hạ (tháng 7 và 8) rồi đến lộc đông (tháng 10 và 11) thì bệnh giảm dần và ngừng phát triển. Bệnh loét cam phát triển trong điều kiện nhiệt độ cao, vi khuẩn xâm nhiễm thích hợp ở nhiệt độ 25 – 30oC, độ ẩm cao. Cây bị bệnh nặng nhất là bưởi, cam rồi đến chanh, còn các giống quýt có tính chống bệnh cao với bệnh loét. Tuổi cây càng non càng dễ bị nhiễm bệnh nặng, nhất là ở vườn ươm ghép cây giống thường bị bệnh nặng trong 1 – 2 năm đầu, cam từ 5 – 6 tuổi tỉ lệ bị bệnh thấp hơn. Cành vượt phát triển nhiều lộc thường bị bệnh nặng hơn. Sau khi nảy lộc 30 – 45 ngày ở giống cam đường rất dễ bị bệnh. Khi lộc cành bước vào ổn định nhưng chưa hóa già (nảy lộc được 50 – 60 ngày) tính nhiễm bệnh cao nhất, sau khi nảy lộc 90 – 110 ngày lộc già thì hầu như không bị nhiễm bệnh nữa. Sau khi hoa rụng 35 ngày, quả non kích thước khoảng 9mm lại bắt đầu bị nhiễm bệnh; đường kính quả từ 26 – 32mm (sau hoa rụng 60 – 80 ngày) tỉ lệ phát bệnh cao nhất; khi quả ngừng lớn và bắt đầu vàng thì hầu như không nhiễm bệnh nữa. Ngoài ra, sâu bùa vẽ cũng là môi giới truyền bệnh tạo nên vết thương để bệnh xâm nhiễm dễ dàng, nhất là trong vườn ươm cây giống.

Biện pháp phòng trừ

Biện pháp quan trọng nhất là chọn giống ghép chống bệnh, tiêu diệt nguồn bệnh, biện pháp canh tác và phun thuốc bảo vệ theo một hệ thống tổng hợp.

– Tiêu diệt nguồn bệnh

Thu dọn sạch tàn dư bộ phận bị bệnh trong vườn ươm cũng như trong vườn quả; thường xuyên tỉa lá cành bị bệnh trong vườn ươm; dùng các mắt ghép không bị bệnh, gốc ghép chống chịu bệnh. Trồng cây giống không bị bệnh, cắt bỏ cành lá bị bệnh, tiêu diệt hủy bỏ những cây bị bệnh, thực hiện tốt biện pháp kiểm dịch thực vật, không chuyên chở và trồng cây giống có bệnh vào những vùng mới trồng cam.

– Phòng trừ bệnh bằng canh tác

Bón phân vào thời kỳ thích hợp, bón cân đối để cây phát triển bình thường, khống chế cành vượt, thận trọng khi tưới nước để tránh lây lan bệnh. Trồng rừng chắn gió thành giải, chắn đúng hướng gió chính của vườn ươm và vườn quả hoặc thành băng xen kẽ với hàng cây ăn quả.

– Biện pháp hóa học

Dùng thuốc hóa học (Boóc đô 1%) phun bảo vệ phòng chống bệnh từ khi ra lộc xuân được 20 ngày. Phun bảo vệ quả từ lúc hoa tàn, sau 50 – 60 ngày cần phun thuốc lặp lại để phòng trừ bệnh, trong năm có thể phun thuốc 4 lần để bảo vệ. Lần 1: phun lúc ra lộc xuân; lần 2: phun lúc rụng hoa quả non 9mm; lần 3: phun lúc có quả non 25 – 30mm; lần 4: phun vào tháng 9 – 10 nếu cần thiết. Tùy tình hình thời tiết và tốc độ phát triển bệnh mà số lần phun có thể thay đổi nhiều hoặc ít. Khi phun phải phun đều hai mặt lá, từ trong ra ngoài, từ cao xuống thấp. Mặt khác cần kết hợp phun thuốc trừ sâu bùa vẽ để hạn chế bệnh truyền lan. Ngoài ra, đã có nhiều thử nghiệm dùng chất kháng sinh ppm mỗi lần phun cách nhau 15 ngày đã cho kết quả tốt.

NTNN, 8/2003

Cách diệt sâu Bore hại cam quýt đơn giản 

Các cây trong họ cam quýt như cam, chanh, quýt, bưởi, bòng… có rất nhiều loại sâu bệnh gây hại, trong đó có nhóm sâu đục cành, đục thân, đục gốc hay còn gọi là sâu Bore là nhóm nguy hiểm nhất.

Mức độ lây lan của nhóm này rất nhanh, có sức tàn phá ghê gớm, có thể dẫn đến huỷ diệt cả vùng cây lớn nhưng rất khó phòng trị vì chúng nằm sâu bên trong cành, thân, gốc cây thuốc hóa học không thể thấm vào bên trong được vì vậy việc phun thuốc trừ sâu hóa học hoàn toàn không có hiệu quả.

Trên cơ sở nghiên cứu, tìm hiểu qui luật phát sinh, phát triển của từng loài, KS. Lê Đức Phát, cán bộ kỹ thuật đội Sao Đỏ, Nông trường Thống Nhất, Thanh Hóa đã có một số biện pháp diệt trừ nhóm sâu hại nguy hiểm này bằng các biện pháp thủ công đơn giản, rẻ tiền nhưng rất hiệu quả. Sáng kiến này được nhân rộng ra toàn đội Sao Đỏ và nhiều nơi tham quan học tập làm theo. Nhờ các biện pháp thủ công này mà nhiều vườn cam quýt đã được cứu thoát khỏi sự hủy diệt của sâu Bore. Theo anh Phát thì nhóm sâu Bore chủ yếu có 3 loại: sâu đục cành, sâu đục thân và sâu đục gốc.

– Sâu đục cành có tên khoa học là Chelidonium argentatum Dalm, là sâu non của con xén tóc màu xanh nên gọi là xén tóc xanh. Xén tóc xanh thường đẻ trứng vào tháng 5-6 trên các nách lá ngọn cành tăm. Sau 10-12 ngày sâu non nở và bắt đầu gặm vỏ cành để sống, đục phá từ cành nhỏ đến cành lớn và cả thân cây. Từ 8 đến 9 tháng sau, sâu non đục đến cành cấp 1 hoặc cành cấp 2, thậm chí có thể tới thân, tuỳ theo độ dài của cành. Thông thường tập trung là cành cấp 1, sâu non làm một buồng hoá nhộng bằng cách dùng mùn cưa và chất bài tiết vít đường đục lại rồi đục một lỗ ra ngoài, chừa lại vỏ cành để làm cửa vũ hoá sau này. Khoảng tháng 2, tháng 3, sâu non hoá nhộng, tới tháng 4, tháng 5 thì vũ hoá thành con xén tóc xanh bay ra. Vòng đời của sâu là một năm.Trên một thân cây có thể bị hàng chục con sâu đục cành và nếu 2-3 năm liền bị hại thì cây sẽ chết.

– Sâu đục thân có tên khoa học là Nadezhdiella cantori Hope, là sâu non của con xén tóc màu nâu nên gọi là xén tóc nâu. Xén tóc nâu thích nơi râm mát, ban ngày ẩn nấp, ban đêm thường tìm đến đẻ trứng vào những kẽ nứt, những chỗ gồ ghề ở thân cây cách mặt đất từ 0,3 đến 1 m. Trong các tháng 5-6-7, sau khi đẻ, 6-12 ngày trứng nở. Sâu non nở ra chui vào vỏ và phá hoại phần gỗ từ 22 đến 24 tháng, tạo thành những đường đục ngoằn ngoèo không theo qui luật dọc theo thân cây. Sâu non nghỉ đông 2 lần vào khoảng tháng 12 và tháng 1. Sâu hoá nhộng vào khoảng tháng 2 và vũ hoá thành xén tóc nâu vào tháng 3 và tháng 4. Vòng đời của sâu đục thân kéo dài từ 2,5 đến 3 năm.

-Sâu đục gốc có tên khoa học là Anoplophora chinensis Forster, còn gọi là xén tóc sao hay xén tóc hoa vì trên toàn thân màu đen của con bọ trưởng thành cánh cứng này có điểm khoảng 30 chấm trắng. Con trưởng thành thường ăn bổ sung bằng các phần non của cây, đặc biệt là rễ non trước khi đẻ trứng vào tháng 5, tháng 6, vũ hoá vào tháng 5-6. Trước khi đẻ, xén tóc sao cắn vào gốc cây một vết hình chữ T ngược rồi đẻ trứng vào đó. Sau 6-12 ngày thì trứng nở, sâu non di chuyển xuống phía dưới gốc, phá hại phần gốc, rễ cây tiếp giáp với thân. Đầu tiên sâu hại vỏ, sau đó đục vào bên trong phần gỗ. Nhiều khi sâu đục cả những rễ to làm cho cây héo toàn bộ, rụng lá và chết. Sâu non phá hại trong 2-3 tháng thì nghỉ đông ở gốc cây. Đến tháng 3, tháng 4 năm sau thì hoá nhộng, tháng 5-6 vũ hoá. Vòng đời của xén tóc sao là một năm.

Biện pháp phòng trừ

-Với sâu trưởng thành: Dùng vợt hoặc bắt bằng tay đối với cả 3 loại xén tóc trong thời gian con trưởng thành vũ hoá và đẻ trứng từ tháng 4 đến tháng 6 hàng năm.

-Diệt sâu non bằng cách bẻ cành non bị héo (đối với sâu đục cành) vào các tháng 5, 6, 7. Những cành con bị sâu tiện một vòng tròn quanh vỏ sau vài ngày thường bị héo. Khi lá mới chớm héo, còn màu xanh nhưng mép lá hơi uốn cong, dùng sào dài có chạc khẽ vặn, cành sâu sẽ gãy dễ dàng, sâu sẽ rơi ra và chết. Nếu cành đã héo khô thì sâu non đã đục trở xuống phía dưới vòng tròn. Có thể cắt hoặc bẻ xuống dưới một đoạn cũng có thể loại bỏ được sâu non. Kinh nghiệm nhiều gia đình cho thấy biện pháp bẻ cành héo triệt để có thể hạn chế được sự gây hại của sâu trên 90%. Với các con sâu non đã đục vào trong cành lớn, thân cây hoặc gốc cây thì có thể dùng một sợi dây thép nhỏ và cứng như dây phanh xe đạp để làm thành cái móc nhọn như lưỡi câu, luồn vào trong để ngoáy và kéo sâu non qua các lỗ đùn phân và mạt cưa trên thân, cành và gốc cây.

-Quét thuốc: Sau khi thu hoạch quả, quét vôi hoặc Boóc-đô (pha tỉ lệ: 1 phần CuSO4 + 1 phần vôi tôi + 20 phần nước) vào gốc cây, thân cây từ 1m trở xuống để phòng các loại nấm bệnh và hạn chế việc đẻ trứng của các loại xén tóc.

KS. CẬN – NNVN, 02/04/2008

Mô hình IPM quản lý dịch bệnh, khôi phục vườn cam sành bị bệnh vàng lá 

Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Vĩnh Long mở rộng mô hình IPM quản lý dịch bệnh, khôi phục vườn cam sành bị bệnh vàng lá tại các xã Hòa Hiệp, Loan Mỹ, Tường Lộc và Mỹ Thạnh Trung ( huyện Tam Bình). Đây là các dự án nằm trong chương trình chuyển giao khoa học kỷ thuật hợp tác với Viện Cây ăn quả miền Nam và tổ chức JIRCAS của Nhật Bản.

Các nhà vườn đã triển khai 18 mô hình IPM quản lý bệnh vàng lá, 2 mô hình thử nghiệm trên các loại gốc ghép và 8 mô hình trồng cam xen ổi xá lỵ nghệ, tổng diện tích thử nghiệm trên 5 ha, bình quân vốn đầu tư 50 triệu đồng/ha/năm. Nhà vườn được hướng dẫn kỷ thuật chọn giống và chăm sóc, khôi phục vườn cam, được cung cấp miễn phí cây giống sạch bệnh, phân bón, thuốc trừ sâu.

Ông Nguyễn Văn Mười Anh – Ấp 10, xã Hòa Hiệp đã áp dụng mô hình trồng cam trên đất phèn trên diện tích 2.000m2. Được chương trình hướng dẫn chọn cây giống chất lượng, bố trí mật độ cây trồng đúng quy cách, sử dụng phân hữu cơ vi sinh cải tạo đất và bón thêm phân chuồng, thực hiện lịch ghi chép trong khâu chăm sóc, sử dụng thuốc nên sau 2 năm vườn cam sành của ông phát triển rất tốt. Chị Lưu Lệ Quyên ở xã Tường Lộc thử nghiệm mô hình trồng cam xen ổi xá lỵ nghệ. Sau khi đốn bỏ 12.000m2 cam sành bị nhiễm bệnh vàng lá, chị trồng thử nghiệm 100 cây ổi xá lỵ nghệ trên diện tích 3.000m2, sau 6 tháng trồng 300 cây cam sành. Hiện nay vườn cam của chị đang phát triển tốt và có thêm thu nhập từ cây ổi xá lỵ.

Theo anh Phùng Nhất Đỉnh, cán bộ kỹ thuật Phòng NN & PTNT Tam Bình, các mô hình trình diễn chuyển giao kỷ thuật khôi phục vườn cam sành bị bệnh vàng lá đã thu hút nhà vườn thực hiện tốt. Dự án được triển khai từ năm 2006, đã bước đầu thay đổi tập quán, thói quen trồng cam sành với mật độ dày, không ghi chép theo dõi chăm sóc và quản lý dịch bệnh của các nhà vườn…Các mô hình đã đầu tư cho nhà vườn chuyển đổi cơ cấu cây trồng sau khi đốn bỏ diện tích vườn cam có tỷ lệ nhiễm bệnh trên 60%, chuyển sang trồng cây ăn trái, trồng màu… cải tạo đất từ 1- 2 năm để cắt sự lây lan mầm bệnh lưu tồn, lấy ngắn nuôi dài, tạo thêm thu nhập.

Do ảnh hưởng của dịch bệnh vàng lá, diện tích cam sành ở huyện Tam Bình hiện chỉ còn 1.500 ha, giảm trên 50% so với trước. Các mô hình IPM trên cây cam sành phát triển tốt đang mở ra hướng khôi phục lại vùng chuyên canh cam sành Tam Bình cung cấp cho thị trường trong nước và xuất khẩu./.

Agroviet, 28/10/2008

Các tin có liên quan