Kỹ thuật nuôi cá thát lát, cà nàng hai, cá còm

Kỹ thuật nuôi và sản xuất giống và nuôi cá thát lát (Notopterus notopterus Pallas)

Cá thát lát (Notopterus; tên khác: cá phát lát) loài cá xương nước ngọt, thuộc họ Cá thát lát (Notopteridae). Thân rất dẹt, đuôi rất nhỏ, toàn thân phủ vảy nhỏ; đường bên chạy giữa thân, tương đối lớn. Miệng tương đối to, mõm ngắn bằng, rạch miệng kéo dài đến trước ổ mắt. Vây hậu môn liền với vây đuôi. Cá xám ở lưng, trắng bạc ở bụng, phía dưới viền xương nắp mang màu vàng. Cỡ cá nhỏ, con lớn nhất dài 400mm, nặng 500g, trung bình 100-200g. Ăn tạp. Sau 1 năm tuổi, thân dài đến 165mm, nặng 200g, bắt đầu sinh sản, mùa đẻ tháng 5-7, trứng bám vào đá được cá đực bảo vệ; cá bố mẹ thường dùng đuôi khuấy nước, tạo điều kiện cho trứng hô hấp. Phân bố ở Ấn Độ, Thái Lan, Đông Dương; ở Việt Nam, tập trung chủ yếu ỏ vùng đồng bằng sông Cửu Long, vùng sông Đồng Nai và các tỉnh miền Trung. Sản lượng khai thác tự nhiên khá cao, có thể đánh cá quanh năm. Thịt ngon, một số địa phương nuôi cá thát lát ở ao, ruộng đạt kết qủa tốt. (Theo Từ điển Bách khoa Nông nghiệp)

Ương nuôi và cho sinh sản cá thát lát

Kỹ thuật sinh sản:

Chọn cá bố mẹ có chiều dài bình quân 18cm, mạnh khỏe, không xây xát. Cá cái có bụng to, sờ thấy bụng mềm đều, gai sinh dục màu hồng. Một kilôgam cá bố mẹ khoảng 8 con, cho khoảng 1.800 – 2.000 trứng.

  • Kích dục tố sử dụng thường là các loại như HCG, LRH-A và não thùy cá chép, cá mè, có tác dụng gây rụng trứng với liều tiêm thích hợp. Liều tiêm cá đực bằng 1/2 cho cá cái. Sau hai ngày chích kích thích tố cá sẽ đẻ. Có thể cho cá đẻ tự nhiên bằng cách đưa vào bể xi măng hoặc ao có mức nước 0,8 – 1m.

Đối với ao có lớp bùn dày 5-10cm, tổ cho cá đẻ là giá sơ dừa, rơm đặt cố định ở cạnh ao, nơi yên tĩnh. Tạo dòng chảy hoặc phun mưa kích thích cá đẻ. Với sinh sản nhân tạo có thể vuốt trứng rồi phối giống với cá đực, một cá đực có thể phối giống với 6 cá cái.

  • Ấp trứng trong thau hoặc bể xi măng, sục khí hoặc tạo dòng chảy cho phôi phát triển. Sau bốn ngày cá nở. Khi cá tiêu hết noãn hoàng, đem lên nơi ương. Sau 45 ngày tuổi cá đạt chiều dài 3 – 4m.

Ương thành cá hương:

Bể ương có diện tích 5-10m2, chiều sâu cột nước 0,4-0,6m, không cần mái che. Mật độ 300 – 500 con/m2. Sau khi cá hết noãn hoàng 7 ngày đầu cho cá ăn trứng luộc hòa nước với lượng 200ml/vạn con/ngày, ngày thứ 8 cho ăn trùn (lưu ý chỉ cho giun đỏ sống trong bùn) với lượng 150-250g/vạn con/ngày. Sau 30 ngày chuyển xuống ao nuôi cá thịt.

Thời gian nuôi vỗ cá thịt:

Cá thát lát có đặc tính chui rúc tìm nơi trú ẩn và nơi có thực vật thủy sinh phát triển, vì vậy ao, mương , ruộng nuôi phải không có hang hốc, sụt lở, bờ ao chắc chắn. Đáy ao phẳng, có lớp bùn dày 10 – 20cm, mức nước cao 1 – 1,5m, ở ruộng nuôi có mức nước 0,5m. Ruộng phải có mương bao hay đìa làm nơi cá trú khi rút nước trên ruộng. Nên chất chà làm nơi cho cá ẩn.

Mật độ thả:

Ở ao 6-8 con/m2, ở ruộng 1 con/m2. Có thể nuôi ghép các loại cá như: Cá chép, mè, rô phi v.v… với cá thát lát. Tỷ lệ ghép 10 – 20% tổng đàn cá.

Chăm sóc:

Có thể tận dụng nguồn thức ăn sẵn có như cua, ốc, cá tạp, tép, phế phẩm động vật… Lượng thức ăn bằng 2 – 5% trọng lượng tổng đàn. Hàng ngày theo dõi để điều chỉnh lượng thức ăn cho phù hợp.

Thu hoạch:

Sau 10-12 tháng nuôi đúng quy trình kỹ thuật thì cá sẽ đạt 70 – 80g/con. Hiện nay cá thát lát là mặt hàng rất được ưa chuộng trên thị trường, cả nội địa lẫn xuất khẩu.

NNVN, 15/6/2004

Ương giống cá còm

Cá còm có đặc tính dễ nuôi, thịt ngon, giá cả ổn định, bệnh cá ít xuất hiện và dễ trị hơn cá tra. 

Ông Gia bên bể ấp trứng cá còm

Ông Lâm Vĩnh Gia, ngụ tại ấp 1, xã Vĩnh Xương, TX Tân Châu, An Giang có hơn 40 năm kinh nghiệm nuôi thủy sản. Trước đây, ông Gia chuyên ương cá tra giống nhưng do hiệu quả thấp nên chuyển sang nuôi cá còm.

Cá còm còn có tên gọi cá Nàng Hai, là loài được xếp phân loại cùng một họ với cá thát lát (họ Notopteridae). Ngoài giá trị được sử dụng làm thực phẩm, cá còm còn được nuôi làm sinh vật cảnh. Đây là giống cá nước ngọt có khả năng chịu phèn, thịt ngọt và dai, có thể chế biến ra nhiều món ăn ngon; đặc biệt là món chả cá.

Lý do ông Gia chọn cá còm bởi chúng có đặc tính dễ nuôi, thịt ngon, giá cả ổn định, bệnh cá ít xuất hiện và dễ trị hơn cá tra. Ban đầu ông lấy nguồn cá giống nơi khác đem về nuôi. Sau vài vụ, ông nảy sinh ý tưởng nhân giống loài cá này để không phải mất thời gian và chi phí mua giống.

Trước khi tiến hành sinh sản nhân tạo giống cá còm, ông đã đi tham quan, học tập ở nhiều nơi. Sau vài lần thất bại, ông đã đúc kết được một số kinh nghiệm.

Do đặc tính cá còm đẻ trứng dính, ông Gia đã sử dụng giá thể bằng gạch tàu để cá còm đẻ trứng dính vào giá thể. Nhưng do việc sử dụng gạch tàu làm giá thể gặp nhiều khó khăn trong việc kiểm tra, vì các miếng gạch phải cắm ở dưới mặt nước ao.

Sau một thời gian nghiên cứu, ông đã thay đổi giá thể bằng việc sử dụng các ống nhựa có đường kính 10 cm để dễ dàng kiểm tra trứng. Ngoài ra, ông còn dùng nẹp tre kẹp vào ống nhựa để dễ dàng cắm ống nhựa xuống dưới mặt nước ao, cá đẻ sẽ dính quanh mặt ngoài thành ống nhựa.

Để kích thích cá đẻ, ông cấp nước thêm vào ao, sau đó bố trí giá thể các ống nhựa cấm theo chiều thẳng đứng xuống ao, tính từ khi cấp nước đến thời điểm ngày thứ ba thì bắt đầu kiểm tra các ống nhựa.

Nếu cá đẻ trứng sẽ dính bên mặt ngoài ống. Sau đó tiến hành chuyển các ống nhựa đến bể ấp đã chuẩn bị sẵn. Sau 5 – 6 ngày, trứng sẽ nở thành cá bột. Cá bột được vớt chuyển sang bể ương cá giống.

Sau nhiều đợt SX, ông đã có thêm kinh nghiệm về việc định kỳ phân cỡ trong quá trình ương cá giống. Bên cạnh đó, ông còn nghiên cứu sử dụng thức ăn công nghiệp để thay thế thức ăn tự chế nhằm tiết kiệm thời gian chế biến thức ăn và hạn chế ô nhiễm môi trường nước.

Theo ông Gia, với số lượng 300 con cá bố mẹ được chọn sinh sản thì SX được 40.000 cá con với tỉ lệ cho phối 2 cái, 1 đực. Cá còm một năm chỉ sinh sản một đợt nhưng chia ra từ 5 – 6 lần sinh sản và bắt đầu sinh sản từ tháng 4 kéo dài đến tháng 7, tháng 8.

Như vậy, bình quân một tháng cá đẻ 2 lần, tỉ lệ đẻ và nở đạt 90%. Năm 2013, ông SX được 150.000 con cá bột, sau đó ương lên giai đoạn cá hương bán được với giá 2.800 đ/con.

Nông nghiệp VN, 04/11/2014

Nuôi cá thát lát bằng thức ăn viên

Để chủ động có nguồn cá thát lát quanh năm phục vụ làm chả cá xuất khẩu, các huyện như Cờ Đỏ, Vĩnh Thạnh, Thới Lai (TP Cần Thơ) đã áp dụng thành công mô hình nuôi cá thát lát ao bằng thức ăn viên công nghiệp.

Ông Lê Văn Tạo ở xã Đông Hiệp, huyện Cờ Đỏ, nuôi 1.000 m2 cá thát lát trong ao cho biết, nuôi bằng thức ăn viên giúp cá mau lớn và giảm dịch bệnh. Chi phí đầu tư bình quân 145 triệu đồng/1.000 m2 nuôi từ 9 – 10 tháng có thể thu hoạch, năng suất đạt 4 tấn, giá bán 56.000 – 60.000 đ/kg thu được 224.000.000 đồng/vụ. Sau khi trừ chi phí lãi gần 100 triệu đồng.

Còn nuôi cá thát lát trong vèo lưới cước bằng thức ăn viên chi phí đầu tư khoảng 45 triệu đồng/100 m2 vèo, năng suất trung bình 1,1 tấn/100 m2 vèo giá bán 56.000 đ/kg thu được 61,6 triệu đồng, lợi nhuận gần 17 triệu đồng/vèo/vụ.

Lê Hoàng Vũ, Nông nghiệp VN, 10/09/2015

Kỹ thuật sinh sản nhân tạo cá thát lát (Notopterus notopterus)

Cũng như một số loài cá giá trị thương phẩm trên thị trường luôn cao như cá lóc (Channa striata), cá trê vàng (Clarias marcocephalus), cá rô đồng (Anabas testudineus), cá sặc rằn (Trichogaster pectoralis), cá thát lát (Notopterus notopterus)có phẩm chất thịt ngon, khi chế biến được mọi người ưa thích. Giá cá nguyên con dao động từ 20.000 – 30.000 đồng/kg, thịt cá làm chả có giá từ 45.000 – 60.000 đồng/kg.

Bảng1: Liều lượng chất kích thích dùng trong thí nghiệm 

TNLoại CKTTổng liều CKT ( /kg cá cái)
1LH – RHa + DOM80 microgam + 10 mg
2HCG9.000 IU
3Não thuỳ8 mg
4Não thuỳ + HCG2 mg + 6.000 IU

Hiện nay, nhu cầu tiêu thụ của người dân đối với cá thát lát gia tăng. Ðây là một trong những nguyên nhân góp phần tạo thêm sự khai thác quá mức làm cho nguồn sản lượng cá ngoài tự nhiên giảm sút nghiêm trọng, kích cỡ cá thương phẩm nhỏ dần. Do đó, nghiên cứu kỹ thuật sản xuất giống nhân tạo cá thát lát, ương nuôi cá thương phẩm là việc làm thiết thực. Từ đó, có thể cung cấp giống, chuyển giao công nghệ cho người nuôi, bảo vệ phần nào nguồn lợi thuỷ sản nói chung, cá thát lát nói riêng.

Kỹ thuật sinh sản nhân tạo

Nuôi vỗ cá bố mẹ

Cá bố mẹ được nuôi trong ao đất (300m2/ao), độ sâu mực nước từ 1,2m – 1,4m. Mật độ nuôi vỗ : 0,5 kg/m2 đối với cá cái và 1 kg/m2 đối với cá đực với hai công thức thức ăn khác nhau tương ứng với hai thí nghiệm (TN) : TN I : 70% cám + 30% bột cá; TN II : 70% cám + 30% cá tươi xay nhuyễn.

Ðể đảm bảo các yếu tố ảnh hưởng lên sự phát triển tuyến sinh dục tương đối đồng nhất giữa hai TN, ao ngăn ra làm hai, mỗi ngăn cho một TN.

Hầu hết cá được chọn nuôi đều có tuyến sinh dục đang ở giai đoạn II. Sau hai tháng nuôi, định kỳ một tháng kiểm tra sự thành thục của cá một lần.

Như vậy, có thể nói rằng chất lượng thức ăn đã tác động mạnh đến sự phát triển tuyến sinh dục của cá thát lát. TN II (70% cám + 30% cá tươi) đã đáp ứng tốt về nhu cầu dinh dưỡng của cá hơn là TN I (70% cám + 30% bột cá).

Bảng 2 : Tỷ lệ thành thục (TLTT) của cá thát lát cái ở hai thí nghiệm

ThángTNSố cá nuôi vỗ (con)Số cá thành thục (con)  Giai đoạn thành thụcTLTT(%)
414500III0
 24500III0
5145056IVe12,44
 2450125IVe27,77
61450250IVe55,55
 2450365IVe81,11
61450300IVe66,66
 2450420IVe99,33

Chuẩn bị bể đẻ

  • Bể đẻ : bể được vệ sinh sạch sẽ, sau đó cho nước vào, độ sâu mực nước từ 60 – 80 cm, diện tích bể 3m x 2m. Nước sử dụng cho cá đẻ, ấp trứng và ương nuôi là nước mưa và nước ngầm được chứa trong ao lắng.
  • Giá thể : sử dụng xơ dừa đan lại thành từng tấm hình chữ nhật dài khoảng 6 cm, ngang 5 cm và khung sắt hình vuông phủ vải bố bên ngoài hoặc hình trụ dài có mặt cắt tam giác. Giá thể được đặt trong góc của bể. Trên mặt bể phủ bèo lục bình để tránh cá hoảng sợ.

Chọn cá bố mẹ cho sinh sản

  • Cá cái : thân không bị sây sát, không dị hình, khoẻ mạnh. Bụng cá phình to, gai sinh dục sưng và đầu mút hơi ửng hồng, da bụng mỏng.
  • Cá đực : chọn tương tự như cá cái nhưng gai sinh dục dài và nhọn.

Hình thức cho cá thát lát sinh sản

Ðể có được hình thức tốt nhất áp dụng cho cá thát lát sinh sản, hai hình thức được bố trí thử nghiệm :

  • Bố trí cho sinh sản tự nhiên : sau khi tiêm CKT, thả cá vào bể có đặt sẵn giá thể và phủ bèo lục bình trên mặt, cho dòng nước chảy nhẹ và liên tục đến khi kết thúc quá trình sinh sản để tạo thêm sự hưng phấn đối với cá. Tỷ lệ cá đực cái bố trí cho đẻ là 1/1.
  • Gieo tinh nhân tạo : cũng giống như hình thức trên, cá sau khi được tiêm CKT cho vào bể kích thước nước liên tục nhưng không đặt giá thể và bèo. Theo dõi và kiểm tra phát hiện trứng rụng đồng loạt, tiến hành giải phẫu lấy buồng tinh cá đực, vuốt trứng vào thau nhỏ và áp dụng gieo tinh bán khô. Tỷ lệ cá đực cái tham gia sinh sản : 1/2 – 1/3. Khi trứng đã được cho thụ tinh xong, khử tính dính của chúng bằng dung dịch urê và tananh.

Kết quả cho cá thát lát sinh sản

Trong sinh sản nhân tạo, không phải loài cá nào cũng phát huy tác dụng tốt như nhau với bất kỳ CKT sinh sản nào mà chỉ ở vài loại. Do đó, ba loại CKT sinh sản : HCG, LH – RHa kết hợp với DOM và não thuỳ đã được thí nghiệm tiêm cho cá thát lác sinh sản.

  • Kết quả cho cá thác lát sinh sản

Bốn TN đã được thử nghiệm tương ứng với bốn công thức về liều lượng CKT sinh sản khác nhau. Mỗi TN lặp lại hai lần kèm theo có sự kích thích nước.

Qua bốn TN đã được bố trí, kết quả của TN I tốt nhất, kế đến là TN III, tiếp theo TN IV, sau cùng là TN II (Bảng 3 và Hình 1). Hay nói cách khác, đối với cá thát lát CKT sinh sản như LH – RHa kết hợp với DOM, não thuỳ là phù hợp với đặc tính sinh lý của chúng nên đã phát huy tốt hiệu quả kích dục.

  • Kết quả gieo tinh nhân tạo cá thát lát :

Cũng như hình thức bố trí cho đẻ tự nhiên, trong gieo tinh nhân tạo thì TN I với loại CKT được chọn là LH – RHa + DOM vẫn là TN tốt nhất, kế tiếp là TN III (KDT não thuỳ) rồi đến TN IV (não thuỳ kết hợp HCG); cuối cùng TN II (HCG) (Bảng 4 và Hình 2).

Bảng3. Liều lượng CKT sinhsản, thời gian hiệu ứng, tỷ lệ sinh sản của cá thát lát (Bố trí cho sinh sản tự nhiên) 

TNSố cá cái (con)Loại CKT sinh sảnLiều lượng (/kg cá cái)T.gian hiệu ứng (giờ)Tỷ lệ sinh sản (%)Nhiệt độ nước (oC)
124LH – RHa80microgam +2210029 – 30
 20+ DOM10 mg2610028 – 29
216HCG9000 IU305028 – 29
 24  3258,3328 – 29
312Não thuỳ8 mg2466,6628 – 29
 16  2287,5028 – 29
420Não thuỳ2 mg +256028 – 29
 12+ HCG6000 IU2466,6629 – 30

Bảng 4. Thời gian hiệu ứng và tỷ lệ sinh sản của cá thát lát (Gieo tinh nhân tạo)

TNSố cá cái (con)Loại CKT sinh sảnLiều lượng (/kg cá cái)T.gian hiệu ứng (giờ)Tỷ lệ sinh sản (%)Nhiệt độ nước (oC)
112LH – RHa80microgam +2410029 – 30
 8+ DOM10 mg2610028 – 29
28HCG9000 IU342528 – 29
 8  325028 – 29
312Não thuỳ8 mg2666,6628 – 29
 8  2210028 – 29
48Não thuỳ2 mg +287528 – 29
 8+ HCG6000 IU275029 – 30

Tóm lại, qua kết quả thu được từ hai hình thức sinh sản có thể thấy rằng LH – RHa + DOM vẫn cho kết quả kích dục cao nhất đối với cá thát lác.

Kết quả ấp trứng

Việc ấp trứng cá thát lác được tiến hành song song hai hình thức :

  • Hình thức bố trí cho sinh sản tự nhiên : sau khi quá trình sinh sản kết thúc, với cá bố mẹ ra kiểm tra và đem nuôi vỗ trở lại; giá thể được mang ấp trong bể bạt cho nước chảy liên tục. 
  • Hình thức gieo tinh nhân tạo : áp dụng ấp trứng trong bình weis. Trước khi ấp, trứng được khử tính dính bằng phương pháp carbamide.

Ấp trứng

Kết quả ấp trứng cho thấy thời gian phát triển phôi của cá thát lác giữa hai hình thức ấp trứng chênh lệch nhau rất lớn (92 – 126 giờ của bể bạt so với : 58 – 98 giờ của bình weis) (Bảng 4 và 5).

Sự khác biệt về thời gian phát triển phôi giữa hai hình thức ấp trứng có thể do một số nguyên nhân như sau : nhiệt độ và ánh sáng. Nhiệt độ nước trong hệ thống bình weis được làm bằng thuỷ tinh nên ánh sáng mặt trời chiếu vào môi trường nước ấp trứng rất lớn, mặc dù nhà ấp trứng có mái che. Trong khi đó, bể bạt đã nhận một lượng ánh sáng rất ít. 

Tỷ lệ thụ tinh (TLTT)

Trong nghiên cứu này, hình thức gieo tinh nhân tạo đã thu được kết quả về TLTT thấp hơn nhiều so với hình thức bố trí cho sinh sản tự nhiên. Có lẽ do khi vuốt trứng cá cái, một số trứng chưa sẵn sàng thụ tinh cũng rụng nên dẫn đến TLTT thấp. Hơn nữa, về khía cạnh sinh thái thì hình thức bố trí cho sinh sản tự nhiên tương tự với việc cá bố mẹ tự bắt cặp sinh sản nên đã thu được TLTT cao hơn. 

Bảng 4. Kết quả ấp trứng cá thát lát bằng bể bạt 

/

TNNhiệt độ nước (oC)TLTT (%)TLN (%)Thời gian nở (giờ)Nhận xét
129 – 308010126Nấm thuỷ mi nhiều
  9270112Nấm thuỷ mi ít
229 – 3033,3335,71120Nấm thuỷ mi ít
  28,8453,33112Nấm thuỷ mi ít
330 – 31706092Nấm thuỷ mi ít
  805096Nấm thuỷ mi ít
429 – 306058112Nấm thuỷ mi ít
 30 – 31756294Nấm thuỷ mi ít

Bảng 5. Kết quả ấp trứng cá thát lát bằng bình weis

TNNhiệt độ nước (oC)TLTT (%)TLN (%)Thời gian nở (giờ)Nhận xét
131 – 32504458Cá dị hình nhiều
 30 – 31604070Cá dị hình ít
230 – 31403072Cá dị hình nhiều
 30 – 32352568Cá dị hình nhiều
330 – 31304475Cá dị hình ít
  453574Cá dị hình ít
429 – 3025,3644,9598Cá dị hình ít
 30 – 3129,794076Cá dị hình ít

Bảng6. Tỷ lệ sống của cá thát lát sau khi tiêu hết noãn hoàng

TLS(%)Nhiệtđộ nước (oC)Sốcá mới nở (con)Số cá tiêu hết noãn hoàng (con)TLS(%)Thờigian tiêu hết noãn hoàng (giờ)
26/628 – 294.8304.59095,0390
1/729 – 308007689680
8/730 – 311.9201.8249570
15/730 – 311.6741.62096,6972

Tỷ lệ nở

Nhìn chung, trong thí nghiệm này, hình thức ấp trứng bằng bể bạt cho kết quả tốt hơn là ấp trứng bằng bình weis (Bảng 4 và 5). Cá thát lát mới nở có bọc noãn hoàng rất lớn và có tập tính trú ẩn ở nơi tối nên khi ấp trứng bằng bình weis vì nước chảy liên tục làm cho cá mới nở yếu dần rồi chết. Ðể khắc phục tình trạng này, sau khi cá nở nên chuyển chúng từ bình weis ra bể bạt có dòng chảy nhẹ để chăm sóc.

Tỷ lệ sống (TLS)

TLS là một trong những chỉ tiêu kỹ thuật ảnh hưởng đến hiệu quả của công tác sản xuất giống thuỷ sản nhân tạo. Kết quả ấp trứng và chăm sóc cá bột cho thấy TLS của cá thát lát đạt giá trị khá cao (95 – 96,69%). Như vậy, có thể cho rằng phôi và cá thát lát mới nở phát triển tốt ở nhiệt độ nước 28 – 31oC (Bảng 6).

Kết luận

Qua kết quả đạt được trong quá trình nghiên cứu rút ra các kết luận sau :

  • TN II với công thức thức ăn : 70% cám + 30% cá tươi xay nhuyễn đã đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng của cá thát lát dẫn đến tỷ lệ thành thục cao (81,11 – 99,33%).
  • Hai liều : 80 mg LH – RHa + 10 mg DOM/kg cá cái và 8 mg não thuỳ/kg cá cái có hiệu quả kích dục cao nhất đối với cá thát lát.
  • Hình thức bố trí cho sinh sản tự nhiên cho kết quả cao hơn hình thức gieo tinh nhân tạo.
  • ấp trứng bằng bể bạt có dòng chảy nhẹ cho tỷ lệ nở (49,88%) cao hơn ấp trứng bằng bình weis (37,87%).

Lê Thị Bình, Ngô Văn Ngọc, Khoa Thuỷ sản, ÐHNL Tp.HCM (Nguồn : KHKT Nông Lâm nghiệp số 1/2003)

Kỹ thuật sản xuất giống nuôi cá thát lát (Notopterus notopterus Pallas)

Nuôi vỗ cá bố mẹ

Chọn cá bố mẹ: Cá mập, khỏe mạnh, không dị hình, có trọng lượng lớn hơn 100g/con và chiều dài tối thiểu 18cm.

Cá đực: phần chót đầu gai sinh dục nhọn, khi thành thục mình cá thon, dài.

Cá cái: phần chót đầu gai sinh dục tù, khi thành thục mình cá to nhô ra hai bên hông.

Ao nuôi vỗ có diện tích từ 100-500m vuông, diện tích lớn khó quản lý, đánh bắt khi cá thành thục. Bờ ao không hang mội, nền đáy ít bùn, có cống cấp thoát nước.

Ao nuôi vỗ phải chủ động cấp thoát nước, do tính ăn của cá là động vật có thể làm môi trường bị nhiễm bẩn. Có thể áp dụng hình thức cho sinh sản bằng kích thích sinh thái, chiều sâu cột nước từ 1-1,2m.

Trước khi đưa cá vào nuôi vỗ phải cải tạo ao bằng các biện pháp thông thường. Sau khi cho nước vào ao, có thể chất chà hoặc thả bèo lục bình ở góc ao, tạo điều kiện cho cá ẩn nấp vào ban ngày, tiện cho việc đánh bắt cá cho sinh sản cũng như cho cá ăn vào ban ngày. Mật độ thả nuôi vỗ 0,5kg/m vuông.

Thức ăn: có thể sử dụng 2 loại thức ăn là tươi sống và chế biến.

Đối với thức ăn tươi sống: có thể sử dụng tôm, cá nhỏ còn sống hay đã chết. Nếu thức ăn là cá tép nhỏ còn sống, thả cùng với cá bố mẹ, cá thát lát sẽ bắt ăn dần. Thức ăn đã chết, bằm nhỏ đặt vào sàn cho cá ăn.

Thức ăn chế biến: gồm 50% cám + 50% bột cá. Thức ăn được kết dính bằng bột gòn, vò thành viên và đặt trong sàn cho cá ăn.

Khẩu phần: 3-5% trọng lượng đàn/ngày.

Mỗi ngày cho cá ăn 2 lần, sáng cho cá ăn bằng 1/5 khẩu phần cá ăn trong ngày và chiều, chiều cho ăn phần còn lại (4/5). Ban ngày nên cho cá ăn gần vị trí cá ẩn nấp.

Chăm sóc: Định kỳ 10 ngày thay nước lần, mỗi lần thay 1/3 lượng nước trong ao. Trường hợp cho các ăn bằng thức ăn còn sống, môi trường ít bị nhiễm bẫn, có thể 1 tháng thay nước/lần hoặc cấp nước mới khi lượng nước trong ao giảm do thất thoát. Sau 2 tháng nuôi vỗ định kỳ kiểm tra để xác định thời gian cho cá sinh sản.

Kỹ thuật cho cá đẻ

  1. Sinh sản tự nhiên trong ao:

Điều kiện ao: Phải chủ động cấp thoát nước, nền đáy ít bùn và có giá thể (lá cây, rơm, cỏ khô…).

Thời điểm cho cá sinh sản: Cá có tập tính sinh sản vào đầu mùa mưa và kết thúc sinh sản vào cuối mùa mưa. Khi kiểm tra xác định cá thành thục chọn hai con nước cường trong tháng cho cá sinh sản. Khi cho cá sinh sản, mỡ cống cho nước ra vô tự do, nước mới sẽ kích thích cá sinh sản. Khi cho cá ngưng sinh sản thì đóng cống lại, sau đó tiếp tục nuôi vỗ bình thường.

Tập tính sinh sản: Cá đẻ trứng dính vào giá thể được đặt trong các hố nhỏ ở đáy ao có đường kính khoảng 0,3-0,4m vuông, sâu 0,1m; vị trí tổ các sinh sản nằm gần bờ ao. Sau khi sinh sản xong cá đực giữ tổ. Mỗi ngày vào sáng sớm hay chiều mát, kiểm tra đáy ao, chú ý những nơi gần cống hoặc những nơi có ít bùn.

Thu trứng: nhặt hết giá thể có trứng bám, cho vào xô hoặc thau có nước sạch, vận chuyển về khu ấp trứng có dòng chảy nhẹ đi qua, kết hợp thay nước với sục khí.

  1. Sinh sản nhân tạo:

Chọn cá bố mẹ:

  • Cá đực: chủ yếu chọn ngoại hình có mình thon, dài, gai sinh dục màu hồng.
  • Cá cái: chọn cá có ngoại hình bụng to nhô ra hai bên hông, khi dùng tay sờ thấy mềm đều, gai sinh dục màu hồng.

Kích dục tố và liều sử dụng: Có thể sử dụng các loại kích dục tố sau:

  • HCG: 4000-6000 IU/kg cá cái
  • LH- RHa: 150-200 µg+ 1 viên dom/kg cá cái.
  • Cá đực tiêm 1/2 liều cá cái.

Tiêm ở góc vi lưng hoặc góc vi ngực. Tiêm 2 liều, liều sơ bộ cách liều quyết định 12-24 giờ. Cá đực chỉ tiêm 1 liều. TRong điều kiện nhiệtđộ 28-30 độ C, thời gian hiệu ứng 24 giờ.

Thụ tinh: Sau khi kiểm tra trứng rụng, tiến hành cho thụ tinh bằng hình thức sau bằng cách:

Vuốt trứng từ 5-10 con vào thau nhỏ, mổ bụng cá đực lấy tinh sào (5 con cái/ 1 con đực) cho vào thau chứa trứng. Đảo trộn 2-5 phút, cho nước cất vào vừa ngập trứng, tiếp tục đảo trộn cắt nghiền nhỏ trong cối, trộn đều với trứng bằng lông gà, sau đó mang đi ấp.

Bể ấp có diện tích 2-4m vuông, vệ sinh sạch trước khi sử dụng. 

Ấp trứng:

  • Khử dính: cho trứng vào dung dịch tanin với nồng độ 1-1,5‰; đảo đều 2-3 giây, đổ bỏ dung dịch tanin, cho nước sạch vào rửa 2-3 lần, sau đó mang trứng đi ấp.
  • Không khử dính: trứng sau khi thụ tinh cho bám vào khung lưới và cho vào bể ấp.

Mật độ ấp nếu dùng phễu, bình weis: 4.000-5.000 trứng/ lít; còn dùng khung lưới: 1.000-1,500/dm vuông.

Trong thời gian ấp trứng ngăn ngừa sự phát triển của nấm, mỗi ngày tắm trứng 1 lần bằng vertmalachite với nồng độ 1-1,5ppm. Trong điều kiện nhiệt độ 27-30 độ C, trứng nở 4-5 ngày sau khi đẻ. Sau khi cá nở 3-4 ngày chuyển cá đi ương. 

Ương cá từ bột lên giống

Cá thát lát có thể ương trong ao đất hoặc bể ximăng. Trước khi đưa vào ương, phương tiện ương phải được cải tạo hoặc vệ sinh. Do cá có tập tính ẩn nấp vào ban ngày, nên thả bèo lục bình trên mặt nước áo hay gạch ngói trong bể ximăng cho cá trú ẩn. Mật độ ương 200con/ m vuông.

Thức ăn: 7 ngày đầu cho ăn động vật phù du (Moina), ngày thứ 8 về sau cho ăn trùn chỉ hoặc thức ăn hỗn hợp gồm cá (30%) + bột cá (70%). Khẩu phần 100g/ vạn con/ngày và tăng dần theo nhu cầu bắt mồi của cá, thức ăn được nấu chín và đặt trong sàn. Cho các ăn 2 lần/ngày (sáng 1/5, chiều 4/5), ban ngày thức ăn đặt gần nơi cá ẩn nấp.

Nuôi cá thịt

Sau khi cải tạo từ 3-5 ngày cho nước mới vào ao tiến hành thả cá nuôi. Kích thước cá nuôi từ 4-6cm. Mật độ 6-10 con/m vuông, có thể thả ghép với các loài cá khác cùng cỡ nhưng không cùng tính ăn.

Thức ăn: có thể cho cá ăn các loại thức ăn tươi sống như cá tép vụn băm nhỏ hay cá – tép nhỏ còn sống thả vào ao cho cá ăn dần. Hoặc cho cá ăn thức ăn chế biến gồm 30% bột cá và 70% cám, kết dính cho vào sàn ăn.

Chăm sóc: Hàng ngày theo dõi tình hình bắt mồi của cá để tăng hoặc giảm lượng thức ăn cho hợp lý, định kỳ cấp nước mới cho ao hoặc cho nước ra vô theo thủy triều. Cá nuôi sau 1 năm trọng lượng đạt từ 80-150g/con.

ThS. Nguyễn Thành Trung, Trần Ngọc Nguyên – Đặc san Nuôi trồng thủy hải sản – báo Khoa học phổ thông.

Kỹ thuật nuôi cá thát lát

Cá thát lát có phẩm chất thịt ngon, có thể chế biến được nhiều món ăn cao cấp phục vụ cho nhu cầu tiêu thụ nội địa và xuất khẩu.

  1. Đặc điểm phân bố: Cá thát lát sống ở các vùng cửa sông, kinh rạch, ao hồ, đồng ruộng,… cá chịu được môi trường nước có hàm lượng oxy và pH thấp, cá có thể sống được ở các đầm nước lợ ven biển. Tất cả các thủy vực ĐBSCL đều có cá thát lát, nhất là các vùng lung bào, trũng.
  2. Dinh dưỡng: Là loài ăn tạp thiên về động vật, cá có thể ăn côn trùng, giáp xác nhuyễn thể, cá con, phiêu sinh vật, rể thực vật thủy sinh…
  3. Đặc điểm sinh trưởng: Cá tăng trọng thấp một năm tuổi có chiều dài trung bình 16cm, nặng 40-60g/con. Trong ao nuôi cá đạt 100g/con sau 12 tháng nuôi.
  4. Kỹ thuật nuôi: Điều kiện ao nuôi : Ao nuôi có kích thước từ 100-400m2 hoặc lớn hơn và ao có hình chữ nhật, bờ ao phải chắc chắn, đáy ao phải bằng phẳng, có cống cấp thoát nước chủ động, nước ao có pH từ 7-8 và oxy hoà tan lớn hơn 3mg/lit, có độ sâu giữ nước từ 0,8-1,2m. Cải tạo ao nuôi :Tát cạn ao, nạo vét ao chừa lớp bùn đáy 15-20cm, vệ sinh sạch cỏ xung quanh ao, lấp các hang hóc, không để có mọi rò rỉ, sau đó bón vôi từ 10-15kg/100m2 và phơi nắng từ 2-3 ngày tiến hành cho nước vào ao qua lưới lọc. Chọn giống thả nuôi: chọn giống có kích cỡ đồng đều không dị hình, khỏe mạnh không xây sát, cá được thả vào ao nuôi lúc sáng sớm hoặc chiều mát. Mật độ thả nuôi: 5-10 con/m2. Cho Ăn :Cho ăn bằng cá tép vụn băm nhỏ hoặc cá tép còn sống thả vào ao.Có thể cho ăn bằng cám, tấm, trộn bột cá lạt theo tỷ lệ 30% bột cá + 70% tấm cám. Nên cho cá ăn bằng sàn để theo dõi và điều chỉnh lượng thức ăn cho phù hợp. Khẩu phần thức ăn bằng 5-10% trọng lượng cá thả nuôi. Nên cho ăn 2 lần/ngày, do cá hoạt động mạnh vào ban đêm nên cho ăn vào buổi sáng lượng thức ăn =1/3 khẩu phần ăn trong ngày ,buổi chiều = 2/3 trọng lượng khẩu phần ăn trong ngày . Chăm sóc và quản lý : Hằng ngày theo dõi lượng thức ăn để điều chỉnh cho đầy đủ, quan sát hoạt động của cá, định kỳ cấp nước mới cho ao nuôi. Thu hoạch : Cá nuôi một năm đạt từ 80-150g/con lúc này tiến hành thu hoạch. Cá thát lát do bản tính ẩn nấp, chui rúc trong vật bám nên rất khó kéo lưới, cách thu hoạch tốt nhất là tháo bớt nước, kéo lưới thu một số sau đó tát cạn nước mới bắt cá triệt để.
  5. Phòng trị bệnh cho cá: Cá khỏe thường tập trung từng đàn, ẩn nấp vào các gía thể, đớp khí mạnh và lặn nhanh. Khi cá bơi tản mạn và ngoi lên mặt nước bơi chậm chạp đó chính là dấu hiệu cá bị bệnh. Cá thát lát thường bị một số bệnh như : – Bệnh nấm thủy mi : da cá xuất hiện vùng trắng xám có những sợi nấm nhỏ mềm, sợi nấm phát triển mạnh đan chéo nhau thành búi như bông có thể nhìn thấy bằng mắt thường.
  • Trị: Tắm cá trong nước muối 2-3% từ 5 đến 10 phút .
  • Bệnh ký sinh: Bệnh trùng bánh xe : Da cá màu xám, thân cá có nhiều nhớt màu hơi trắng đục. Trị : Tắm trong nước muối 2-3% từ 5 đến15 phút hoặc CuSO4 nồng độ 2-5ppm thời gian 5 đến 15 phút. hoặc phun trực tiếp CuSO4 nồng độ 0,5 – 0,7 ppm xuống ao.
  • Trùng quả dưa (Đốm trắng): Thân cá có nhiều trùng bám thành hạt lấm tấm nhỏ màu trắng đục có thể nhìn bằng mắt thường cá nổi lên mặt nước lờ đờ. Trị: sử dụng CuSO4 phun xuống ao.

Chú ý: Trước khi dùng thuốc trị bệnh cho cá thì nên rút bớt nước trong ao chỉ còn khoảng 1/3 lượng nước, sau đó cho thuốc vào trị.

V.T.N – Chi Cục Thủy sản Vĩnh Long (NN Vĩnh Long)

Kinh nghiệm nuôi cá thác lác cườm

Người nuôi: Anh Đặng Thành Thơm

Địa chỉ: xã Bình Thạnh (TX Hồng Ngự – Đồng Tháp)

Cá thác lác cườm là giống cá nước ngọt có khả năng chịu phèn, thịt cá ngọt và dai, có thể chế biến ra nhiều món ăn ngon, đặc biệt là món chả, nên rất dễ tiêu thụ trên thị trường hiện nay.

Theo anh Thơm, muốn nuôi cá thác lác cườm thành công, phải chuẩn bị ao nuôi khoảng 10 ngày trước khi thả cá giống. Việc chuẩn bị gồm: tát cạn nước, vét bùn, bón vôi (9 kg/100m2), phơi ao (2 ngày), lấy nước vào ao ở mức 2m, diệt khuẩn trong nước (dùng dung dịch Vime– protex với liều 1lít/2.000m3 nước ao), gây màu nước ao (nước phải có màu xanh lá chuối non rồi mới thả cá giống). Cá giống được chọn có kích cỡ 9- 11cm, trên một ao rộng 1.600m2 anh thả 16.000 con.

Việc thay nước phải được làm thường xuyên: tháng đầu thay 1 lần (30% nước), tháng thứ 2 cho đến thu hoạch cứ 15 ngày thay nước 1 lần cũng với 30% nước trong ao. Định kỳ 15 ngày diệt khuẩn trong nước 1 lần bằng dung dịch Vime– protex với liều lượng 1 lít/1.500m3 nước trong ao.

Việc cho cá ăn được anh Thơm quan tâm. Ngày cho cá ăn 2 lần vào sáng sớm và chiều mát (chủ yếu là buổi chiều vì cá có tập tính thích ăn đêm), thức ăn được để trên sàn để có thể kiểm tra mức độ cá ăn mà gia giảm và tiết kiệm thức ăn, giảm ô nhiễm nước ao.

Cá thác lác thích ăn mồi tươi sống, những nơi nguồn thức ăn tươi sống có khó khăn có thể tập cho cá ăn thức ăn công nghiệp theo tỷ lệ 60– 70% cá tươi + 40- 30% thức ăn công nghiệp (chú ý: khi tập cho cá ăn thức ăn công nghiệp nên giảm lượng cá tươi từ từ để tránh cá chưa quen thức ăn sẽ bị đói dẫn đến hao hụt). Sau 5 tháng nuôi có thể thu hoạch.

Với cách nuôi như trên, anh Thơm ước thu hoạch được 1.960kg cá thác lác thương phẩm. Nếu tính giá bán 55.000 đ/kg (giá thương lái đặt mua) anh thu 107,8 triệu đồng (chi 84,304 triệu) thì mức lời chưa cao.

Lý do là anh cho cá ăn thức ăn công nghiệp quá sớm nên mức hao hụt cá giống cao (tỷ lệ cá sống của anh chỉ đạt 47%), mặt khác giá cá giống của anh cao chiếm tới 50% chi phí. Tuy nhiên, nếu biết điều chỉnh những vấn đề trên thì lời nhiều hơn.

Trung Tín – theo KN Đồng Tháp, Báo Vĩnh Long, 15/10/2013

Nuôi ghép cá thát lát còm với cá chép V1

Năm 2013, hộ ông Nguyễn Văn Ái ở ấp Gò Sầm, xã Láng Dài, huyện Đất Đỏ, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu đã được Trung tâm Khuyến nông tỉnh chọn để thực hiện mô hình nuôi ghép cá thát lát còm với cá chép V1 trên diện tích 1.000m2.

Cá giống được đặt mua ở địa chỉ tin cậy, con giống có chất lượng tốt (màu sắc tươi sáng, cá khỏe mạnh, không bị dị dạng, không bị trầy xước, không có dấu hiệu bệnh), kích thước giống 8 – 10 cm. Để khắc phục tình trạng ăn thịt lẫn nhau thì phải thả con giống cá chép V1 có kích cỡ bằng hoặc lớn hơn con giống cá thát lát còm. Mật độ thả: Cá thát lát còm: 10 con/m2; Cá chép V1: 0,5 con/m2. Tổng số cá thát lát còm là 10.000 con và tổng số cá chép V1 là 500 con.

Sau khi thả cá giống từ 12 – 24 giờ, tiến hành cho cá ăn. Thức ăn của cá là cá tạp xay nhuyễn với khẩu phần ăn từ 10% – 12% so với khối lượng cá thả. Hàng ngày cho cá ăn 2 lần (buổi sáng: 7 – 8h; buổi chiều: 17 – 18h). Trong khi cho ăn thường xuyên theo dõi khả năng bắt mồi của cá để điều chỉnh lượng thức ăn cho phù hợp (tránh tình trạng cho ăn thiếu hoặc thừa thức ăn) bằng cách: Thức ăn sau khi xay nhuyễn được vắt cục rồi bỏ vào sàn ăn đã được bố trí ở nơi cố định, có cầu công tác thuận tiện cho việc cho cá ăn.

Theo dõi thời gian cho cá ăn trong khoảng 45 phút, nếu sau 45 phút cá chưa ăn hết lượng thức ăn đã cung cấp thì số thức ăn còn lại là thức ăn thừa và cần điều chỉnh giảm ngay bữa sau; ngược lại trong khoảng 45 phút cá đã ăn hết lượng thức ăn đã cung cấp thì cần tăng lương thức ăn ngay bữa sau, lượng thức ăn tăng trong bữa sau khoảng 5% so với lượng thức ăn cung cấp trong bữa đó.

Phương pháp nuôi ghép cá thát lát còm với cá chép V1 rất hiệu quả, có thể áp dụng ở hầu hết các địa phương trên địa bàn tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu có nguồn nước ngọt chủ động. Hơn nữa, việc nuôi ghép giữa cá thát lát còm với cá chép V1 là giải pháp tăng hiệu quả kinh tế từ việc giảm đáng kể sử dụng một số loại thuốc, hóa chất, vi sinh để phòng – trị bệnh và xử lý môi trường do tận dụng tập tính dinh dưỡng của cá chép và tăng sản lượng (cá chép V1) trên cùng một đơn vị diện tích.

Kết quả, sau thời gian nuôi 7 tháng khi cá thát lát còm đạt kích cỡ 3 con/kg, cá chép V1 đạt kích cỡ 1 kg/con. Theo tính toán của chủ hộ nuôi: so với mô hình nuôi đơn cá thát lát thì ngoài việc thu được lợi nhuận (trên 100 triệu) từ cá thát lát còm ra còn giảm được đáng kể chi phí thuốc, hóa chất, vi sinh phòng trị bệnh và cải thiện môi trường ao nuôi, tăng thêm sản lượng cá chép V1 (tính cho 1.000m2) khoảng 450 kg thì thu nhập tăng thêm trên 40 triệu đồng sau khi đã trừ chi phí con giống, thức ăn.

Đoàn Văn Nam – TTKNKN Bà Rịa Vũng Tàu, Khuyến nông VN, 28/11/2013

Chọn giống cá nàng hai nuôi trong ao

Cá nàng hai còn có một tên gọi khác là cá thát lát cườm. Thịt loài cá nàng hai có mùi thơm, chất lượng thịt ngon, có thể chế biến ra nhiều món ăn cao cấp phục vụ nhu cầu tiêu thụ nội địa và xuất khẩu.

Cá thát lát cườm là loài cá thường sống ở các vùng cửa sông, kênh rạch, ao hồ, đầm, đồng ruộng trũng… cá chịu được môi trường nước có hàm lượng oxy và pH thấp, có thể sống được ở các đầm nước lợ ven biển. Ta có thể thấy ở hầu hết các thuỷ vực đồng bằng sông Cửu Long đều có cá thát lát cườm, nhất là vùng trũng. Đây là loài ăn tạp thiên về động vật, cá có thể ăn côn trùng, giáp xác nhuyễn thể, cá con, phiêu sinh vật, rễ thực vật thủy sinh… Cá thát lát cườm có một số đặc điểm giúp bà con nhận dạng như sau: Cá có thân dài, lưng gù, dẹp bên và càng về phía bụng thì càng mỏng, đường bên liên tục, hai bên hông và bụng có màu trắng. Cá có một hàng trắng đen to tròn có mép trắng chạy dọc theo phía trên gốc vây hậu môn ở phần đuôi.

Khi chọn mua cá, người nuôi nên chọn mua giống chất lượng và ở điểm bán, cung cấp cá giống có uy tín. Chọn cá đồng cỡ và không bị dị tật, bóng mượt và không bị xây xước, đặc biệt là không mang mầm bệnh. Khi nhìn cá tập trung thành từng nhóm, núp trong giá thể, bơi tập trung không rời rạc nghĩa là con cá khoẻ mạnh. Ngược lại thì không nên chọn mua. Nên chọn cá có kích cỡ lớn để nuôi thương phẩm, nhằm hạn chế hao hụt, chọn cá có chiều dài thân 12cm và đã chuuyển đổi tính ăn nhằm dễ thích nghi với môi trường mới. Sau khi đã quan sát đặc điểm và cách cá bơi đạt yêu cầu thì chọn mua.

Trong quá trình vận chuyển cá giống về thả ở ao nuôi, người nuôi nên lưu ý phải thật nhẹ nhàng để tránh việc làm cá bị xây xát, bị stress, vận chuyển cá nên chọn số lượng vừa phải, không nên vận chuyển với mật độ cao. Như vậy sẽ đảm bảo được cho cá có thể khoẻ mạnh và hạn chế việc cá bị nhiễm bệnh sau khi thả. Loài cá này cũng có điểm chung giống như một số loài cá khác đó là khi thả cá, nên chọn thả lúc sáng sớm hoặc chiều mát. Và trước khi thả cá không nên tháo bao vội mà nên ngâm bao đựng cá trong ao từ 15-20 phút đế giúp cho cá có thể tránh khỏi việc bị sốc do thay đối nhiệt độ môi trường và nước ao.

Trần Phượng, Dân Việt, 22/08/2013

Quản lý chăm sóc cá Nàng Hai

Để nâng cao hiệu quả nuôi và thu hoạch cá Nàng Hai, người nuôi có thể tham khảo cách quản lý và chăm sóc theo nội dung sau:

Trước tiên, cần phải có lịch cho cá ăn hằng ngày và phải tuân thủ đúng thời gian cho cá ăn. Thức ăn và liều lượng cho cá ăn cũng như hàm lượng dinh dưỡng trong thức ăn phải phù hợp cho từng giai đoạn phát triển của cá.

Không được sử dụng thức ăn quá hạn sử dụng, thức ăn kém chất lượng, thức ăn bị nấm móc, thức ăn có chứa các kháng sinh và hóa chất cấm sử dụng của Bộ Thủy sản (Bộ NNPTNT). Quyển sổ lập ra ghi chép đầy đủ các chi tiết về: pH, oxy, N-NH3, H2S,…theo dõi tình trạng sức khỏe của cá thông qua các hoạt động bơi lội và bắt mồi của cá.

Trong quá trình nuôi, không may cá mắc bệnh phải xử lý kịp thời làm các xét nghiệm mẫu cá bệnh trước khi chữa trị. Khi trị bệnh cho cá phải áp dụng các kỹ thuật đúng như dùng đúng thuốc, liều lượng hợp lý, thời gian hợp lý,… theo hướng dẫn của cán bộ chuyên môn. Cá bị bệnh phải xử lý triệt để không để lây lan từ ao này sang ao khác.

Cần ghi lại kết quả điều trị cho cá như kết quả xét nghiệm, thời gian điều trị, loại thuốc điều trị, cách điều trị. Về nguồn nước cũng rất quan trọng trong việc nuôi và phát triển cá nuôi. Vì vậy, cần thay nước hằng ngày với lượng nước thay khoảng 20-30% tổng lượng nước ao. Nước thải trước khi cho ra môi trường bên ngoài phải có biện pháp xử lý làm sạch. Luôn duy trì chất lượng nước tốt dựa vào các chỉ tiêu thủy lý, thủy hóa phù hợp với nhu cầu phát triển của cá.

Định kỳ xử lý nước 2 tuần/lần tùy theo chất lượng nước và giai đoạn phát triển của cá. Định kỳ bổ sung vitamin C và khoáng chất cho cá nhằm tăng cường sức đề kháng, giúp cá có đề kháng tốt trong điều kiện môi trường thay đổi và khả năng hạn chế dịch bệnh cao. Người nuôi nên thường xuyên trộn tỏi vào thức ăn với liều lượng 5 -10g/10kg thức ăn viên, sức đề kháng cho cá cũng sẽ được cải thiện rõ rệt.

Thời điểm nuôi và kích cỡ cá thu hoạch phải tùy vào loại và kích cỡ giống thả nuôi mà thời gian thu hoạch khác nhau, cá nuôi 7 tháng đạt 350 – 500g/con. Chi phí thức ăn cho 1kg cá thấp FCR: 1.5 – 1.7

Khi thu hoạch cá lưu ý: Không được thu hoạch cá đang trong thời gian bị bệnh. Ngừng cho cá ăn 1 ngày trước khi thu hoạch. Cần gửi mẫu đến cơ quan chức năng kiểm tra dư lượng thuốc, hoá chất trước khi thu hoạch. Ngừng sử dụng thuốc điều trị bệnh trước khi thu hoạch theo quy định của ngành chức năng.

Trần Phượng, Dân Việt, 12/09/2013

Kỹ thuật nuôi cá còm trong ao đất

Cá còm hay còn gọi là cá nàng hai, đây là loài cá nước ngọt có nhiều ở đồng bằng Nam Bộ. Mùa sinh sản của cá còm trong tự nhiên từ tháng 5 – 7, cá giống có từ tháng 8 và kéo dài đến cuối năm. Người dân thường tận dụng diện tích mặt nước kênh rạch cạnh nhà khi mùa nước nổi tràn đồng để nuôi cá còm trong lồng bè và ao hầm. Tuy nhiên, để nuôi cá đạt năng suất cao, người nuôi cần tuân thủ theo đúng quy trình kỹ thuật.

  1. Chuẩn bị ao nuôi

Diện tích ao nuôi từ 200m2 trở lên, độ sâu mức nước từ. Vị trí ao nên gần nguồn nước để việc cấp thoát nước dễ dàng.

Cải tạo ao: khâu cải tạo ao được tiến hành theo các bước sau:

  • Tát cạn ao, nạo vét bùn đáy, chỉ để lại lớp bùn dày không quá 30cm.
  • Dùng dây thuốc cá diệt cá tạp, cá dữ, lượng dùng 0,5 – 1kg rễ dây thuốc cá cho 100m3 nước.
  • Dùng vôi bột với liều lượng 8-10kg/100m2 rải đều xuống đáy ao, mái bờ để diệt các loài cá tạp còn sót và diệt mầm bệnh. Vùng nhiễm phèn thì bón lượng vôi cao hơn khoảng 50%. Sau khi rải vôi xong phải bừa đáy ao để trộn đều vôi với lớp bùn mặt ao.
  • Bón phân chuồng mục để tạo thức ăn tự nhiên ban đầu cho cá, với liều lượng 10 – 20kg/100m2 ao nuôi. Hoặc bón phân urê 0,5kg/100m2, lân 0,3kg/100m2 hoặc phân hỗn hợp N-P-K 2kg/100m2.
  • Phơi đáy ao 2 – 3 ngày. Đối với ao ở vùng nhiễm phèn thì không nên phơi đáy.
  • Cấp nước vào ao đến mực nước 0,5 – 0,6m thì thả cá giống. Sau đó tiếp tục cấp nước vào ao đến 1 – 1,2 m. Việc cấp nước phải được lọc qua túi lọc để loại bỏ rác bẩn và cá tạp hay địch hại.
  1. Thả cá giống và mật độ thả nuôi 
  • Chọn cá giống khỏe mạnh, bơi lội nhanh nhẹn, không xây xát. Trước khi thả xuống ao, tắm nước muối 2 – 3% cho cá trong 10-15 phút.
  • Mật độ thả: trung bình 5-10 con/m2, cỡ cá thả từ 6 – 8cm. Phải thả cá giống lúc trời mát.
  • Có thể thả ghép trong ao nuôi cá còm một vài loài khác như cá mè trắng, tai tượng, cá mùi hoặc sặc rằn với tỷ lệ không quá 50% tổng số cá nuôi trong ao và cũng không thả những loài cá tranh giành thức ăn với cá còm như rô phi, cá tra.
  1. Thức ăn

Mỗi ngày cho cá ăn 2 – 3 lần theo các công thức sau:

  • Hai tuần đầu: 100 gam thức ăn cho 1.000 cá; trong đó 50 gam cám và 50 gam bột cá nấu chín được trộn đều.
  • Từ 3 tuần trở đi cho 50% thức ăn chế biến (cám + bột cá) và 50% thức ăn tươi sống (cá tạp, tôm, tép…). Chú ý, thức ăn phải tươi, không bị ươn thối, băm nhỏ và rửa sạch trước khi cho ăn; nguyên liệu của thức ăn chế biến không bị mốc, còn thời hạn sử dụng.

Ngoài ra, người nuôi tập cho cá ăn thức ăn công nghiệp loại nhỏ, vừa kích cỡ miệng cá, hàm lượng đạm 25-30%, khi cho ăn tỷ lệ phối hợp thức ăn viên công nghiệp khoảng 30%.

Kiểm tra thức ăn sau khi cá ăn để kịp thời điều chỉnh. Phải rửa sạch sàng trước khi cho cá ăn.

  1. Quản lý ao nuôi

Hàng ngày chú ý kiểm tra bờ ao, kịp thời phát hiện và tu sửa bờ, lưới chắn, lấp hang hốc, đề phòng nước mưa tràn bờ.

Hàng tuần thay nước cho ao, mỗi lần thay 30-50% lượng nước.

Khi nước ao có màu xanh quá đậm, nâu đen hoặc có mùi hôi, phải tiến hành thay nước ao. 

  1. Phòng trị bệnh cho cá 

Cá còm thường bị nhiễm bệnh trong trường hợp nuôi mật độ quá dày, nước ao bị ô nhiễm hoặc do các tác nhân cơ học và cá bị xây xát.

Trong nuôi cá còm thường gặp bệnh nhiễm khuẩn hoặc nhiễm ký sinh trùng một số bệnh: bệnh nhiễm trùng huyết do các loài vi khuẩn Pseudomonas, Aeromonas, Edwardlsiella. Các bệnh ký sinh trùng: bệnh trùng bánh xe (Tricho dina), trùng quả dưa (Ichthiophthyrius), các loài giáp xác ký sinh như trùng mỏ neo (Lernea) và rận cá (Argulus), sán lá đơn chủ 16 móc (Dactylogyrus), sán lá 18 móc (Gyrodactylus) hoặc nhiễm giun tròn (Philometra). 

Để phòng bệnh cho cá, phải cho cá ăn đầy đủ, thức ăn đảm bảo vệ sinh, giữ môi trường nước ao nuôi sạch, đủ ôxy. 

Khi cá bị bệnh, phải thay nước cho ao, đồng thời tắm cho cá bằng thuốc tím (KMnO4) nồng độ 3 – 5‰ trong 20 – 25 phút. 

  1. Thu hoạch 

Cá có tốc độ lớn khá nhanh, sau thời gian nuôi từ 10 – 12 tháng có thể đạt cỡ 700 – 800 gam. Có thể thu hoạch đồng loạt khi được giá hoặc tỉa cá lớn và thả nuôi lại những cá nhỏ chưa đạt kích cỡ.

TTKNQG, 03/06/2013

Các tin có liên quan