Cá rô phi là loài cá dễ nuôi. Rô phi đơn tính (đực) lớn nhanh, sau 4-5 tháng nuôi có thể đạt trọng lượng 0,4-0,6kg/con. Rô phi sử dụng được hầu hết các loại thức ăn tự nhiên, mùn bã hữu cơ trong ao nuôi, rô phi vừa có tác dụng tiêu diệt các loại động vật nhỏ mang mần bệnh vừa có tác dụng làm sạch môi trường và cho sản phẩm có giá trị.
Kỹ thuật nuôi cá rô phi đơn tính
- Chuẩn bị ao nuôi:
Là khâu quan trọng để tạo ra nhiều thức ăn tự nhiên cho cá trong suốt vụ nuôi.
-Đối với ao nuôi luân canh, xen vụ, một vụ tôm-một vụ cá với mật độ 1-2 con/m2 thì việc chuẩn bị ao nuôi trở nên đơn giản, nhưng chú ý đến vấn đề diệt cá tạp, rắn nước. Có thể bón thêm vôi sống được xay trực tiếp từ đá vôi, vỏ sò, ốc … số lượng từ 300-500 kg/ha và phân hữu cơ (phân heo, gà, trâu, bò …) ủ thật hoai, bón lót vào nền đáy ao từ 300-500 kg/ha.
- Đối với các ao nuôi tăng sản, mật độ từ 5-7 con/m2 trở lên, thời gian nuôi
kéo dài, việc chuẩn bị ao cần làm kỹ các khâu dọn bùn dơ, phơi nắng 5-7 ngày, cày xới nền đáy. Lượng vôi và phân bón nhiều hơn so với mật độ nuôi thưa và phải bón bổ sung thêm trong quá trình nuôi.
- Gây màu nước:
Sau khi thu hoạch tôm và công việc bón vôi, phân, diệt tạp đưụơc thực hiện xong, đóng khung lưới lọc cá tạp và cho nước vào 30-40 cm sau 4-5 ngày nước lên màu xanh nhạt, xanh vàng hoặc xanh lá chuối thì tiếp tục cấp nước vào ao đạt mực 1m và chuẩn bị thả cá giống.
Nuôi cá rô phi trong ao, đìa nuôi tôm cần chú ý:
-Nên tận dụng lại các nguồn nước thải ra từ các ao nuôi tôm vì nguồn nước này chứa nhiều loại tảo là nguồn thức ăn tự nhiên dồi dào cho cá rô phi.
-Có thể nuôi cá rô phi trong ao nước ngọt hoặc ao ương 1-2 tháng với mật độ dày (15-20 con/m2) vào thời điểm tháng 6,7. Đến khi thu tôm (tháng 9,10) chuyển số cá này sang ao nuôi tôm, cá sẽ lớn nhanh, rút ngắn được thời gian nuôi.
- Cá giống:
Cá giống đạt các tiêu chuẩn :
– Hình dạng cân đối, không dị hình, không xây xát.
– Màu sắc tươi sáng, bơi lội nhanh.
Khi thả cá ta phải để bao, túi chứa cá xuống ao từ 15-20 phút, sau đó đổ cá ra các thau, chậu để thuần dưỡng mặn. Thêm nước mặn từ từ vào thau, chậu để tăng dần sau 1 giờ tăng lên 2-3‰ (độ mặn) và tăng dần đến khi bằng độ mặn của nước ao.
– Nên thả cá giống vào buổi sáng hoặc chiều mát. Tránh thả cá vào buổi trưa
hoặc trời nắng gay gắt, cá giống vừa phải chống chịu với nhiệt độ cao vừa phải thích nghi với độ mặn làm cho các bị và hao hụt sau khi mới thả.
Đối với ao đìa có độ mặn từ 15‰ trở xuống thì không cần phải thuần dưỡng mà có thể thả cá giống trực tiếp xuống.
- Mật độ nuôi:
Khi mới thả cá giống có trọng lượng 0,5-1 gam/con tương đương với 1000-2000 con/kg. Cá giống có thể thả nuôi trong ao nhỏ với mật độ 15-20 con/m2, sau một tháng chuyển sang ao lớn hơn, giảm mật độ xuống còn 7-10 con/m2 và sau 2 tháng có thể chuyển sang ao có mật độ nuôi phù hợp 2-3 con/m2.
– Trong điều kiện bình thường nuôi luân canh một vụ tôm, một vụ cá có thể nuôi ở mật độ 2-3 con/m2.
-Trong điều kiện chăm sóc quản lý tốt và quản lý tốt có thể nuôi ở mật độ 3-5 con/m2 .
– Trong nuôi tăng sản, có máy quạt nước có thể nuôi ở mật độ 5-10 con/m2
- Cho cá ăn:
Sử dụng thức ăn tự chế biến gồm các thành phần:
- Cá tạp, cá vụn, cua, ghẹ nhỏ hoặc các chế phẩm từ các lò mổ gia súc: 40-50%
- Bột bắp, bột mì, bột khoai lang, bột gạo: 20-30%
– Cám gạo: 10-20%
- Bã đậu nành, đậu phộng: 10-20%
- Cách chế biến : Các thành phần trên được nấu chín, trộn với cám gạo, xay đùn ra sợi, phơi ráo và cho ăn hết trong ngày.
- Cho ăn : 02 lần mỗi ngày:
- Sáng vào lúc 5-6 giờ và
- Chiều vào lúc 17-18 giờ.
- Lượng thức ăn :
- Tháng đầu : lượng thức ăn trong tháng bằng 3-5% trọng lượng đàn cá.
- Tháng thứ 2 : lượng thức ăn trong ngày bằng 2-3% trọng lượng đàn cá.
- Tháng thứ 3 trở đi : lượng thức ăn trong ngày bằng 0,5-1% trọng lượng cá.
- Trong nuôi cá rô phi cần chú ý kết hợp cho ăn với việc bón phân hữu cơ sẽ gia tăng năng suất cá nuôi.
- Để tạo thức ăn tự nhiên phong phú có thể bón phân hữu cơ (thường là phân heo, gà, vịt, trâu, bò …) và phân vô cơ (Urê, N.P.K…) hai loại phần này được dùng kết hợp hoặc riêng lẻ tuỳ điều kiện màu mỡ của từng ao nuôi.
Ví dụ : Cho ăn kết hợp bón phân gà (đã ủ hoai) ở mức độ 5kg phân khô/ha/ngày và bón 5ngày/tuần sẽ cho kết quả tốt.
Việc tạo ra thức ăn tự nhiên tốt (màu nước đậm, mật độ tảo dày) hoặc những ao đìa giàu dinh dưỡng được xem là biện pháp hữu hiệu nhất để tăng năng suất cá nuôi trong ao, đìa.
- Chăm sóc quản lý:
Hàng ngày quan sát rò rỉ xung quanh bờ ao, khung lưới cống và hoạt động của cá.
- Nếu thấy cá nuôi nổi đầu từ lúc sáng sớm thì phải cung cấp thêm nước.
– Định kỳ 10-15 ngày kiểm tra cá bằng chài, cân đong tự tăng trưởng của cá để điều chỉnh lượng thức ăn của cá hàng ngày.
- Thu hoạch:
Sau khi nuôi 5-6 tháng, cá đạt trọng lượng 0,5-0,6 kg/con, có thể thu hoạch cá thịt, có hai cách thu.
– Thu tỉa : tháo nước ao cạn ở mức nước 40-50cm, kéo lưới thu tỉa cá lớn.
– Thu sạch : kéo lưới bắt nhiều lần sau đó bơm cạn bắt hết số cá còn lại.
Kết luận: Cá rô phi dễ nuôi, có khả năng thích nghi tốt với sự biến đổi của môi trường. Chúng ăn các loại tảo, động vật nhỏ, mùn bã hữu cơ làm sạch môi trường trong ao nuôi.
Nuôi cá rô phi đơn tính trong ao nuôi tôm vụ đông xuân vừa tạo ra thu nhập cho người nuôi tôm, đồng thời tạo sản phẩm ý nghĩ cho xã hội, đó là nguồn đạm tươi sống cung ứng cho thị trường trong nước và xuất khẩu.
Tạp chí thuỷ sản
Đặc điểm sinh học sinh thái của cá rô phi
- Phân loại:
Dựa vào đặc điểm sinh sản, người ta chia cá rô phi thành 3 giống:
- Tilapia (cá đẻ cần giá thể)
- Sarotherodon (Cá bố hay cá mẹ ấp trứng trong miệng)
- Cá rô và Oreochromis (Cá mẹ ấp trứng trong miệng)
Cá rô phi hiện đang nuôi phổ biến ở Việt Nam thuộc:
Bộ cá vược – PerciForms
Họ – Cichlidae
Giống – Oreochromis
Loài – Cá rô phi vằn O.niloticus.
Hiện nay có 3 loài chính được phổ biến tại Việt Nam là :
- Cá rô phi cỏ Oreochromis Mossambicus, được nhập vào Việt Nam năm 1953 từ Thái Lan.
- Cá rô phi văn (Rô phi Đài Loan O.niloticus) được nhập vào Việt Nam năm 1974 từ Đài Loan.
- Cá rô phi đỏ (red Tilapia), có màu hồng được nhập vào Việt Nam năm 1985 từ Maliaxia.
- Đặc điểm hình thái:
Cá rô có thân hình màu hơi tím, vảy sáng bóng, có 9-12 sọc đậm song song nhau từ lưng xuống bụng. Vi đuôi có màu sọc đen sậm song song từ phía trên xuống phía dưới và phân bổ khắp vi đuôi. Vi lưng có những sóc trắng chạy song song trên nền xám đen. Viền vi lưng và vi đuôi có màu hồng nhạt.
Phân biệt cá đực, cá cái:
ĐẶC ĐIỂM PHÂN BIỆT |
CÁ ĐỰC | CÁ CÁI |
Đầu | To và nhô cao | Nhỏ, hàm dưới trề do ngậm trứng và con |
Màu sắc |
Vi lưng và vi đuôi sặc sỡ | Màu nhạt hơn |
Lỗ niệu sinh dục |
2 lỗ: lỗ niệu sinh dục và lỗ hậu môn | 3 lỗ: lỗ niệu. lỗ sinh dục và lỗ hậu môn. |
- Môi trường sống: Các loài cá rô phi hiện đang nuôi có đặc điểm sinh thái gần giống nhau.
Nhiệt độ:
Nhiệt độ cần thiết cho sự phát triển của cá rô phi từ 20-32oC, thích hợp nhất là 25-32oC. khả năng chịu đựng với biến đổi nhiệt độ cũng rất cao từ 8-42oC, cá chết rét ở 5,5oC và bắt đầu chết nóng ở 42oC. Nhiệt độ càng thấp thì cá càng giảm ăn, ức chế sự tăng trưởng và tăng rủi ro nhiễm bệnh.
Độ mặn:
Cá rô phi là loài rộng muối, có khả năng sống được trong môi trường nước sông, suối, đập tràn, hồ ao nước ngọt, nước lợ và nước mặn có độ muối từ 0-40‰.
Trong môi trường nước lợ (độ mặn 10-25‰) cá tăng trưởng nhanh, mình dày, thịt thơm ngon.
pH:
Môi trường có độ HP từ 6,5-8,5 thích hợp cho cá rô phi, nhưng cá có thể chịu đựng trong môi trường nước có độ PH thấp bằng 4.
Oxy hoà tan:
Cá rô phi có thể sống được trong ao, đìa có màu nước đậm, mật độ tảo dày, có hàm lượng chất hữu cơ cao, thiếu Oxy. Yêu cầu hàm lượng oxy hoà tan trong nước của cá rô phi ở mức thấp hơn 5-10 lần so với tôm sú.
- Đặc điểm về dinh dưỡng và sinh trưởng.
Tập tính ăn:
Khi còn nhỏ, cá rô phi ăn dinh vật phù du (tảo và động vật nhỏ ) là chủ yếu ( cá 20 ngày tuổi , kích thước khoảng 18mm). Khi cá trưởng thành ăn mùn bả hữu cơ lẫn các tảo lắng ở đáy ao, ăn ấu trùng, côn trùng, thực vật thuỷ sinh. Tuy nhiên trong nuôi công nghiệp cá cũng ăn các loại thức ăn chế biến từ cá tạp, cua, ghẹ, ốc, bột cá khô, bột bắp, bột khoai mì, khoai lang, bột lúa, cám mịn, bã đậu nành, bã đậu phộng.Trong thiên nhiên cá thường ăn từ tầng đáy có mức sâu từ 1-2m.
Sinh trưởng:
– Khi nuôi trong ao, cá sử dụng thức ăn tự nhiên sẵn có kết hợp với thức ăn chế biến, cá rô phi vằn đơn tính lớn nhanh từ tháng đầu đến tháng thứ 5-6.
Tạp chí thuỷ sản
Sản xuất giống cá rô phi
Cho đẻ trong ao
- Ao có diện tích từ 500-1.000m2, nền đáy ao là cát pha sét để cá dễ làm tổ. Nếu là ao cũ phải dọn sạch ao, dùng vôi tẩy ao để đảm bảo cá không bị bệnh.
- Đối với các tỉnh ở phía Nam, cá rô phi hầu như đẻ quanh năm. Ở các tỉnh phía Bắc, vào mùa xuân từ tháng 4 là mùa cá rô phi bắt đầu đẻ. Sau khi nuôi cá qua đông, tuyển chọn cá khỏe, không bị xây sát vây, vẩy, cỡ từ 300-500g/con trở lên làm cá bố mẹ, tỷ lệ cá đực và cá cái là 1 đực/1 cái hoặc 1 đực/2 cái, thả với mật độ 1,5-2con/m2. Thời gian nuôi vỗ 15-20 ngày. Trong thời gian nuôi vỗ, dùng thức ăn gồm:
- Cám + tấm (nấu chín) + bột cá theo tỷ lệ 20% bột cá + 75% cám + 5% tấm. Ngày cho cá ăn 1-2 lần. Lượng thức ăn trong ngày bằng 1-2% khối lượng cá nuôi.
- Nếu ở nhiệt độ thích hợp 24-32oC, sau 10-15 ngày kể từ khi thả cá bố mẹ vào ao, cá sẽ đẻ. Sau khi cá đẻ 15-17 ngày tiến hành thu cá bột. Cá bột được thu theo cách như sau:
- Dùng lưới mắt thưa 2a = 10-12 cm kéo dồn cá bố mẹ vào một góc, bắt cá bố mẹ ra khỏi ao cá đẻ, chuyển sang ao khác nuôi vỗ để cho đẻ lứa tiếp theo và dùng chính ao cho đẻ để ương cá bột. Dùng vợt vớt cá bột, để lại cá bố mẹ ở ao cho đẻ tiếp lứa sau.
Tuy nhiên cho cá rô phi đẻ tiếp lứa sau có những hạn chế:
- Việc bắt cá rô phi mẹ ra khỏi ao cho đẻ gây ảnh hưởng đến cá bột trong ao. Bắt cá bột ra khỏi ao để lựa cá bố mẹ trong ao sẽ không thể thu được triệt để cá bột.
- Vì thế hiện nay đang áp dụng phổ biến phương pháp cho cá rô phi đẻ tự nhiên trong giai chứa và ấp trứng cá trong bình vây hay trong khay. Đây là kỹ thuật sản xuất giống tiên tiến để thu được lượng cá bột đồng cỡ, cùng lứa tuổi, lại có thể phục vụ cho việc chuyển giới tính cá.
Cho cá rô phi đẻ trong giai
- Giai dùng cho cá rô phi đẻ được cấu tạo bằng sợi lưới cước mắt mau, hình khối chữ nhật có 4 mặt và một đáy dưới kích thước 8x5x1,5m, mắt lưới 1mm. Đặt giai trong ao hồ nơi nước trong sạch và đặt ngập nước 1m cách đáy ao, hồ từ 0,3-0,5m
- Vào đầu tháng 4 khi nhiệt độ tăng lên 24-26oC là thời điểm thích hợp cho cá rô phi đẻ và ấp trứng.
- Chọn cá khỏe không bị xây sát vây, vẩy. Khối lượng từ 300-500g/con. Cá cái bụng to đều, cá đực có vây đuôi, vây lưng, vây bụng, màu sặc sỡ; tỷ lệ đực cái là 1/1 hoặc 1/2 thả vào giai. Mật độ 3-7 con/m2
- Trong quá trình nuôi cá bố mẹ trong giai, cho cá ăn thức ăn gồm cám+tấm nấu chín trộn đều với bột cá theo tỷ lệ 20% bột cá +75% cám +5% tấm hoặc thức ăn viên có hàm lượng Prôtêin 25-30%. Cho ăn 1-2 lần/ngày. Khẩu phần ăn 1-2 % khối lượng cá nuôi.
- Sau khi thả được 5-7 ngày, kiểm tra trứng từ miệng cá cái để phát hiện cá đẻ và thu trứng ấp đi. Chu kỳ giữa 2 lần thu trứng khoảng 5 ngày nếu nhiệt độ 26-30oC. Trứng được cho vào khay hoặc bình vây để ấp. Sau khi cá bột tiêu hết noãn hoàng thì đem đi ương.
Theo tài liệu Viện Nghiên cứu NTTS I, NNVN, 4/5/2004
Biện pháp kỹ thuật kích thích cá rô phi, điêu hồng đẻ
Cá rô phi, điêu hồng là loài cá nhập nội, có đặc tính mắn đẻ, chu kỳ đẻ khoảng 25-30 ngày, mỗi năm đẻ từ 9-11 lứa, mỗi con cá cái có thể đẻ từ vài trăm đến cả ngàn con cá bột. Để tạo ra nguồn giống cung ứng cho người nuôi cá thịt, hiện nay tại Tiền Giang có nhiều hộ quan tâm nuôi đẻ đối tượng thủy sản này vì nguồn lợi không nhỏ, ít công chăm sóc, chi phí bỏ ra ít, lấy lại vốn nhanh.
Để kích thích cá rô phi, điêu hồng đẻ thì người nuôi cần chú ý các biện pháp kỹ thuật sau:
Diện tích ao nuôi để cá đẻ tốt nhất là 2.000-3.000m2, dùng bạt lót quanh bờ nhằm tránh thất thoát nước, sau đó dùng lưới ngăn ô, mỗi ô có chiều ngang 7-10 m, chiều dài 30- 40m, để thuận lợi cho việc kéo cá bột. Mực nước ao cá đẻ từ 0,8-1,0m. Vào tháng 11-12 dương lịch hàng năm, tiến hành bơm cạn, vét bùn, bón vôi 30kg/1.000m2, phơi ao 3-5 ngày rồi cấp nước vào ao để thả cá bố mẹ.
Ao nuôi cá bố mẹ
Nên chọn cá bố mẹ cỡ 6 tháng tuổi trở lên, trọng lượng từ 100-150g/con. Mật độ nuôi đẻ 0,5 con/m2. Tỉ lệ cá đực: cái là 1:4. Sau thời gian cá đẻ 2 năm cần bán loại thải đàn cá này, thay đàn cá mới để cá đẻ tốt hơn. Nên chọn cá bố mẹ riêng, không chung đàn, nhằm tránh đồng huyết.
Trong 2 tháng đầu, cho cá bố mẹ ăn thức ăn viên loại 22-25% đạ. Sau khi cá bắt đầu đẻ, giảm xuống còn 18-22% đạm. Khẩu phần cho ăn hàng ngày khoảng 1- 2% tổng trọng lượng đàn cá bố mẹ.
Sau khi nuôi vỗ khoảng 1-2 tháng, cá bắt đầu đẻ. Trong chu kỳ cá đẻ, để kích thích cá đẻ tốt, hàng tuần nên cho cá ăn thêm rau xanh như bèo 1 lần, với liều lượng 6- 8% trọng lượng đàn cá; bổ sung vitamin A, D, E vào thức ăn; khoảng 1 tuần cấp thêm 10-15cm nước mới.
Vào mùa sinh sản, cứ khoảng 3- 4 ngày kéo cá bột 1 lần. Thao tác kéo thường là 2 người kéo bằng lưới loại 1-2mm, kéo theo chiều dài ao, đến góc ao thì dùng vợt vớt bỏ vào thau, đổ vào vèo rồi sau đó đem đi tiêu thụ.
Sau 1 thời gian đẻ, có hiện tượng cá đẻ rất ít hoặc ngưng đẻ, đồng thời trong ao xuất hiện cá tạp như lòng tong, cá con vớt xót. Muốn cá đẻ tốt trở lại, người nuôi nên cải tạo ao thay nước mới, cụ thể: bơm cạn nước, vét bùn, bón vôi, rồi cho nước mới vào ao, sau đó thả cá bố mẹ vào. Sau 3-5 ngày cá đẻ lại; sau 5-7 ngày, người nuôi kéo cá bột trở lại.
Thời gian đẻ kết thúc vào đầu mùa lũ năm sau (khoảng tháng 9 dương lịch), sau thời gian đó nên gom cá lại nuôi mật độ 3 con/m2 để cá ngưng đẻ, vì mùa lũ không tiêu thụ được cá bột.
Ks. Đặng Tấn Bá – Trạm Khuyến nông thị xã Cai Lậy, Tiền Giang – Khuyến nông VN, 21/11/2018
Kỹ thuật sản xuất giống cá rô phi đơn tính đực
Các loài cá rô phi (Oreochromis sp.) đều thành thục và sinh sản rất sớm (5-7 tháng tuổi). Chúng lại có khả năng sinh sản nhiều đợt trong năm với điều kiện bình thường của ao nuôi. Đặc tính đó đã dẫn đến kích cỡ cá thịt khi thu hoạch không đồng đều do ta không khống chế được mật độ quần đàn, vì vậy hiệu quả kinh tế thấp.
Một trong những biện pháp khắc phục tình trạng trên là tạo cho được đàn giống cá rô phi nuôi gần như toàn con đực (trên 95%), bằng hormone tính đực Methyltestosteron (viết tắt: MT).
Vấn đề này trên thế giới đã thực hiện thành công từ năm 1990. Năm 1995, Viện nghiên cứu nuôi trồng thủy sản I (Đình Bảng, Hà Bắc) đã nhập công nghệ và sản xuất thành công nửa triệu cá rô phi giống đơn tính đực ở giai đoạn cá hương, đạt chỉ tiêu quy trình kỹ thuật. Từ đó, đã mở ra một thời kỳ mới cho công nghệ nuôi cá rô phi thương phẩm phát triển ở nước ta.
Nuôi vỗ cá bố mẹ
- Tuổi cá 1-2 năm, khối lượng 100-150g trở lên.
- Tỷ lệ đực cái: 1/2-1/3. Cá cái có 3 lỗ ở bụng, cá đực 2 lỗ.
- Dụng cụ: Giai có mặt lưới cỡ 1mm, đặt trong ao. Một giai nhốt cá đực, 2-3 giai nhốt cá cái.
- Cũng có thể nuôi vỗ cá bố mẹ trong các ao, bể xây cỡ nhỏ và nhớ nuôi riêng đực, cái.
- Mật độ nuôi: 5-6 con/m2 mặt nước.
- Thức ăn: loại tổng hợp có hàm lượng đạm 30-32%. Khẩu phần 2-2,5% khối lượng cá mỗi ngày.
- Có thể bón thêm phân vô cơ để gây nguồn thức ăn tự nhiên là sinh vật phù du, với liều lượng 40g đạm + 20g lân cho 100m2 ao trong mỗi tuần lễ.
Cho cá đẻ
- Dụng cụ: Giai sinh sản cắm trong ao theo từng cụm 3 cái một, mực nước sâu 0,8m. Nên làm 12 giai (4 cụm) cho một đợt sinh sản để thu được trứng thụ tinh tập trung. Giai sinh sản có kích cỡ 2,7m x 4,2m x 1m (sâu), cỡ mặt lưới 1mm. Các giai cũng có thể để trong bể xi măng, có nguồn nước lưu thông nhẹ.
- Chọn cá: Theo nhóm 6 cái + 3 đực. Mỗi nhóm cho vào 1 giải.
Thu trứng
- Cứ 5-7 ngày thu trứng một lần từ miệng cá. Vì cá rô phi ngậm trứng đã thụ tinh trong miệng và ấp ở đó.
- Dụng cụ: Vợt 2 lớp lưới, lớp lưới có mặt dưới dày như vợt vớt cá bột, lớp trên thưa có mặt lưới 2cm. Đáy lưới lớp dưới thấp hơn đáy trên 8-10cm, để khi vợt bắt cá, cá quẫy không làm hỏng trứng (được đựng ở đáy dưới lưới).
- Cách thu: Một người dùng 1 tay cầm vợt vớt cá, tay kia đi găng bằng vải, giữ và bóp nhẹ miệng cá để cá nhả trứng ra. Người khác dùng bát nhựa sạch, đựng một ít nước để hứng trứng.
Trứng được phân ra 4 nhóm: Nhóm chưa rõ mắt phôi; Nhóm đã rõ mắt đen; Nhóm sắp nở; Nhóm đã nở. Sau đó cho ấp theo các nhóm trong cùng giai đoạn. Cá bố mẹ đã lấy trứng, thả về nuôi vỗ đực, cái riêng, sau 3 tuần, lại cho sinh sản tiếp.
Ấp trứng
- Dụng cụ: Khay men hoặc nhựa, tôn. Mật độ ấp 3-5 trứng/cm2. Bình thủy tinh hoặc nhựa trong, hình trụ, thể tích 6 lít, ấp 2,2 kg trứng là vừa.
- Điều kiện môi trường: Có dòng nước chảy nhẹ qua ống dẫn từ trên xuống đáy bình, không cho nước phun từ đáy bình lên. Nhiệt độ nước 27-30oC; 4-5 ngày cá sẽ nở.
Chuyển giới tính cá bột
- Điều kiện: Khi cá bột đã bơi ngang được và bắt đầu biết ăn thì chuyển vào giai đoạn nuôi, cho ăn bằng thức ăn có trộn hormone tính đực để chuyển giới tính.
- Dụng cụ: Giai ương cá bột có kích cỡ 3m x 2m x 1m (cao), mặt lưới cỡ 1mm.
- Mật độ ương: 10-12 con/lít.
- Bón lót phân vô cơ: 0,6kg đạm + 0,7 kg lân cho 100m2 mặt giai trong một tuần.
- Dùng 50 microgam hormone tính đực trong 1 kg thức ăn cho 100m2 giai.
Cách pha chế:
- Lấy 1g MT cho hòa tan trong 1 lít ethnol 95o.
- Dùng bột cá nhạt (không bỏ muối khi chế biến) hoặc thức ăn tổng hợp có 35% đạm, nghiền mịn, sàng qua mặt lưới cỡ 0,85mm (2).
- Lấy 925g thức ăn (2) đó, cho thêm 14g Prelmix, 1g Vitamin C (hoặc axit ascobic) trộn đều (3).
- Lấy từ dung dịch (1), cho tiếp vào 940ml ethanol, rồi dùng dung dịch mới này hòa lẫn với thức ăn (3) đã sàng kỹ. Quấy đều trong 20 phút cho bay hết hơi ethanol, để khô hẳn rồi sàng lại (4).
- Cho thêm 1,4g Tetramicin, 30ml dầu thực vật và 30g dầu gan cá vào thức ăn (4). Trộn đều trong 10 phút. Cho vào túi ni lông, bảo quản lạnh cho cá ăn dần.
Cho cá ăn:
- Khẩu phần: 5 ngày đầu, mỗi ngày cho lượng thức ăn bằng 25% khối lượng cá; 5 ngày tiếp, bằng 20%; 5 ngày sau nữa, bằng 15%. Và 4 ngày cuối cùng, cho ăn bằng 10% khối lượng cá.
- Cách cho ăn: 4-5 lần mỗi ngày. Vãi đều trong giai nhốt cá.
Ương cá bột đã xử lý MT
- Ao ương: Tẩy vôi và diệt khuẩn, trừ chua, diệt tạp và bón lót phân cho ao ương như khi ương các loại cá khác.
- Mật độ: 150-160 con/m2 ao. Nếu ương bằng giai, mật độ 1000 con/m2. Giai cũng đặt trong ao.
- Thức ăn: Giống như các loài cá bình thường khác.
- Chăm sóc: Thường xuyên vệ sinh giai để khỏi bí nước lưu thông trong và ngoài giai (nếu ương trong giai).
- Nếu ương trực tiếp vào ao phải bảo vệ, diệt các loại địch hại ăn cá bột (rắn, ếch, nhái…).
Kiểm tra kết quả chuyển giới tính
Khi cá đã đạt cỡ 2-3 g/con, lấy 100-200 con ngẫu nhiên để xác định giới tính cá cái dưới bụng có 3 lỗ, cá đực có 2 lỗ. Nếu cá đực chiếm 95% trở lên là được.
Đến lúc cá đạt cỡ chiều dài 4-7cm, dùng làm cá giống để thả vào các ao, đầm nuôi thành cá thịt.
KS Trần Trọng Thương, Webbinhthuan
Phân biệt cá rô phi Đường Nghiệp và cá rô phi dòng Gift
Bản chất, rô phi Đường nghiệp là thế hệ F1 của 2 loài Oreochromis aureaus và Oreochromis niloticus và có khả năng phân tính đực cái.
Sản xuất giống rô phi Đường nghiệp xuất hiện đầu tiên ở Phillipine, sau đó công nghệ được chuyển giao sang Trung Quốc. Dòng rô phi này mới được đưa về nuôi và sản xuất giống ở Việt Nam.
Về hình thể dòng cá rô phi Đường nghiệp: Mình ngắn, đầu nhỏ, lưng cao; mắt lồi và sếch, mõm gẫy, mồm vểnh ngược lên.
Khi còn nhỏ khó nhận biết với dòng GIFT.
Rô phi đơn tính dòng Đường nghiệp có tốc độ tăng trưởng trung bình cao khoảng 1-1.4 kg/con/6 tháng, gấp 1,4 – 1,6 lần dòng GIFT vẫn được nuôi trên địa bàn, năng suất đạt 20 – 20,7 tấn/ha. Hệ số thức ăn dao động 1.2-1.4. Cá có thời gian nuôi ngắn, ít bị phân đàn, thuận lợi cho quá trình chăn sóc, quản lý và thu hoạch. Cá nhiều thịt, thơm ngon, ít xương răm, kích thước lớn nên rất được ưu chuộng. Nguồn giống cá rô phi đơn tính Đường nghiệp, những vấn đề nuôi, quản lý chất lượng nước, phòng trị bệnh có thể liên hệ trực tiếp với Bộ môn Môi trường và Bệnh Thủy sản, Khoa Thủy sản, Học viện Nông nghiệp Việt Nam, số 56 Ngô Xuân Quảng, Trâu Quỳ, Gia Lâm, Hà Nội.

Hình trên: Cá rô phi đơn tính Đường nghiệp (Nguồn: Học viện Nông nghiệp Việt Nam)

Nuôi cá rô phi trong đầm nước lợ
Cá rô phi có thể sinh trưởng và phát triển ở nước có độ mặn tới 25 – 32 phần nghìn, song độ mặn thích hợp nhất cho cá rô phi phát triển là 5 – 10 phần nghìn. Do vậy việc nuôi cá rô phi nước lợ, nhất là nuôi gối vụ (1 vụ tôm sú + 1 vụ cá rô phi) đang phát triển mạnh.
Chuẩn bị đầm nuôi cá
Diện tích đầm từ 0,5 – 1 ha. Mức nước sâu 1,2 – 1,5 m. Sau vụ nuôi tôm cải tạo ao đầm bằng cách: làm cạn nước, bốc vét bùn, tu bổ lại bờ, cống, đăng và dùng vôi cải tạo đầm với lượng 15 – 20 kg vôi/100 m2: Dùng phân chuồng bón lót để gây màu nước, tạo thức ăn ban đầu cho cá. Lượng phân bón 50 – 60 kg/100 m2. Sau khi bón lót 3 – 5 ngày, kiểm tra lại môi trường nếu đạt các chỉ tiêu pH 7 – 9, độ mặn < 10 phần nghìn, ô xy hòa tan > 4 mg/l thì tiến hành thả cá nuôi.
Chất lượng cá giống và thả cá giống
Cá giống phải không dị hình, vây vẩy hoàn chỉnh, không bị sây sát, không mất nhớt, cỡ cá đồng đều. Cá hoạt bát, nhanh nhẹn, bơi chìm và bơi theo đàn, không bị nhiễm bệnh. Cá rô phi trước khi thả nuôi đầm nước lợ cần được thuần hóa trong môi trường nước mặn. Mật độ nuôi 3 – 8 con/m2.
Quản lý chăm sóc
Dùng thức ăn công nghiệp để nuôi cá rô phi, đồng thời tận dụng nguồn thức ăn sẵn có trong ao đầm. Lượng cho cá ăn 3 – 7% khối lượng cá nuôi. Trong quá trình nuôi, đặc biệt chú ý đến độ mặn của nước, nếu vượt quá 10 phần nghìn cần có nước ngọt để điều tiết pha trộn độ mặn. Trong những ngày nắng, nhiệt độ tăng cao sẽ kéo theo sự thay đổi độ mặn do vậy cần chú ý điều tiết nhiệt độ.
Khi nuôi được 4 – 6 tháng, cá đạt tiêu chuẩn thương phẩm thì thu hoạch. Thu hoạch cá xong chuẩn bị ao đầm để nuôi tôm. Nuôi cá rô phi trong đầm nuôi tôm có tác dụng tốt trong việc cải tạo môi trường làm hạn chế dịch bệnh đối với tôm.
KS. NGUYỄN THU HẰNG, Hội nghề cá Việt Nam, Nhan dan, 30-12-2003
Kỹ thuật nuôi cá rô phi năng suất cao
1/ Yêu cầu kỹ thuật xây dựng ao nuôi
Diện tích ao nuôi từ vài trăm m2 đến 1 ha, thích hợp là từ 1.000 đến 5.000m2.
Ðộ sâu hợp lí từ 1,5 2m.
Ðộ dày bùn đáy 15 20cm.
Nguồn nước cấp cho ao phải chủ động, chất nước không nhiễm bẩn, không có chất độc, hàm lượng ôxy hòa tan 3mg/l, pH : 6,5 8.
Bờ ao phải chắc chắn, không cớm rợp, không bị rò rỉ, đáy ao nghiêng về cống thoát một góc 3-5o.
Hệ thống cấp thoát nước chủ động.
2/ Chuẩn bị ao nuôi
Tiến hành tháo cạn nước, củng cố lại bờ ao, lấp chỗ rò rỉ, điều chỉnh lớp bùn đáy, tu bổ bờ và cống thoát.
Tiến hành tẩy trùng ao : Dùng vôi bột với liều lượng 7-15kg/100m2.
Tiến hành bón lót, gây màu :
- Phân chuồng ủ kĩ với 2% vôi bột. Lượng bón : 30-50kg/100m2 ao, rải đều khắp đáy ao.
- Phân xanh (lá mui, lá lạc, lá đậu tương, lá cây hoa trắng) : 30-50kg/100m2 ao, bó thành bó cho xuống ao, khi nào thấy lá rữa hết thì vớt các cọng cứng lên.
Tháo nước vào ao : Nước lấy vào ao phải được lọc kĩ qua lưới lọc.
- Nước sau khi lấy vào ao ngâm từ 5-7 ngày rồi tiến hành thả cá.
3/ Thả cá giống
Thời vụ thả giống :
- Vụ xuân : tháng 2-3 (dương lịch).
- Vụ thu : tháng 7-8 (dương lịch).
Ðối tượng cá giống thả : Cá rô phi đơn tính đực.
Tiêu chuẩn giống thả : Cá giống thả phải khỏe mạnh, không bị bệnh, không bị dị hình, vây vẩy nguyên vẹn, phát triển cân đối, không sây sát trước khi thả xuống ao.
Cỡ cá giống thả : Ðối với cá giống lưu của năm trước : cỡ 20 25g/con; đối với cá giống trong năm: cỡ 5-10g/con.
Phương pháp thả giống : Ðối với giống được vận chuyển bằng bao bơm ôxy : để nguyên cả bao cá thả xuống ao, quay đảo đều bao từ 5-10 phút, mở bao cho thêm nước vào rồi thả cá từ từ ra ao.
Mật độ thả : 2-3 con/m2.
4/ Chăm sóc quản lí
Bón phân gây màu (tạo thức ăn tự nhiên cho cá).
- Phân chuồng ủ kĩ với 2 % vôi bột bón 20-30 kg/100m2/tuần.
- Phân xanh: 20-25kg/100m2/tuần.
- Phân vô cơ: Bón bổ sung có tác dụng gây màu nước nhanh, sử dụng khi ao chậm lên màu.
- Lượng: 0,4kg đạm + 0,2kg lân/100m2.
- Cách bón: Hòa tan đều phân vô cơ với nước sau đó tạt đều lên mặt ao, bón vào buổi sáng ngày có nắng.
Thức ăn tinh:
- Bao gồm cám gạo, cám ngô, khoai, sắn, bột cá, bột đậu tương, bã đậu, phụ phẩm nông nghiệp….
- Thức ăn tinh cần được nấu chín, đặc, trước khi cho cá ăn. Rải thức ăn vào sàn ăn hoặc những vùng đáy ao sạch. Nên cho ăn tập trung tại những vị trí cố định trong ao. Nếu không có điều kiện nấu chín dùng khoảng 15% bột mỳ làm chất kết dính, trộn đều, cho nước vừa ướt và nắm thành từng năm cho cá ăn.
Thức ăn xanh : các loại rau, bèo, cỏ, rong…
Ðể nuôi cá đạt năng suất và hiệu quả cao, cần cho ăn theo một số công thức sau:
Công thức |
Nguyên liệu |
||||
Cám gạo |
Bột cá |
Bột đậu tương |
Bột ngô |
Vitamin |
|
I |
77 |
23 |
0 |
0 |
0 |
II |
70 |
0 |
30 |
0 |
0 |
III |
49 |
15 |
10 |
25 |
1 |
- Ðể giảm bớt chi phí thức ăn chúng ta nên áp dụng mô hình nuôi cá trong hệ VAC, tận dụng chất thải của chuồng và phụ phẩm của vườn.
- Khẩu phần thức ăn :
- Giai đoạn đầu cho ăn 5-7% trọng lượng thân cá.
- Giai đoạn sau (cá >100g/con) : cho ăn 2-4% trọng lượng thân cá.
- Thời gian cho ăn : sáng cho ăn vào lúc 7-8 giờ, chiều cho ăn vào lúc 15-16 giờ.
Quản lí ao nuôi :
- Hằng tháng kiểm tra tốc độ sinh trưởng của cá để cung cấp thức ăn cho hợp lí
- Ghi chép chi tiết các vấn đề có liên quan trong suốt quá trình nuôi.
- Khi phát hiện cá bị bệnh hoặc các hiện tượng bất thường diễn ra của ao nuôi phải chữa trị kịp thời.
- Duy trì mức nước ổn định trong suốt quá trình nuôi.
- Theo dõi chặt chẽ màu nước ao trong quá trình nuôi để có kế hoạch bón phân hợp lí (nước ao có màu xanh nõn chuối hoặc vỏ hạt đậu xanh là được).
5/ Thu hoạch
- Thu hoạch toàn bộ : thu bằng lưới trước khi tháo cạn.
- Cá rô phi đơn tính nuôi sau 5 tháng có thể đạt trọng lượng 400-600 g/con, tỉ lệ sống đạt 70-80%, năng suất đạt 8-10 tấn/ha/vụ nuôi.
Tạp chí thuỷ sản
Nuôi cá rô phi xuất khẩu ở miền Bắc
Năm 2004, ngành thủy sản phát động phong trào nuôi cá rô phi xuất khẩu, nhất là vùng nuôi cá nước ngọt ở các tỉnh phía Bắc, nhằm đa dạng hóa các đối tượng xuất khẩu ra các thị trường quốc tế.
Để có cá đạt tiêu chuẩn xuất khẩu cần phải thực hiện tốt các yêu cầu kỹ thuật, nhất là các tỉnh phía Bắc. Sau đây xin giới thiệu kỹ thuật nuôi cá rô phi giúp bà con nông dân, ngư dân tham khảo.
Chọn ao và chuẩn bị ao nuôi
- Chọn diện tích ao nuôi:
- Ao nuôi cá rô phi cũng được chọn như ao nuôi các cá khác. Song diện tích ao cần rộng, có diện tích từ 1.000 – 1.500m2 (từ 3 – 8 sào Bắc bộ); độ sâu từ 1,5 – 1,8m, đáy là đất cát pha hoặc có lớp bùn dày 25 – 30cm, có bờ, cống chắc chắn, cao hơn mức nước cao nhất là 0,4 – 0,5m, tránh mưa tràn cá đi.
- Ao gần nguồn nước sông, ngòi trong sạch dễ bơm vào và tháo đi khi cần thay đổi, gần đường giao thông để chuyên chở thức ăn hoặc khi thu hoạch.
- Ao thoáng mát, ít cây cối um tùm bảo vệ dễ dàng. * Cải tạo chuẩn bị ao nuôi:
Tháng 3 hàng năm ao được tát cạn nước, bắt hết cá tạp, tu đắp lại bờ, cống, bốc bùn lấp hết hang hốc ven bờ, trang phẳng đáy, dùng 10 – 15kg vôi bột/100m2 rắc đều khắp đáy ao và ven bờ, diệt cá tạp ăn hại thức ăn trong ao, bón lót 100 – 150kg phân chuồng ủ mục/100m2. Để phơi nắng 2 –3 ngày, tháo nước vào được lọc qua vật chắn cá tạp theo vào, sâu 1,0 – 1,2m, để sau 7- 10 ngày thả giống vào nuôi.
Chọn giống thả vào nuôi:
- Cá giống nuôi xuất khẩu hiện nay chủ yếu là cá rô phi đơn tính, qua việc nuôi năm 2003. Sử dụng cá rô phi đơn tính F1 nhập từ Trung Quốc, cá phát triển tốt, lớn nhanh, tỷ lệ đực cao.
- Ao nuôi thả cá rô phi là chủ yếu, ngoài ra có thể ghép thêm 20 – 25% cá chép lai, cá trôi, cá trắm cỏ.
- Mật độ thả từ 2 – 3 con/m2, cỡ cá thả tốt nhất là 80-100 con/kg, không nên thả cá nhỏ, tỷ lệ hao hụt cao. Tính ra từ 800 – 1.200 con/sào Bắc bộ. Để có đủ cá giống khỏe mạnh, đều con, từng gia đình nên nuôi nhân cá loại 2.000 – 3.000 con/kg về ương đạt cá giống 80 – 100 con/kg thả ra nuôi.
- Tỷ lệ thả: Cá rô phi: 70 – 75%.
Cá chép, trôi: 10%
Cá trắm cỏ: 10%
Cá chim trắng: 5%
- Thời vụ thả: Ở các tỉnh phía Bắc thời vụ thả phải khắt khe, thả cuối tháng 3 sang đầu tháng 4; nuôi 5 tháng để tháng 10, tháng 11 thu cá đạt 0,5 – 0,6kg đợt đầu tránh rét. Những vùng khác có thể tăng vụ nuôi trên 1 diện tích.
Thức ăn và cách cho ăn:
- Nuôi cá rô phi xuất khẩu là phải chủ động nuôi và cho ăn tốt cá mới tăng trọng nhanh, đạt yêu cầu xuất khẩu. Thức ăn của cá chủ yếu là thức ăn công nghiệp phải tự chế theo tỷ lệ có đủ chất bột, đạm và các chất vi lượng. Thực tế vừa qua các mô hình nuôi ở huyện Gia Bình (Bắc Ninh) đã nuôi cá rô phi bằng cám “Con cò” viên thả nổi trên mặt nước 6 tiếng, cá ăn hết, ao sạch, không ô nhiễm, cá lớn nhanh, sau 4 – 5 tháng nuôi cá từ 2000 con/kg đã đạt 0,5 – 0,5kg/1 con.
- Cách cho ăn: 8 giờ sáng và 4 giờ 30 phút chiều. Dùng thức ăn tự chế hoặc cám Con cò rắc đều trên 1 vùng, có làm khung cho cá ăn. Rắc đầu gió cho cá ăn không bị trôi dạt vào bờ. Số lượng thức ăn cho hàng ngày bằng 7 – 8% trọng lượng cá trong ao. Hàng ngày quan sát cá khi ăn hết hay còn thức ăn để quyết định tăng, giảm lượng thức ăn trong ao hàng ngày.
- Kiểm tra cá: Hàng tháng hoặc nửa tháng dùng vó cất kiểm tra cá xem béo hay gầy để tăng lượng thức ăn trong ao.
Chăm sóc, quản lý ao nuôi:
- Cá rô phi nuôi mật độ dày, nên hàng ngày phải quan sát theo dõi 6 – 7 ngày cần tăng nước hoặc thay đổi nước cho ao để cá không nổi đầu ăn đều, nhanh lớn.
- Chăm sóc bảo vệ cá trong ao, kiểm tra bờ, cống tránh rò rỉ, nước tràn khi mưa to đề phòng cá đi. Vệ sinh dọn sạch cỏ rác ven bờ mới cho ăn.
- Trông nom bảo vệ hàng ngày, đêm, tối cần bảo vệ ngăn ngừa câu bắt cá.
- Ngoài cho ăn thức ăn công nghiệp cần cho ăn thêm rau, bèo, phân chuồng cho cá có thức ăn bổ sung…
NNVN, 2/4/2004
Nuôi cá rô phi thương phẩm trong ao ở Hương Sơn
Điều kiện ao nuôi:
Ao gần nguồn nước ấp và chủ động cấp thoát dễ dàng. Diện tích ao thích hợp 1.000 – 1.500 m2 (5.000 – 10.000 m2). Độ sâu nước ao nuôi 1,2 – 1,5m. Bờ ao chắc chắn, không bị thấm lậu, ngập tràn khi mưa lũ, bờ ao cao hơn mực nước cao nhất 50 cm. Giao thông đi lại thuận lợi, quản lý dễ dàng.
Chuẩn bị ao trước khi nuôi:
Tháo kiệt nước, phát quang bờ ao và tu sửa lại, đóng cống, vét bùn ở đáy ao trừ lại một lớp mỏng 10-15 cm. Dùng vôi bột (CaO) hoặc vôi tôi (Ca(OH)2 rải khắp đáy ao và xung quanh bờ ao, lượng vôi bón từ 7-10 kg/100 m2 để diệt địch hại, khử trùng và giảm độ chua, tăng pH của đất.
Phơi ao 2-3 ngày sau đó lấy nước vào ao khoảng 50 cm, dùng phân chuồng đã được ủ với lượng 10% vôi bột bón lót với lượng 35-40 kg/100 m2. Sau 3-5 ngày nước lên màu chuối non tiếp tục lấy nước vào đủ mức 1,2 – 1,5m, có thể dùng thêm phân xanh bó thành từng bó dìm xuống góc ao lượng 30-40 kg/100 m2.
Thả cá giống:
Mùa vụ thả giống tháng 3 đến tháng 4. Tiêu chuẩn thả giống: Cá rô phi đơn tính đực. Cá khỏe, vây vảy hoàn chỉnh không bị dị hình. Cỡ cá đồng đều, thân có màu sắc sáng bạc, cá giống đạt cỡ 3 – 5m, có khối lượng 10-12 g/con (180 – 200 con/kg).
Mật độ: Nuôi đơn trong ao bán thâm canh mật độ 2-3 con/m2, nếu nuôi thâm canh mật độ thả 3-4 con/m2 nhưng phải có máy quạt nước.
Chú ý: Khi vận chuyển cá giống về phải ngâm túi cá xuống ao 10-15 phút, mở miệng túi, tạt nước từ ngoài vào rồi cho cá bơi ra từ từ.
Cho cá ăn:
Thức ăn của cá dùng thức ăn công nghiệp, thức ăn tự chế biến có hàm lượng đạm từ 20-25%, có thể dùng một trong những công thức sau.
Công thức 1: Cám gạo 70%, bột cá 30%.
Công thức 2: Cám gạo 60%, tấm gạo 10%. Bột cá hoặc cá tươi băm nhỏ 20%, rau xanh, bèo tấm 10%. Nấu chín trộn với Vitamin C 3g/1 kg thức ăn.
Công thức 3: Cám gạo 40%, bột ngô 20%, bã đậu 20%, khô dầu lạc 20%
Lượng cá cho ăn hàng ngày từ 7% – 2% (cỡ 10-30g/con cho ăn 7%), cỡ 50-70 g/con cho cá ăn 5% và lớn hơn 200g/con cho ăn 2%. Mỗi ngày cho ăn hai lần vào buổi sáng và chiều tối.
Bón phân: Bón phân ủ kỹ với 10% vôi bột, tuần bón 1 lần, với lượng 20 kg/100 m2.
Quản lý, chăm sóc:
Thường xuyên quan sát màu nước và độ sâu, độ pH của nước trong ao nuôi. Theo dõi hoạt động của cá nếu thấy cá nổ đầu vào buổi sáng sớm hoặc khi thay đổi thời tiết … thì phải bơm nước mới vào ao.
Định kỳ bón vôi cho ao 2-3 kg/100 m2 (hòa tan té xuống ao). Định kỳ 15-20 ngày kiểm tra cá một lần xem độ lớn và sức ăn để điều chỉnh lượng thức ăn phù hợp.
Kiểm tra bờ, cống. Chú ý các biện pháp phòng bệnh cho cá.
Biện pháp chống rét cho cá: Dùng bèo Nhật Bản phủ 1/3 – 1/2 mặt thoáng ao. Dâng nước đến mức tối đa. Trong những ngày giá rét tuyệt đối không dùng lưới, chài kéo cá, cá sẽ bị sây sát dẫn đến dịch bệnh.
Thu hoạch:
Khi cá đạt trọng lượng 0,5 kg/con tiến hành thu tỉa. Đến đầu mùa rét (tháng 11) thì thu hoạch cá lớn, muốn lưu lại thì phải có biện pháp chống rét cho cá.
NNVN, 25/12/2003
Kinh nghiệm nuôi cá rô phi xuất khẩu ở Gia Bình
Năm 2003, được sự giúp đỡ của Trung tâm KN tỉnh Bắc Ninh, huyện Gia Bình được chọn là đơn vị làm thử mô hình nuôi cá rô phi xuất khẩu.
Qua gần 5 tháng nuôi dưỡng ngày 1/10/2003, phòng kinh tế huyện Gia Bình cùng với Trung tâm KN tỉnh Bắc Ninh tổ chức hội thảo, tham quan đầu bờ ở gia đình ông Trọng thôn Ngăm Mạc xã Lãng Ngâm huyện Gia Bình, với trên 100 đại biểu tỉnh, huyện, xã có các chi hội và các chủ hộ nuôi cá rô phi. Sau khi tham quan thực tế và nghe các gia đình báo cáo trao đổi thảo luận, bước đầu rút ra kinh nghiệm về việc nuôi cá rô phi xuất khẩu.
Sau đây xin giới thiệu kinh nghiệm nuôi cá của ông Trọng ở thôn Ngăm Mạc xã Lãng Ngâm:
Chọn địa điểm nuôi cá rô phi
– Ao ông chọn một ao nuôi cá cũ, có diện tích 1 mẫu Bắc bộ, ao có độ sâu nước 1,4m, một mặt có dân ở, ba mặt tiếp giáp với ruộng đồng, có nguồn nước từ sông bơm vào. Xung quanh bờ ao trồng chuối.
– Ao được tát cạn nước, dọn sạch cây cỏ ven bờ, tu bổ lại bờ cống, trang phẳng đáy, rắc 50 –60kg vôi/sào diệt cá tạp, tháo nước vào sâu 1 –1,2m chờ cá về thả.
Thả giống
Cá giống nuôi là cá rô phi đơn tính của Trung Quốc nhập về ương tại trại Sông Cầu. Do trung tâm khuyến nông cung ứng cho.
Cá giống thả cỡ 2000 con/kg, khỏe mạnh, đều con, không sây sát bệnh tật. Cá thả ngày 9/4/2003 cá rô phi là chủ yếu 80%, còn 10% là trắm cỏ, cá chép; 10% cá trôi. Mật độ thả 1,5 con/m2. Tổng số lượng thả 10.000 con.
Thức ăn và cách cho ăn
– Cá được nuôi bằng cám Con cò do hãng Việt – Pháp SX và cung ứng, cám viên bằng hạt đỗ nhỏ, có 18% đạm, cám nổi trên mặt nước 4 – 6 tiếng đồng hồ mới chìm.
– Ngày cho ăn 2 buổi vào 7 – 8 giờ sáng và 4 – 5 giờ chiều, lượng thức ăn hàng ngày bằng 6 – 7% trọng lượng cá trong ao. Căn cứ vào thức ăn cho ăn hết hay còn mà tăng hoặc giảm lượng thức ăn. Thức ăn được rắc làm 2 – 3 điểm trên mặt ao, rắc xuôi theo chiều gió để tránh thức ăn trôi dạt vào bờ.
– Thức ăn chủ yếu là cám Con cò, ngoài ra cá tận dụng thức ăn tự nhiên, không cho ăn gì khác.
Chăm sóc thu hoạch
– Cá nuôi được chăm sóc cho ăn đầy đủ, bờ cống được kiểm tra thường xuyên không để rò rỉ ngăn cá đi.
– Có nhà coi cá, kiểm tra quanh ao ngăn ngừa người câu bắt.
– Cá nuôi kiểm tra lần thứ nhất sau gần 3 tháng, cá đạt 0,3kg/con. Lần thứ 2 kéo được trên 200kg, bắt lên cân 20 con, phân loại 70% cá đạt cỡ 0,5kg/con còn 30% cá chưa đạt. Cá béo khỏe, bầu con.
Tạm thời hạch toán
– Qua kéo lưới kiểm tra ước tỷ lệ sống 60%, năng suất ước đạt 4.800kg/ha thì tổng thu đạt 62.708.000đ, tổng chi là 26.000.000đ, trong đó chi riêng tiền thức ăn mua cám Con cò đã chiếm 12.000.000đ. Lãi dự kiến là 36.000.000đ. Giá thành 1 kg cá thịt là 5.320đ.
Nhận xét bước đầu
– Việc nuôi cá rô phi xuất khẩu ở các tỉnh phía Bắc có thể nuôi từ tháng 4 đến tháng 11 thu hoạch xuất khẩu tránh rét. Song phải chủ động SX được giống cá rô phi cung ứng cho người nuôi càng sớm càng tốt, cỡ cá giống càng to càng tốt (100 – 200 con/kg). Phải nuôi chủ yếu là cá rô phi chiếm 70 – 80%, còn ghép thêm 20 – 30% cá chép lai, cá trắm, trôi. Thức ăn phải đầu tư thực sự là cám có 18% đạm cho ăn theo định kỳ từ nhỏ đến lớn, có kết hợp tận dụng một ít thức ăn sẵn có ở địa phương.
Để mở rộng được việc nuôi cá rô phi xuất khẩu cần sớm có cơ quan chăm lo việc ký kết hợp đồng với người nuôi hội nghề cá, tổ chức nhóm chăm lo dịch vụ giống cá bằng 2 cách: Nhận cá đẻ vụ thu về ương giữ cá qua đông cung ứng cho hội viên nuôi sớm cuối tháng 2 đầu tháng 3, số còn lại hợp đồng nhận từ cơ sở ương nhận từ Trung Quốc về: Dịch vụ thức ăn và thu gom sản phẩm giao trả cho cơ quan xuất khẩu.
NNVN, 17/10/2003
Nuôi cá rô phi đơn tính (giống nhập từ Đài Loan)
Mật độ thả: 3 ~ 5 con/ m2.
Nhiệt độ nước: 25 ~ 34 oC
pH: 7 ~ 8.5
Độ mặn: 0 ~ 5 (phần ngàn) , giai đoạn cuối trước thu hoạch 1 tháng, tăng dần nước mặn đến 10 (phần ngàn).
Máy móc: Ao 3.000 M2 sử dụng :
- Máy quạt Oxy cao tốc 2 cánh : 1 Bộ. Giá .4.500.000 đ./ bộ, (điện 220 Vol hoặc 380 Vol) + Môtơ 1 ngựa
- thùng phun thức ăn tự động, điện 220 vol, môtơ 1/2 ngựa. Giá: 5.850.000 đ. (nếu không trang bị thùng phun, thì cho ăn bằng nhân công, rải 3 lần / ngày.)
Thức ăn: sử dụng thức ăn viên công nghiệp,
Số 0 : dùng cho cá bột ( dạng bột )
1 : dùng cho cá con từ 1 Gr 20 Gr ( dạng viên )
2 : dùng cho cá nhỏ từ 20 Gr 600 Gr ( dạng viên )
3 : dùng cho cá lớn từ 600 Gr trở lên (dạng viên )
Lượng cho ăn: tùy tình hình sức khỏe cá, thời tiết, môi trường.
Cá con cho ăn ngày 2 bữa, cá nhỏ và lớn ngày 3 bữa.
Cho ăn vừa đủ hoặc thiếu 1 ít, tuyệt đối không cho dư.
Lượng cho ăn = 3 ~ 5 % trọng lượng cá. Chia làm 3 bữa.
Lượng tiêu thụ thức ăn:
Từ cá con đến thu hoạch 600 ~ 800 Gr, mỗi con tiêu thụ khoảng 1 Kg thức ăn.
Thời gian nuôi: từ lúc thả nuôi cho đến thời gian thu hoạch khoảng 6 tháng, tùy size sử dụng, dùng để bán chợ hay xuất khẩu, chế biến nguyên con hay fillet, thông thường xuất khẩu nguyên con khoảng 600 ~ 800 gr/ con. (nuôi 6 tháng).
Thường xuyên hoặc định kỳ kiểm tra và ghi chép đầy đủ các chỉ số về nước, môi trường, tình hình sức khỏe của cá…
Mô hình nuôi cá rô phi ở Việt Nam do công ty Chiao Puh Co., Ltd Taiwan cung cấp
- Diện tích ao nuôi: 1ha – 1,5ha, tốt nhất hình chữ nhật và được thi công bằng cơ giới. Chung quanh bờ ao cần dùng ni lông phủ để tránh dò rỉ nước, không cho cá đào khoét lỗ làm tổ đẻ trứng, không để cỏ dại mọc.
- Mực nước sâu: 1,8m – 2,5m.
- Nhiệt độ nước: 29-32 độ C.
- Khi cấp nước vào ao phải cho qua lưới lọc 200-300 mắt để đề phòng các loại cá tạp vào ao nuôi ăn thịt cá giống
- Trước khi thả cá giống 15 ngày cần rắc xuống ao từ 50-100kg phân hữu cơ Đài Loan nhập khẩu (mục đích làm sạch nước, tiêu diệt các loại cá tạp nếu có mà không gây hại cho cá giống, tăng lượng thức ăn tự nhiên trong ao nuôi)
- Đối với những ao nuôi mới cần rải 100-200kg vôi bột nhằm trung hòa độ pH. Và khoảng 300kg/ha lượng phân hữu cơ Đài Loan nhập khẩu. Cũng có thể thay bằng 300-500kg/ha phân chuồng ủ hoai (lượng phân rải căn cứ vào màu nước) gồm 70% phân gia súc, gia cầm, 30% cám gạo để tăng lượng thức ăn trong ao nuôi
- Mật độ nuôi:
A. 2cm ~ 60g/con – 10con/mét vuông trong ao ươm
B. 60g/pc ~ 670g/con – 3con/mét vuông trong ao nuôi
C. 670g/pc ~ 12000g/con – 1.5-2con /mét vuông cho sản phẩm phi lê xuất khẩu
- Tình hình sinh trưởng:
A. 2cm ~ 60g/con – Khoảng 75 ngày
B. 60g/con ~ 670g/con – Khoảng 165 ngày
C. 670g/con ~ 12000g/con – Khoảng 120 ngày
- Năng suất thu hoạch: 1 ha từ 15-20 tấn
- Sử dụng guồng sục khí:
- 1ha – 4 guồng cánh quạt nước
- Hoặc – 2 guồng 15 cánh quạt nước
- 2 guồng 4 cánh quạt nước
- Guồng 2 cánh + 1 guồng 15 cánh quạt nước
- Tốt nhất ở giữa ao nên đặt 1 guồng quạt xoáy.
- Tỷ lệ hoán đổi: 1,6kg thức ăn/1kg thịt
- 1 ha cần đầu tư 1 máy tự động phun thức ăn
- Thời gian cho cá ăn: Buổi sáng 8h-12h; Buổi chiều: 2h-5h
- Lượng thức ăn: Theo dõi thức ăn của cá sao cho phù hợp
- Thay nước: Rất ít phải thay nước, thiếu nước phải bổ sung
- Màu nước: Độ trong 20-30cm
- Bệnh của cá: Thường xuất hiện vào thời kỳ thay đổi thời tiết giữa hai mùa, phòng bệnh bằng cách pha chế định lượng thuốc phòng bệnh cá vào thức ăn
- Nếu đầm nuôi không trang bị máy phát điện dự phòng, bắt buộc phải trang bị guồng nước 15 cánh quạt chạy trực tiếp qua máy nổ.
VietLinh
Cá rô phi đơn tính Đài Loan
- Chủng loại: có khoảng 15 loài.
- Loài phổ biến dùng cho nuôi công nghiệp: Cá Rô-phi đơn tính.
- Đặc tính: Cá được phối giống tại Taiwan, sau khi cải tạo, cá giống có sức đề kháng bệnh cao, thích nghi mạnh với môi trường thay đổi. Thuộc tính ăn tạp, tăng trưởng nhanh, dể nuôi, thịt thơm ngon, không xương dăm, chứa nhiều Protein. Nên rất được người tiêu dùng chọn ăn. Người Taiwan nuôi thường thích chọn nuôi loài cá này, cũng là loài cá được các nước chọn nuôi nhiều nhất.
- Tình hình nuôi trồng ở Taiwan:
Năm 2001, Đài Loan sản xuất 82.787 tấn cá rô phi, sản lượng khoảng 29% tổng sản lượng nuôi trồng thuỷ sản của Đài Loan với trị giá 78 triệu USD. Sản phẩm cá rô phi xuất khẩu chiếm 10% tổng sản lượng xuất khẩu thuỷ sản.
Năm 2002 sản lượng rô phi tại Đài Loan là 100.000 tấnn trị giá 95 triệu USD.
- Cách thức nuôi:
a/ Nuôi tự nhiên.
b/ Nuôi công nghiệp
c/ Nuôi bằng Bè.
Ngành nuôi trồng công nghiệp phát triển của Taiwan, phối hợp với thức ăn công nghiệp, và Bè nuôi công nghiệp. Tất cả đều có thể áp dụng tại Việt nam, để đưa nghề nuôi cá phát triển mạnh lên.
6. Thời gian nuôi: được chia làm 4 giai đoạn.
1. Cá hương : 0.1 Gr ~ 1 Gr: thời gian 1 tháng.
2. Cá nhỏ từ 1Gr ~ 20Gr: 1 tháng
3. Cá Vừa từ 20Gr ~ 600Gr: 4 tháng, có thể tiêu thụ.
- Cá lớn từ 600Gr ~ 1Kg: 4 tháng, dùng để chế biến xuất khẩu.
7. Nhiệt độ thích hợp: từ 20 ~ 35 C
8. Mùa sinh sản: từ tháng 4 ~ tháng 8, cao điểm tháng 6.
9. Trọng lượng cá dùng để gia công xuất khẩu: 800 Gr ~ 1.200 Gr.
10. Sản phẩm: Đầu cá, thịt cá sasimi, Fillet có da và không da, nướng, chiên, da cá v.v… đang dạng sản phẩm xuất khẩu. Cá Đông lạnh thường xuất nguyên con có trọng lượng từ 600 Gr ~ 800 Gr là chính.
Giá thành nuôi Cá Rô Phi ở Taiwan
Tiền con giống : 300 đ /con x 30.000 con = 9.000.000 VND
Tiền thức ăn : 5.200 đ /kg x 30.000 con = 156.000.000 VND
Lương nhân viên: 800.000 đ x 2 người x 10 tháng = 16.000.000 VND
Khấu hao máy móc: 6.000.000 VND
Tiền điện, dầu chạy máy: 1.000.000 x 10 tháng = 10.000.000 VND
Tiền thuê ao nuôi : 1.500.000 đ x 10 tháng = 15.000.000 VND
Tổng cộng : 212.000.000 VND
Sản lượng thu hoạch ở Taiwan
600 Gr (30%) 6.000 con = 3.600 kg x 15.000 đ = 54.000.000 đ
800 Gr (50%) 14.000 con = 11.200 kg x 18.000 đ = 201.600.000 đ
1000 Gr (20%) 6.000 con = 6.000 kg x 20.000 đ = 120.000.000 đ
Cộng: 26.000 con = 20.800 kg = 375.600.000 đ
Thành phần thức ăn công nghiệp cho Cá Rô phi:
Chất đạm : 28%
Năng lượng trao đổi : 2850
Phốt pho : 9 %
Can xi : 2.5 %
Chất béo : 8.5 %
Độ ẩm : 10 %
Nuôi cá thịt
Cá rô phi có khả năng thích nghi và phân bố rộng nên có thể nuôi được ở cả nước ngọt, mặn, lợ và kể cả nước thải của đô thị. Cá ăn tạp, kể cả động thực vật, phân chuồng và mùn bã hữu cơ… Tốc độ lớn nhanh, bình quân 70-100g/tháng. Cá ít mắc bệnh, rất thuận lợi trong quá trình nuôi. Ơở các tỉnh phía bắc như Hà Bắc, Ninh Bình, Hải Phòng… đã nuôi cá rô phi đơn tính xen với trồng lúa trên diện tích rộng; sau 2 tháng nuôi thể trọng cá tăng 50-60 lần so với khi thả giống. Các tỉnh ven biển miền trung lại nuôi cá rô phi đơn tính sau vụ thu hoạch cua nuôi ở vùng đầm nước lợ, cũng đã tăng thêm được từ 300 đến 1000 kg sản phẩm trên mỗi hecta. TP. Hồ Chí Minh là nơi có điều kiện tự nhiên tốt cho việc sản xuất giống đơn tính và nuôi cá rô phi thịt. Tại đây, Công ty nuôi và dịch vụ thủy sản (thuộc sở thủy sản của thành phố) đã thành công trong việc sản xuất giống bán cho nhân dân nuôi thành cá thịt tại các khu vực nước thải, vừa có nguồn thu nhập, vừa làm sạch môi trường. Đến nay, công ty đã ký hợp đồng bán cá rô phi giống đơn tính và cá thịt cho nhiều khách hàng dưới dạng cá thịt đông lạnh nguyên con xuất khẩu.
Nếu nuôi mật độ thưa (1-2 con/m2) thì ở vùng nước ngọt có cho cá ăn, còn ở nước lợi không cần cho ăn vì nguồn thức ăn tự nhiên phong phú sẵn, nuôi ở nguồn nước thải cũng không phải cho ăn. Cá đạt cỡ 0,4kg/con trở lên là đủ tiêu chuẩn để xuất khẩu. Trong điều kiện diện tích hẹp, nên tận dụng hết công suất của đất bằng cách nuôi mật độ dày với cách chăm sóc kỹ hơn. Cụ thể: Nếu thả 3-5 con/m2, phải là nơi có sẵn thức ăn trong đó. Thả 7-14 con/m2, phải cho thêm thức ăn. Thả 15-20 con/m2, phải cho ăn hoàn toàn. Thức ăn chính nuôi cá rô phi là phân hữu cơ đã ủ kỹ để diệt bớt vi khuẩn có hại cho cá trong điều kiện nuôi dày.
Những nơi không tiện cho cá ăn phân hữu cơ, thì nuôi bằng cá tạo hay cám tổng hợp, như ở xã Yên Giang, huyện Yên Hưng, tỉnh Quảng Ninh.
Còn có thể nuôi cá trong lồng như ở sông Hoàng Long, tỉnh Ninh Bình, và ở hồ chứa suối Hai, tỉnh Hà Tây, cho ăn bằng bột ngô, bột cá đạt hệ số tăng trọng 3/1 (3kg thức ăn cho 1kg cá). Ngoài ra còn có thể nuôi cá kết hợp với ruộng lúa.
KS Trần Trọng Thương, Webbinhthuan
Giữ cá rô phi qua đông
Cá rô phi thường chịu lạnh rất kém, khi nhiệt độ nước thấp hơn 12 độ C kéo dài vài ngày thì cá sẽ bị chết rét.
Miền Bắc có mùa đông giá lạnh nên mùa vụ sinh sản của cá rô phi chỉ bắt đầu khi thời tiết ấm áp vào cuối tháng 3.
Do đó, người nuôi muốn chủ động cho mình được nguồn giống thả vào tháng 3 và 4 thì cần phải có những biện pháp lưu giữ giống cá rô phi qua đông thật tốt.
Chọn ao: Địa điểm xây dựng ao khuất gió mùa Đông Bắc là tốt nhất. Bờ ao chắc chắn, giữ được mức nước trong ao luôn ổn định. Ao phải có cống cấp và thoát nước riêng biệt. Diện tích ao 200 – 1.000 m2. Nguồn nước trong ao 1,8 – 2,5 m. Nguồn nước cấp cho ao phải sạch và chủ động.
Tháo cạn nước, vét bùn và vệ sinh ao. Dùng vôi bột bón với lượng 8 – 10 kg/100 m2 để bón cho ao. Nước cấp vào ao thì phải có lưới lọc. Có thể thả thêm bèo Tây khoảng 20 – 30% mặt thoáng của ao hoặc làm mái che cho ao (khung được làm bằng các vật liệu cứng như tre, nứa… mái che được làm bằng bạt ni lông màu trắng).
Thời gian đưa cá vào ao trú đông từ 15/11 – 15/12 hằng năm. Nên chọn thời điểm nắng ấm để đưa cá vào ao trú đông. Lưu ý không đánh bắt, vận chuyển và thả cá khi nhiệt độ xuống dưới 20 độ C.
Chọn giống và thả: Chọn cá giống kích cỡ đồng đều, khỏe mạnh, không bị dị hình, dị tật, không có dấu hiệu bệnh lý. Cá bơi thăng bằng, hoạt động nhanh nhẹn, bơi chìm trong nước theo đàn. Nên tắm cho cá bằng dung dịch nước muối 2 – 3% trong vòng 5 – 10 phút. Ngâm túi vận chuyển cá xuống ao trong vòng 10 – 15 phút sau đó mới thả cá từ từ ra ao.
Mật độ thả: Cỡ cá giống 3 – 5 gr/con có thể thả với mật độ 10 – 30 con/m2. Nếu ao có máy sục khí có thể thả 40 – 50 con/m2.
Quản lý: Thường xuyên theo dõi mức nước ở trong ao, nếu thấy hao hụt nước phải bổ sung nước sạch vào ao ngay. Theo dõi hoạt động của cá và bệnh cá để có biện pháp xử lý kịp thời. Vệ sinh ao thường xuyên. Nếu cho cá ăn thức ăn xanh cần vớt hết thức ăn cũ trước khi cho ăn thức ăn mới. Định kỳ 15 ngày/lần bón vôi với lượng 1 kg/100 m3 nước (hòa vôi vào nước và té đều khắp ao).
Trong suốt thời gian cá trú đông không dùng lưới đánh bắt để tránh xây xát, dẫn tới cá bị nhiễm bệnh và chết.
Chăm sóc: Cho cá ăn 1 – 1,5 % trọng lượng cá trong ao/ngày. Ngày cho cá ăn 1 – 2 lần vào lúc thời tiết ấm áp từ 10 – 14 giờ. Thức ăn cho cá là loại thức ăn công nghiệp (độ đạm 22 – 26%), hoặc thức ăn tự chế (10% bột cá nhạt, 30% khô đỗ, 60% cám gạo).
Những ngày nhiệt độ nước ao thấp hơn 17 độ C không cho cá ăn mà tranh thủ những ngày nắng ấm sau mỗi đợt gió mùa thì cho ăn nhiều hơn. Tuyệt đối không dùng phân hữu cơ bón cho ao để đảm bảo môi trường ao sạch.
Sau khi cá trú đông xong cần cho ăn tích cực trong 10 – 15 ngày để thu hoạch. Lượng cho ăn 3 – 5% trọng lượng cá ở trong ao.
Bệnh nấm thủy mi: Cá bơi lờ đờ xung quanh ao, bằng mắt thường có thể nhìn thấy nấm thủy mi bám trên cơ thể cá như những búi bông màu trắng, nhìn rõ nhất khi cá ở trong nước.
Luôn giữ môi trường trong sạch, giữ cho cá không bị xây xát, không kéo lưới hoặc vận chuyển khi nhiệt độ xuống dưới 20 độ C. Khi cá bị bệnh có thể dùng dung dịch muối 3% hoặc dung dịch thuốc tím 20 mg/lít tắm cho cá trong thời gian 15 phút.
Bệnh trùng bánh xe: Khi cá bị mắc bệnh trên thân, vây cá có nhiều nhớt, màu hơi trắng đục, ở dưới nước thấy rõ hơn so với khi bắt cá lên cạn. Da cá chuyển màu xám, thường xuyên nổi từng đàn lên mặt nước, một số con tách đàn bơi quanh bờ ao. Nếu cá bị bệnh nặng trùng bám dày ở vây, mang, phá hủy các tơ mang, khiến cá bị ngạt thở, ở mang đầy nhớt và có màu bạc trắng. Cá bơi lội không định hướng và chết.
Dùng nước muối 2 – 3 % tắm cho cá trong vòng 5 – 10 phút hoặc dùng sunphat đồng nồng độ 3 – 5 gr/m3 nước tắm cho cá trong vòng 5 – 15 phút. Dùng sunphat đồng phun trực tiếp xuống ao với nồng độ 0,5 – 0,7 gr/m3 nước. Sau khi phun thuốc 2 – 3 ngày thì tiến hành thay nước mới để cải thiện môi trường trong ao nuôi.
Trước khi thu hoạch phải chuẩn bị dụng cụ đánh bắt và phương tiện vận chuyển. Nên thu toàn bộ.
HỒ HỮU SƠN – Nông nghiệp VN, 22/10/2014
Công nghệ chọn giống cá rô phi dòng Gift
Tuyển chọn và nuôi vỗ cá bố mẹ
- Chọn cá bố mẹ khoẻ mạnh, không dị hình, không sây sát, cá đực và cá cái có kích thước tương đương nhau để hạn chế cá đực tấn công cá cái trong quá trình ghép gia đình.
- Cá đực và cá cái được nuôi riêng ở các giai thưa có kích thước 20m2, với thức ăn có hàm lượng đạm 18-20%, mức ăn 2% trọng lượng cơ thể/ngày. Mật độ thả 3-5 con/m2.
Ghép cho sinh sản
- Chọn cá bố mẹ đã thành thục, có nguồn gốc từ các gia đình khác nhau để ghép thành các gia đình mới.
- Cá đực và cá cái có kích thước tương đương được đưa vào các giai có diện tích 3m2 để cá đẻ tự nhiên theo tỉ lệ ghép đực:cái là 1:2.
Thu và ương cá bột
- Khi quan sát thấy cá bột xuất hiện trên mặt nước thì tiến hành thu và chuyển sang giai 1m2 để ương cá bột. Mật độ thả 250 con/gia đình/giai.
- Cho cá ăn cám bột có hàm lượng đạm 25-30%. Khẩu phần ăn bằng 7-10% trọng lượng cơ thể/ngày.
Ương cá giống
Khi cá bột đạt 1-2g sẽ chuyển sang ương trong giai 3m2. Mật độ thả 150 con/gia đình/giai.
- Cho cá ăn bằng thức ăn bột có hàm lượng đạm 25-30%. Khẩu phần ăn bằng 5-7% trọng lương cơ thể/ngày.
Đánh dấu các gia đình
- Khi cá giống đạt kích thước 10-15g/con, tiến hành đánh dấu các gia đình để nuôi chung trong ao.
- Chọn ngẫu nhiên 40 con/gia đình để đánh dấu, thả nuôi chung trong ao cho đến khi thu hoạch.
- Chọn ngẫu nhiên 20 con/gia đình, đánh dấu điện tử, giữ trong các giai mau để làm thí nghiệm chịu lạnh.
Chăm sóc cá nuôi trong ao
- Hàng ngày cho cá ăn thức ăn có hàm lượng đạm 18-20%, khẩu phần ăn 3-5% trọng lượng cơ thể/ngày.
- Thay nước và cân trọng lượng hàng tháng để điều chỉnh thức ăn cho phù hợp.
Thu hoạch cá thí nghiệm
- Hạ từ từ mức nước ao, dùng lưới thu cá chuyển sang các giai thưa.
- Đọc toàn bộ dấu điện tử và cân trọng lượng của từng con tương ứng.
- Chọn lọc những cá thể và gia đình có giá trị di truyền tốt làm cá bố mẹ cho quá trình chọn giống năm sau.
NTNN, 7/4/2004
Thâm canh cá rô phi dòng Gift đạt 20-25 tấn/ha
Ao nuôi
Ao nuôi có diện tích 3.000-10.000m2. Độ sâu 1,5-2,5m nước. Đáy ao ít bùn, pH đất 6,5-8,5, có nguồn cấp và thoát nước tốt, có bờ vững chắc, có cống cấp và thoát nước.
Cá giống
Chọn giống cá rô phi đơn tính dòng Gift không nhiễm bệnh, bơi lội nhanh nhẹn, kích cỡ 5-10g/con. Mật độ thả 4-5 con/m2. Mùa vụ thả giống ở miền Bắc từ tháng 4-6, ở miền Nam có thể thả quanh năm.
Thức ăn
- Cho ăn thức ăn công nghiệp dạng viên nén nổi được chế biến riêng cho cá rô phi.
- Lượng thức ăn, hàm lượng đạm trong thức ăn được điều chỉnh theo trọng lượng cá: trọng lượng cá 4-10g/con cho ăn loại thức ăn mảnh, hàm lượng đạm 30%, lượng cho ăn bằng 10% trọng lượng cá trong ao/ngày; 10-100g/con cho ăn viên nổi (1,5-2mm), hàm lượng đạm 28% với lượng cho ăn bằng 5% trọng lượng cá trong ao/ngày; 100-150g/con cho ăn thức ăn viên (2-2,5mm), hàm lượng đạm 26% với lượng cho ăn 3% trọng lượng cá trong ao/ngày; 150-300g/con cho ăn thức ăn viên (2-2,5mm), hàm lượng đạm 22% với lượng cho ăn bằng 2,5% trọng lượng cá trong ao/ngày; từ 300g/con trở lên cho ăn thức ăn viên (3mm), hàm lượng đạm 18% với lượng cho ăn 1,5-2% trọng lượng cá trong ao/ngày.
Cho cá ăn ngày 2 lần vào 9 giờ sáng và 4 giờ chiều. Quạt khí theo thời gian nuôi:
- Tháng nuôi thứ 1- 2 không quạt khí.
- Tháng nuôi thứ 3- 4 quạt khí 4- 5 giờ/ngày, từ 2- 5 giờ sáng.
- Tháng nuôi thứ 5- 6 quạt khí 6-7 giờ/ngày từ 0-7 giờ sáng.
Chú ý quạt khí vào những ngày thời tiết thay đổi, không có nắng. Những ngày trời mưa to, nhiều gió giảm thời gian quạt khí.
Quản lý chất lượng nước
Theo dõi các yếu tố chất lượng nước như oxy hoà tan, độ pH, H2S và NO2. Thay nước định kỳ nhằm cải thiện môi trường nước ao nuôi.
Theo dõi tăng trưởng
Hàng tháng thu mẫu 30-50 cá thể, cân và tính trọng lượng trung bình cá trong ao. Trên cơ sở trọng lượng trung bình mẫu, số lượng cá thể để tính toán tổng trọng lượng cá trong ao. Dựa vào tổng lượng cá, trọng lượng trung bình để tính toán lượng thức ăn cho cá ăn hàng ngày.
Thu hoạch
Sau 5 tháng nuôi, thu tỉa những con cá đạt trọng lượng trung bình trên 500g/con. Những con cá chưa đạt kích cỡ thương phẩm nuôi tiếp 1 tháng đến khi đạt trọng lượng 500g sẽ thu hoạch toàn bộ.
Với công nghệ nuôi thâm canh này sẽ cho năng suất đạt 20-25 tấn/ha/vụ nuôi 6 tháng.
NTNN, 19/4/2004
Kinh nghiệm nuôi cá rô phi dòng Gift
Nuôi bán thâm canh trong ao:
Mật độ thả 2 – 3 con/m2; cỡ giống thả từ 15 – 20g/con.
Thức ăn: Bón phân gây màu sắc để tạo thức ăn tự nhiên, đồng thời bổ sung thêm thức ăn có hàm lượng đạm từ 18 – 20%. Thành phần nguyên liệu phối chế bao gồm: Cám gạo 40%, bột bắp 17%, khô đậu phộng 15%, premix 1%. Hỗn hợp trên cần nấu chín, ngày cho ăn 2 – 3 lần, lượng cho ăn bằng 2 – 3% trọng lượng cá trong ao. Nên cho thức ăn vào sàn hoặc khay cố định để kiểm tra theo dõi.
Bón phân: Dùng phân chuồng ủ kỹ (2 – 3% CaO), bón 25 – 30kg/100m2 ao/tuần. Phân vô cơ tỷ lệ đạm, lân 4/1 bón với lượng 0,2kg/100m2, tuần bón 2 lần, phải hòa tan trong nước và té đều trên mặt ao vào lúc trời mát. Nếu không có phân chuồng, có thể dùng phân xanh.
Sau thời gian nuôi 4 – 6 tháng, tỷ lệ sống từ 85 – 90%. Năng suất đạt từ 8 – 10 tấn/ha.
Nuôi thâm canh:
Diện tích ao: Diện tích thích hợp là 2.000 – 3.000m2, độ sâu 1,5 – 2m, pH từ 6,5 – 7,5. Ao phải có nguồn cung cấp nước sạch chủ động và được cải tạo kỹ trước khi nuôi. Mật độ nuôi: 6 – 8 con/m2, cỡ giống 30 – 50g/con.
Thức ăn: Dùng thức ăn chế biến Proconco, Higro, AF, Cargill… hay thức ăn tự phối chế, có hàm lượng đạm từ 18 – 35%, thức ăn cho ăn nổi trên mặt nước khoảng 2 giờ.
Hàng ngày kiểm tra lượng thức ăn để có thể điều chỉnh tăng hay giảm lượng thức ăn.
Cần sục khí cho cá từ tháng nuôi thứ 2, mỗi ngày 6- 8 giờ (sục từ 23 giờ tối hôm trước đến 6 giờ sáng hôm sau).
Thay nước khi ao quá bẩn, mỗi lần thay từ 1/3 – 2/3 lượng nước trong ao. Tháng thứ nhất không thay nước, tháng thứ 2 thay một lần, tháng thứ 3 thay 2 lần, từ tháng thứ 4 đến tháng thứ 6, mỗi tuần thay nước một lần.
Thu hoạch: Sau 5 – 6 tháng nuôi, cá đạt 400 – 600g/con là có thể thu hoạch, giữ lại cá nhỏ để nuôi tiếp. Đối với cá làm nguyên liệu chế biến xuất khẩu, nên đưa cá lên nuôi ở bể nước chảy 2 – 4 ngày nhằm loại bỏ mùi hôi để nâng cao chất lượng cá.
NNVN, 26/5/2004
Công thức mới trong thức ăn của cá rô phi
Đặc điểm kỹ thuật trong thức ăn của cá rô phi phụ thuộc vào nhu cầu dinh dưỡng trong từng điều kiện nuôi. Cũng giống như các loại cá khác, cá rô phi cũng cần 10 loại axit amin thiết yếu, chúng tiêu hóa cácbon hyđrát tốt hơn cá chép và cá trê phi. Việc cung cấp nhiều loại cácbon hyđrát và lipit có tác dụng tăng hiệu quả của protein trong chế độ ăn, với mức protein chiếm 18 – 22%. Rất khó xác định những vitamin và khoáng chất thích hợp trong chế độ dinh dưỡng của cá rô phi. Để giải quyết vấn đề này, một số nghiên cứu đã được tiến hành.
Thử nghiệm cho ăn
Thử nghiệm 1:
So sánh hiệu suất của 2 loại thức ăn cho cá rô phi (loại 20 và loại 25% protein thô), thử nghiệm này, cá rô phi lai đỏ thả nuôi trong 8 lồng 100m3, với mật độ 5000 con/lồng. Treo các lồng trong ao có diện tích 1 ha, 4 lồng đầu nuôi trong 144 ngày cho cá ăn adlimitum 4 lần/ngày. Độ mặn 15 – 18 ppt và ôxy hòa tan được duy trì ở mức 3,5ppm (tối thiểu). Nhiệt độ nước trong thời gian thử nghiệm 28 – 320C. Ao được trang bị 2 quạt nước để lưu thông nước.
Kết quả: Không có sự khác nhau nhiều trong các lồng về cân nặng trung bình và tỉ lệ trao đổi thức ăn. Chỉ có sự khác nhau đáng kể là tăng cân nặng trung bình/ngày của cá. Chi phí cho loại thức ăn chứa 20 và 25% protein tương ứng là 0,322 và 0,388 USD/kg (giá ở Thái Lan).
Với cùng tỷ lệ trao đổi thức ăn như nhau, cá ăn thức ăn chứa 20% protein có chi phí SX tương đối thấp.
Thử nghiệm 2:
Xác định ảnh hưởng của tần suất cho ăn đến sự tăng trưởng của cá rô phi.
Cá rô phi lai đỏ có trọng lượng trung bình 320g được nuôi trong 12 lồng, thể tích mỗi lồng 100m3, mật độ 3800 con/lồng. Các lồng được treo trong ao rộng 1 ha và được ăn thức ăn chế biến sẵn trong các quá trình nuôi. Cá được cho ăn ad libitum hai, ba và bốn lần/ngày. Sử dụng thức ăn chứa 25% protein trong 60 ngày thử nghiệm.
Kết quả: Có sự khác nhau đáng kể trong quần thể về trọng lượng cá trung bình, tỷ lệ trao đổi thức ăn và khối lượng tăng trung bình hàng ngày. Cho ăn ad libitum ba và bốn lần/ngày thích hợp cho cá rô phi trong giai đoạn tăng trưởng. Cho ăn 2 lần/ngày dẫn đến tỷ lệ chuyển hóa thức ăn nhiều hơn.
Chế độ cho ăn: Đảm bảo đủ lượng thức ăn, có thể cho cá rô phi chưa trưởng thành (vài tuần tuổi) ăn với tỷ lệ cao bằng 3 – 4% trọng lượng cơ thể trong 1 ngày. Cá có trọng lượng 250 – 400g thì thức ăn hàng ngày tốt nhất là bằng 15% trọng lượng cơ thể. Đối với những loài nuôi trong nước biển thì hàng ngày nên cho ăn lượng thức ăn ít hơn 2% trọng lượng cơ thể.
Hình thức nuôi
Nuôi cá rô phi lồng: Nuôi lồng có vốn đầu tư và chi phí hoạt động thấp hơn nhiều so với nuôi ao và nuôi bể. Cụ thể là cá được nuôi với mật độ cao và được cho ăn toàn bộ. Mật độ nuôi phải tùy theo lượng ôxy có trong nước nuôi.
Kết hợp nuôi ao và nuôi lồng: Việc kết hợp này cho phép quản lý số lượng cá thể và thu hoạch cá. Cho cá ăn các thức ăn chế biến sẵn chứa 20 – 32% protein thô. Các cuộc thử nghiệm nhằm xác định hiệu suất nuôi cá rô phi lồng (100m3/lồng) trong điều kiện độ mặn 15 – 20ppt và nhiệt độ 28 – 320C, với năng suất 20,4; 20,9 và 21,2 tấn/ha/vụ, tương ứng với thời gian nuôi là 143; 154 và 167 ngày. Mật độ thả 16300; 16500; 15300 tương ứng với trọng lượng cá là 127g; 149g và 145g. Các ao nuôi được lắp đặt các guồng quạt nước.
Lời khuyên về chế độ cho ăn: Cá rô phi có thói quen ăn uống đa dạng, nên yêu cầu về chế độ ăn của chúng rất linh hoạt.
ĐOÀN GIANG, Theo tài liệu TT thông tin Khoa học và kinh tế Thủy sản, NNVN, 26/9/2003
Những điều chú ý khi nuôi cá rô phi bằng thức ăn công nghiệp
Hiện nay, nhiều nước trên thế giới người dân nuôi trồng thủy sản dùng thức ăn công nghiệp để nuôi cá rô phi. Cũng có rất nhiều hãng thức ăn đã SX những món ăn công nghiệp riêng cho loại cá này, Trung tâm KN Hà Nội đã nuôi thử nghiệm cá rô phi trong 40 ngày ở 2 mật độ 2,5 và 4 con/m2, diện tích các ao từ 956 – 962m2, bằng hai loại thức ăn công nghiệp.
Loại 1:
Thức ăn viên của hãng “Con cò” có thành phần thức ăn ghi trên bao bì hàng hóa là 20% đạm, 5% chất xơ, 12% can xi, 1% phốt pho, 0,8% muối, độ ẩm 12%.
Thức ăn chỉ có 1 cỡ với đường kính 3mm, dài 6 – 8mm.
Loại 2:
Thức ăn viên do Viện Nghiên cứu NTTS I sản xuất, có thành phần đạm 20%, 5% chất xơ, 1% vitamin tổng hợp, độ ẩm 12%.
Có 2 cỡ thức ăn: – Cỡ đường kính 1 – 2mm, dài 3–5mm để nuôi cá cỡ nhỏ. – Cỡ đường kính 3 – 4mm, dài 6–10mm để nuôi cá cỡ lớn.
Việc nuôi cá rô phi bằng thức ăn công nghiệp tuy đầu tư tốn kém ban đầu do phải mua thức ăn, nhưng lại cho năng suất cao hơn, lãi nhiều hơn.
Tuy nhiên cũng cần lưu ý:
– Phải đảm bảo chất lượng thức ăn tốt, không bị ẩm mốc.
– Nuôi mật độ cá rô phi 4 con/m2 cho kết quả cao hơn so với mật độ 2,5 con/m2 nhưng phải có biện pháp tăng cường oxy cho nước ao bằng cách bơm sục nước mới cho ao nuôi cá rô phi, chống hiện tượng cá nổi đầu.
– Cần thu tỉa cá thịt cỡ lớn để nâng cao qui cỡ và tỷ lệ đồng đều.
Cách cho ăn:
Hàng ngày nên cho cá ăn 2 lần (sáng sớm và chiều tối), lượng thức ăn mỗi ngày thay đổi theo từng tháng nuôi, tháng đầu bằng 7% khối lượng cá trong cao; tháng thứ 2 là 5%, tháng thứ 3 là 3%, những tháng sau là 2%.
Người nuôi phải ghi chép lượng cá giống thả ban đầu và kết quả kiểm tra cá hàng ngày của những tháng tiếp theo.
Nên cho cá ăn ở những nơi cố định và để thức ăn vào sàn bằng tre, gỗ có đáy bằng phẳng đặt cách đáy ao 20 – 30cm.
NNVN, 23/12/2003
Làm sao chuyển giới tính cá rô phi?
Trong ao nuôi cá rô phi thì cá đực luôn nhanh lớn hơn cá cái do cá cái trong thời gian ấp trứng thường nhịn ăn. Nếu trong ao nuôi toàn cá đực thì toàn bộ năng lượng thức ăn cá đều dùng cho mục đích tăng trưởng, không dùng vào sinh sản nên cá lớn nhanh và đồng cỡ. Chính vì vậy mà khi nuôi cá rô phi thương phẩm, người nuôi thường thích nuôi cá đực hơn.
Để có nhiều cá đực đáp ứng cho nhu cầu phát triển chăn nuôi, nhiều nước trên thế giới đã nghiên cứu dùng một loại hormon trộn vài thức của cá, cho cá rô phi bột ăn (cá mới nở 3-4) ngàyhoặc dùng phương pháp tắm cho cá rô phi trong hormon để chuyển giới tính của cá rô phi.
Ở châu Á, Thái Lan là nước có nhiều kinh nghiệm về công nghệ chuyển giới tính cá rô phi từ những năm 1990-1994. Ở nước ta ngay từ năm 1994, các Viện Nghiên cứu nuôi trồng thủy sản đã tiếp nhận công nghệ chuyển đổi giới tính cá rô phi từ Viện Công nghệ châu Á (AIT). Đến năm 1995 đã sản xuất thành công.
Các loại hormon để chuyển giới tình cá rô phi là: MT (17 methyl estestosteron) và ET (17 ethynyltestosteron). Hiện nay, được dùng phổ biến là loại MT và các bước của công nghệ chuyển đổi giới tính cá rô phi như sau:
Phối trộn hormon vào thức ăn của cá:
Lấy 60mg MT hoặc ET hòa vào 0,7 lít rượu ethanol 95% đun dung dịch này trộn với 10g vitamin C vào kg bột cá (trước khi đun dung dịch này nên phơi trước cho bay hết mùi rượu).
Cho cá rô phi đẻ, thu trứng, cá bột đem đi ấp.
- Chọn cá rô phi bố mẹ có khối lượng từ 150-300g/con thả vào giai (có lưới không lọt) hoặc vào bể với mật độ 5-6 con/m vuông, tỷ lệ cá đực cá cái là 1: 1. Sau khi thả từ 5-7 ngày kiểm tra miệng cá cái để thu trứng và chu kỳ thu trứng là 7 ngày một lần.
- Đem trứng ấp ở bình với nhật độ 90.000 trứng/lít, ấp riêng từng pha I, II, III, IV, lưu tốc nước trung bình là 4 lít/phút.
Đem trứng sắp nở (từ pha IV) sang ấp ở khay, mật độ 10.000 trứng/lít, lưu tốc nước 2 lít/nuớc ấp cho đến khi trứng nở thành cá bột và cá bột tiêu hết noãn hoàng.
Xử lý cá bột trong giai bằng cách cho cá bột ăn thức ăn có chứa hormon.
- Mật độ cá bột trong giai là 15 con/m vuông, thời gian xử lý trong giai là 21 ngày.
- Lượng thức ăn cho cá bột tính theo phần trăm khối lượng cá và tùy theo cỡ cá, mức độ sử dụng thức ăn của cá, có thể dựa vào tỷ lệ sau:
Tuần đầu tiên: 25%
Tuần thứ 2:20%
Tuần thứ 3: 15%
Tuần thứ 4: 10%
Sau 21 ngày đem cá bột ra ương ở ao thành cá hương. Cũng có thể ương cá hương ở trong giai chứa.
Hiện nay việc chuyển giới tính cho cá phi chủ yếu áp dụng cho loài cá rô phi vằn Oreochroxeis niloticus. Công nghệ sản xuất giống cá phi đơn tính đực trong giai chứa đã được triển khai rộng rãi ở các cơ sở sản xuất giống cá các tỉnh. Tuy nhiên công nghệ nàu chỉ đảm bảo đạt tỷ lệ khoảng 95%, vì thế vẫn còn hiện tượng lẫn cá cái đẻ trứng. Bởi vì để có lượng cá bột đồng đều về kích cỡ và giai đoạn phát triển, trước khi đưa vào xử lý hormon là rất khó, bởi khi thu trứng phải phân chia chính xác chúng thành từng nhóm tương ứng với 4 pha phát triển khác nhau theo màu sắc để có biện pháp xử lý riêng. Mặt khác phần lớn cá bột đã hấp thu hormon chuyển giới tính ăn. Song do tính ăn, tính cạnh tranh, bệnh tật và các yếu tố khác về môi trường cũng như về di truyền cũng có thể ngăn trở việc hấp thụ thức ăn đã xử lý hormon. Chính vì vậy mà khó có thể đạt tỷ lệ cá đực 100%.
Ngoài phương pháp chuyển giới tính cá rô phi bằng trộn hormon vào thức ăn, còn phương pháp ngăn tấm co cá rô phi bột trong hormon.
Cách làm: Chọn cá rô phi bột ở tuổi 17 ngày sau khi nở ngâm trong dung dịch hormon MT nồng đô 3ppm trong thời gian từ 3-4 ngày. Phương pháp này thường đạt tỷ lệ đực từ 80-85% và tỷ lệ sống sau khi xử lý từ 70-80%, vì vậy phương pháp này ít được sử dụng.
Theo các chuyên gia theo dõi về nuôi cá rô phi còn sót lại không đạt tính đực cho thấy: Một số ít trong số này sẽ bị vô sinh, số còn lại vẫn có khả năng đẻ trứng bình thường ở nhiệt độ 25 độ C, tuy nhiên số lượng cá này không đáng kể so với cá đực.
KS.Phương Thanh (Trại cá giống Trà Nóc), KHPT, 30/1/2004
Kinh nghiệm chuyển giới tính cá rô phi
Trong ao nuôi cá rô phi thì cá đực luôn nhanh lớn hơn cá cái. Chính vì vậy mà khi nuôi cá rô phi thương phẩm, người nuôi thường thích nuôi cá đực hơn. Để có nhiều cá đực đáp ứng cho nhu cầu phát triển chăn nuôi, nhiều nước trên thế giới đã nghiên cứu dùng một loại hormon trộn vào thức ăn của cá, cho cá rô phi bột ăn (cá mới nở được 3 –4 ngày) hoặc dùng phương pháp tắm cho cá rô phi trong nước có hormon để chuyển giới tính của cá rô phi.
Các loại hormon để chuyển giới tính cá rô phi là: MT (17 methyl estestosterone) và ET (17 ethynyltestosterone). Hiện nay được dùng phổ biến là loại MT và các bước của công nghệ chuyển giới tính cá rô phi như sau:
- Phối trộn hormon vào thức ăn của cá
Lấy 60mg MT hoặc ET hòa vào 0,7 lít rượu ethanol 95%, đun dung dịch này trộn với 10g Vitamin Việt Nam vào 1kg bột cá (trước khi đun dung dịch này nên phơi nắng trước cho bay hết mùi rượu).
- Cho cá rô phi đẻ, thu trứng, cá bột đem đi ấp
- Chọn cá rô phi bố mẹ có khối lượng từ 150 – 300g/con thả vào giai (có lưới không lọt) hoặc vào bể với mật độ 5 – 6 con/m2, tỷ lệ cá đực cá cái là 1:1. Sau khi thả từ 5 – 7 ngày kiểm tra miệng cá cái để thu trứng và chu kỳ thu trứng là 7 ngày một lần.
- Đem trứng ấp ở bình với mật độ 90.000 trứng/lít, ấp riêng từng pha I, II, III, IV, lưu tốc nước trung bình là 4 lít/phút.
- Đem trứng sắp nở (từ pha IV) sang ấp ở khay, mật độ 10.000 trứng/lít, lưu tốc nước 2 lít/phút, ấp cho đến khi trứng nở thành cá bột và cá bột tiêu hết noãn hoàng.
- Xử lý cá bột trong giai bằng cách cho cá bột ăn thức ăn có chứa hormon
- Mật độ cá bột trong giai là 15 con/m2, thời gian xử lý trong giai là 21 ngày.
- Lượng thức ăn cho cá bột tính theo phần trăm khối lượng cá và tùy theo cỡ cá, mức độ sử dụng thức ăn của cá, có dựa vào tỷ lệ sau:
Tuần đầu tiên: 25%
Tuần thứ 2: 20%
Tuần thứ 3: 15%
Tuần thứ 4: 10%
Sau 21 ngày đem cá bột ra ương ở ao thành cá hương. Cũng có thể ương cá hương ở trong giai chứa.
Hiện nay, việc chuyển giới tính cho cá rô phi chủ yếu áp dụng cho loài cá rô phi vằn Oreochroxeis niloticus. Công nghệ SX giống cá rô phi đơn tính đực trong giai chứa đã được triển khai rộng rãi ở các cơ sở SX giống cá các tỉnh. Tuy nhiên công nghệ này chỉ đảm bảo đạt tỷ lệ khoảng 95%, vì thế vẫn còn hiện tượng lẫn cá cái đẻ trứng. Để có lượng cá bột đồng đều về kích cỡ và giai đoạn phát triển, trước khi đưa vào xử lý hormon là rất khó, bởi khi thu trứng phải phân chia chính xác chúng thành từng nhóm tương ứng với 4 pha phát triển khác nhau theo màu sắc để có biện pháp xử lý riêng.
Ngoài phương pháp chuyển giới tính cá rô phi bằng trộn hormon vào thức ăn, còn phương pháp ngăn tấm cho cá rô phi bột trong hormon.
Cách làm: Chọn cá rô phi bột ở tuổi 17 ngày sau khi nở ngâm trong dung dịch hormon MT nồng độ 3 ppm trong thời gian 3 – 4 ngày. Phương pháp này thường đạt tỷ lệ đực từ 80-85% và tỷ lệ sống sau khi xử lý từ 70 – 80%, vì vậy phương pháp này ít được sử dụng.
Theo các chuyên gia theo dõi về nuôi cá rô phi còn sót lại không đạt tính đực cho thấy: Một số ít trong số này sẽ bị vô sinh, số còn lại vẫn có khả năng đẻ trứng bình thường ở nhiệt độ 25oC, tuy nhiên số lượng cá này không đáng kể so với cá đực.
NNVN, 13/4/2004
Nuôi cá rô phi xuất khẩu
Hướng đa dạng hóa sản phẩm mới
Trong vụ tranh chấp cá tra, cá ba sa Việt nam vào Mỹ, cuối tháng 7/2003 sẽ có phán quyết cuối cùng từ phía Mỹ. Dù các cơ quan chức năng Hoa Kỳ có kết luận như thế nào đi nữa thì một điều rất xác thực là: Việt Nam không bán phá giá, việc nhập khẩu cá tra, basa…của Việt Nam vào Mỹ không gây thiệt hại cho ngành sản xuất cá nheo của Mỹ ai cũng có thể nhận biết được.
Thế nhưng, hậu quả của vụ kiện này đã gây thiệt hại rất lớn cho ngành Thủy sản nói chung và nghề nuôi cá bè đang phát triển mạnh ở Vĩnh Long nói riêng.Để tránh và hạn chế tối đa rủi ro do chỉ có ít sản phẩm từ một đối tượng truyền thống như cá tra, cá ba sa như hiện nay thì việc mở rộng thị trường và đa dạng hóa sản phẩm từ nhiều đối tượng để tạo ra những loại sản phẩm có năng lực cạnh tranh cao trên thị trường thế giới là một chiến lược tối cần thiết mà nhà chế biến và nhà sản xuất nguyên liệu phải hoạch định. Và một trong những loại nguyên liệu có khả năng đáp ứng nhu cầu xuất khẩu là cá rô phi.
Tại Hội nghị Quốc tế về Kỹ thuật và Thương mại cá rô phi đã được tổ chức vào ngày 28-30/5/2001 (Kuala Lumpur, Malaysia) đã nhận định cá rô phi là một đối tượng đã được thừa nhận có khả năng phát triển rất lớn và là sản phẩm có nhu cầu rất cao trong những năm tới trên nhiều thị trường thế giới như Mỹ, Nhật Bản và một phần ở Châu Âu.
Đứng đầu là Mỹ- thị trường nhập khẩu các sản phẩm cá rô phi lớn nhất thế giới: năm 1999, nhập khẩu 37.575 tấn; năm 2000 là 40.500 tấn; năm 2001 nhập 70.000 tấn.. Nhật Bản- chuyên tiêu thụ các mặt hàng cá rô phi cao cấp, nhất là cá rô phi đỏ: năm 1999, nhập 507 tấn.. Thị trường tiêu thụ lớn nhất của Châu Âu là Anh, kế đến Đức, Pháp, Bỉ, Italia…đã nhập 270 tấn năm 1999.Sản lượng nuôi cá rô phi trên thế giới năm 1990 đạt trên 400 ngàn tấn, năm 1995 đạt trên 800 ngàn tấn, năm 1999 đạt 1,1 triệu tấn, trong đó Châu Á chiếm trên 70%, riêng Trung Quốc là nước dẫn đầu với gần 50% sản lượng thế giới với năng suất đạt 6 tấn/ha và Đài Loan là nước xuất khẩu cá rô phi lớn nhất thế giới với năng suất nuôi trong ao đạt 12 tấn/ha.
Trên cơ sở dự báo về khả năng sản xuất và nhu cầu thị trường thế giới trong những năm tới, Bộ Thủy sản đã xác định đây là đối tượng nuôi cần được chú ý phát triển mạnh để đưa mặt hàng cá rô phi nhanh chóng có sản lượng hàng hóa lớn và trở thành một trong những sản phẩm có giá trị xuất khẩu cao..
Trước mắt, trong năm 2002-2003, đưa khoảng 13.000 –15.000 ha (khoảng 3% diện tích nuôi nước ngọt) mặt nước của khu vực ĐBSCL vào nuôi cá rô phi hàng hóa để đạt sản lượng 120.000-150.000 tấn, chế biến xuất khẩu khoảng 70.000 – 100.000 tấn nhằm đạt giá trị kim ngạch xuất khẩu 100 –120 triệu USD từ con cá này.
Vĩnh Long có tiềm năng rất lớn về nuôi thủy sản nước ngọt, ngoài tôm càng xanh, cá tra, những giống loài có giá trị kinh tế cao ngày càng được người nuôi chú ý để thích ứng với nhịp chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp đang ngày càng sôi động của tỉnh nhà, trong đó có cá rô phi đỏ (cá điêu hồng) và cá rô phi được cải thiện di truyền (GIFT, Genetically Improved Farmed Tilapia) đã mở ra tiềm năng nuôi xuất khẩu đầy triển vọng do cá tăng trưởng nhanh, kích thước thương phẩm lớn (sau 6 tháng nuôi có thể đạt kích cỡ thương phẩm từ 0,5-0,6kg/con), có ngoại hình đẹp, tỉ lệ thịt cao, chất lượng thịt ngon.
Tuy là loài thủy sản nước ngọt, nhưng chúng có thể sống và phát triển cả trong môi trường nước lợ, mặn có nồng độ muối tới 32%o (thích hợp nhất là 0- 25%o), khả năng chịu nhiệt từ 14- 40ºC (thích hợp cho cá phát triển từ 25- 35ºC).
Riêng cá rô phi dòng GIFT có khả năng chịu được ở vùng nước có hàm lượng Oxy thấp hơn 1mg/l, ngưỡng gây chết cá từ 0,3- 0,1mg/l.,phát triển tốt trong khoảng 2-5 mg/l..
Giới hạn pH từ 5-11, nhưng thích nghi nhất là 6,5-7,5.Tất cả các loài rô phi đều có tính ăn tạp, tuy nhiên thức ăn ưa thích của rô phi là những sinh vật thuỷ sinh lơ lửng trong nước. Ngoài ra rô phi còn có khả năng sử dụng rất hiệu quả những loại thức ăn do con người cung cấp như cám, tấm, các loại rong bèo (bèo tấm, bèo hoa dâu), bột cá tạp và các phụ phẩm nông nghiệp khác. Đây là đặc điểm rất thuận lợi cho nghề nuôi cá.
Lượng thức ăn hàng ngày khoảng 3-7% trọng lượng thân (tùy theo cỡ cá) chia ra làm 3-4 lần trong ngày.Khi nuôi thâm canh và bán thâm canh, phải cho cá ăn thức ăn có hàm lượng đạm cao (20-35% Protein), đây là yêu cầu kỹ thuật rất quan trọng quyết định đến năng suất và hiệu quả kinh tế của người nuôi.
Tốc độ sinh trưởng của cá rô phi đỏ và rô phi dòng GIFT tùy thuộc vào nhiệt độ môi trường nước, thức ăn, mật độ thả và kỹ thuật quản lý chăm sóc. Khi nuôi thâm canh cá sẽ lớn nhanh hơn nuôi bán thâm canh hay nuôi ghép. Sau 5-6 tháng nuôi đạt cỡ 400-600gr/ con trở lên.Tuy là đối tượng dễ nuôi do có nhiều ưu điểm nêu trên, song áp dụng một số biện pháp kỹ thuật nuôi cá rô phi đơn tính sau đây là rất cần thiết, nhằm giúp người nuôi biến tiềm năng thành hiện thực, góp phần đa dạng hóa sản phẩm thủy sản xuất khẩu, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của thị trường thế giới.
- Nuôi trong lồng bè:
Nuôi cá trong lồng, bè là hình thức nuôi tiên tiến. Mật độ cá nuôi trong lồng bè rất cao và sự sinh trưởng của cá hoàn toàn phụ thuộc vào lượng thức ăn do con người cung cấp. Để nuôi cá rô phi trong lồng bè đạt kết quả tốt cần lưu ý một số vấn đề sau:
Vị trí đặt lồng, bè:
Lồng hoặc bè phải đặt ở nơi có nguồn nước tốt (có thể đặt ở các dòng sông có dòng nước chảy nhẹ hoặc đặt ở các hồ chứa nước) không nên đặt lồng bè gần nguồn nước thải công nghiệp, nước thải dân dụng và đặc biệt tránh xa nguồn nước thải của nhà máy hoá chất, thuốc trừ sâu. Đáy của lồng bè nên đặt cách đáy của sông hồ khoảng 0.5m
Kích thước và vật liệu làm lồng, bè:
Tuỳ điều kiện cụ thể mà chọn nguyên vật liệu làm lồng bè và kích thước lồng khác nhau (có thể từ 10-100m3). Nếu đóng lồng bè quá nhỏ sẽ không có hiệu quả kinh tế. Có thể đóng bè bằng tre, hoặc dùng lưới mắt nhỏ (1cmx1cm) bao quanh một khung bằng gỗ.v.v..Mực nước tối thiểu trong lồng từ 1,2- 1,5 m..
Chăm sóc và quản lý bè:
Cá rô phi thả vào lồng, bè nuôi phải có kích cỡ đồng đều, không bị xây sát, bệnh tật. Mật độ thả tuỳ theo điều kiện cụ thể ở nơi đặt lồng, bè.- Nếu đặt ở nơi sông lớn, nguồn nước tốt, đủ dưỡng khí có thể thả 150-200 con/.m3.- Lồng đặt ở sông hồ nhỏ, mực nước nông có thể thả mật độ 80-100 con/m3.- Lồng đặt ở những ao lớn, mực nước thấp, nước có thể trao đổi được với hệ thống kênh rạch xung quanh thì thả 60-80 con/m3.Lượng thức ăn thay đổi theo cỡ cá. Khi còn nhỏ lượng thức ăn chiếm 10-15% trọng lượng cá, khi cá lớn cho ăn khoảng 2-3%. Nên sử dụng thức ăn viên hoặc thức ăn tự chế dạng viên (hàm lượng đạm từ 20-30%) để giảm bớt hao hụt do thức ăn tan trong nước mỗi khi cho cá ăn. Thường xuyên kiểm tra lượng thức ăn để điểu chỉnh kịp thời.Những khi nước đứng hoặc nhiệt độ tầng mặt quá cao phải tiến hành sục khí hoặc quạt nước để tạo sự lưu thông dòng nước và cung cấp thêm dưỡng khí cũng như thải bớt khí độc trong lồng bè nuôi.Thường xuyên kiểm tra lồng bè để phát hiện và xử lý kịp thời những sự cố.
- Nuôi thâm canh trong ao:
Đây là hình thức nuôi công nghiệp mang lại hiệu quả kinh tế cao, người nuôi nên chọn ao có diện tích từ 1000- 3.000m2, mức nước sâu từ 1,2- 2,0m; nguồn nước phải chủ động cung cấp và ao phải được cải tạo kỹ theo qui trình, duy trì pH từ 6,5-7,5.- Tùy theo khả năng tài chính và kỹ thuật chăm sóc có thể thả 10-15 con/m2, cỡ giống từ 6-8 cm..Thích hợp nhất là thả nuôi vào tháng 3 đến tháng 4.- Nên dùng các loại thức ăn viên công nghiệp hoặc tự phối chế có hàm lượng đạm từ 18-35%, thức ăn phải nổi trên mặt nước ít nhất 2 giờ. Ngày cho ăn 2 lần: sáng sớm và chiều mát. Lượng cho ăn thay đổi tùy theo cỡ cá:+ Cỡ 20- 50 gr: cho ăn 7- 10% trọng lượng cá trong ao/ngày;+ Cỡ 50-200 gr: cho ăn 5% trọng lượng cá trong ao/ngày;+ cỡ 200 gr trở lên: cho ăn 2% trọng lượng cá trong ao/ngày- Đối ao nuôi thâm canh thì vấn đề quản lý môi trường nước phải đặt lên hàng đầu. Thường xuyên thay nước mới cho cá và cần bố trí quạt nước để quạt nước trong ao vào thời điểm Oxy trong ao bị thiếu (thường vào khoảng 1-5 giờ sáng).+ Thường tháng thứ nhất không sục khí và không thay nước. Tháng thứ 2 thay 1 lần, tháng thứ 3 thay 2 lần, từ tháng thứ 4 mỗi tuần thay 1 lần, mỗi lần thay từ 1/3- 2/3 lượng nước trong ao.- Sau 5-6 tháng nuôi, cá đạt kích cỡ thương phẩm (400-600 gr/con) thì thu hoạch trước, cá nhỏ hơn nên giữ lại nuôi tiếp khoảng 1 tháng sẽ đạt cỡ theo ý muốn..
Cá rô phi là một đối tượng thủy sản nuôi có nhiều ưu điểm như: sức sống cao, hệ số thức ăn và chi phí nuôi không lớn, thịt cá trắng, không có xương dăm, mùi cá nhẹ và việc nuôi không làm ảnh hưởng xấu tới môi trường, có khả năng phát triển mạnh ở nhiều loại hình thủy vực, kể cả nước ngọt và nước lợ, thích hợp cho các loại hình nuôi thâm canh, bán thâm canh, quảng canh, luân canh hoặc xen canh với các đối tượng khác do yêu cầu kỹ thuật không cao và chi phí đầu tư không cần lớn.
Tuy nhiên, để cá rô phi đạt tiêu chuẩn xuất khẩu, người nuôi nên:
Sử dụng con giống tốt (cá rô phi vằn dòng GIFT hoặc cá rô phi đỏ đơn tính).Nuôi cá trong ao thay nước thường xuyên hay nuôi trong lồng bè (giúp loại bỏ mùi bùn).Sử dụng thức ăn viên hay thức ăn tự chế có 20-30% đạm.Không sử dụng kháng sinh trong thức ăn cho cá (đặc biệt các loại nằm trong danh mục cấm- Bộ Thủy sản đã ban hành).Thực hiện những biện pháp kỹ thuật tích cực trên, nuôi cá rô phi đơn tính nói chung và cá điêu hồng nói riêng sẽ mang lại lợi nhuận từ 30-40% trên tổng chi phí đầu tư.Với giá cá thương phẩm từ 18 đến 20 ngàn/kg tại thời điểm này, nuôi cá rô phi đơn tính sẽ đem lại hiệu quả kinh tế cao cho người nuôi trong tình hình nuôi cá tra có nhiều rủi ro như hiện nay. Đây là một đối tượng nuôi có nhiều triển vọng phát triển mạnh ở tỉnh ta để đáp ứng nhu cầu sản xuất hàng hóa lón của người nuôi, và đây cũng là hướng đa dạng hóa sản phẩm mới- tránh sự lệ thuộc chỉ vào một vài loại nguyên liệu truyền thống- trong chiến lược xuất khẩu thủy sản của tỉnh nhà rất cần được sự quan tâm và đầu tư đúng mức.
KS. Phạm Thị Thu Hồng- CC.BVNL Thủy sản
Nuôi cá rô phi xuất khẩu chất lượng cao
Cá rô phi là loài dễ nuôi, có nhu cầu dinh dưỡng tương đối đơn giản, tuy nhiên sau một thời gian thử nghiệm tại một số vùng nuôi thương phẩm, sản lượng cá rô phi đạt chất lượng xuất khẩu từ 500g/con trở lên chỉ chiếm từ 20-30%. Để nuôi đạt hiệu quả cao nhất bà con nên áp dụng hình thức nuôi bán thâm canh với năng suất nuôi 10 tấn/ha.
Chuẩn bị ao nuôi
Ao nuôi có diện tích 4.000-6.000m2, mực nước sâu từ 1,5-2,5m, có bờ bao chắc chắn không bị thẩm lậu, ngập tràn khi mưa lũ. Ao nuôi phải dễ quản lý, chăm sóc, có nguồn nước sạch và chủ động thoát nước dễ dàng.
Trước khi thả cá vào ao phải vệ sinh ao nuôi sạch sẽ, vét bùn, rắc vôi bột xuống khắp đáy ao với lượng vôi 7-10kg/100m2 ao. Sau 2-3 ngày phơi ao sẽ tháo nước vào ao và thả cá giống.
Thả giống
Để đạt năng suất 10 tấn/ha và đạt kích cỡ 500g/con phải thả với mật độ từ 2,5-3 con/m2, chọn cá giống có kích cỡ lớn trên 5g/con để đảm bảo tỉ lệ sống của cá nuôi. Cá giống nên chọn cá có nguồn gốc tốt (đặc biệt là cá rô phi dòng gitf).
Cho cá ăn
Cho cá ăn lượng thức ăn phù hợp với từng giai đoạn phát triển của cá. Với năng suất 10 tấn/ha có thể cho ăn với thức ăn công nghiệp và thức ăn tự chế. Thức ăn công nghiệp cho cá rô phi cần hàm lượng đạm từ 18-20%, với lượng cho ăn bằng từ 5-6% tổng khối lượng đàn cá trong ao. Khi cá đạt cỡ 100g/con cho ăn với lượng từ 3-4%; khi đạt trên 200g/con cho ăn khoảng 2%.
- Hàng ngày cho cá ăn 2 lần vào sáng sớm và chiều mát. Người nuôi cần chú ý cho cá ăn đủ lượng, đảm bảo chất lượng thức ăn cho cá và cho ăn đúng giờ để tạo phản xạ kiếm ăn cho cá.
- Có thể bón thêm phân đạm và lân vào ao đối với cá từ 100-300g, không bón thêm phân vô cơ, các loại phân bón chưa qua xử lý, không bón phân chuồng trực tiếp xuống ao, vì chúng có thể chứa các loại vi sinh vật có hại, ảnh hưởng đến chất lượng cá nuôi.
- Tiến hành thay nước 1 tháng/lần, lượng nước thay từ 1/2-2/3 lượng nước trong ao.
- Có thể tận dụng các sản phẩm, phụ phẩm nông nghiệp làm thức ăn thêm cho cá như bột ngô, cám gạo, khô đậu…, và phải chế biến, vì thức ăn này không cho ăn ở dạng bột, khi rải đều xuống mặt ao, cá sẽ không ăn được hết, tỉ lệ sử dụng rất thấp. Vì vậy cần nấu chín và đặc, nắm lại thành nắm cho cá ăn.
- Không được phép sử dụng một số hoá chất kháng sinh nằm trong danh mục cấm trộn vào thức ăn hay chữa bệnh cho cá.
- Trong thời gian nuôi nên tiến hành phân cỡ cá 1 tháng/lần để khi thu hoạch cá có kích cỡ đồng đều.
Thu hoạch
Sau từ 5-6 tháng nuôi, nếu đáp ứng đúng quy trình kỹ thuật cá sẽ đạt trọng lượng từ 500g/con trở lên. Có thể thu hoạch toàn bộ nếu cá có cỡ đồng đều hoặc đánh tỉa, thả bù để đáp ứng nhu cầu của thị trường.
Chú ý, thả đủ số cá đã đánh mỗi đợt để đảm bảo mật độ. Khi thả bù cần phải thả cá có kích cỡ lớn để hạn chế sự chênh lệch về đàn cá trong ao.
Lưu ý: Với các tỉnh phía Bắc, nuôi cá rô phi thương phẩm vụ xuân thích hợp nhất (tháng 3-5). Bà con cần tuân thủ đúng vì thời gian sinh trưởng của cá rô phi từ 5-6 tháng, nếu thả nuôi muộn gặp thời tiết bất lợi cá sẽ khó đạt trọng lượng theo yêu cầu.
NTNN, 2/4/2004
Công nghệ phục vụ nuôi cá rô phi xuất khẩu: Thuận lợi và khó khăn
Cá rô phi hiện đang được nuôi rộng rãi trên thế giới. Ngoài mục đích cải thiện dinh dưỡng cho người dân nghèo, nuôi cá rô phi còn tạo ra sản phẩm hàng hóa ngày càng có sức cạnh tranh cao trên thị trường thế giới. Thị trường cá rô phi trên thế giới tăng nhanh trong 2 thập kỉ qua, đặc biệt ở thị trường Mỹ. Thị trường nhập khẩu cá rô phi trên thế giới năm 1992 mới đạt 2.500 tấn, đến năm 1999 đã là 100.000 tấn. Trong vòng 5 năm qua, nhu cầu nhập khẩu cá rô phi tăng 38%/năm. Ðứng đầu các nước nhập khẩu cá rô phi là Mỹ, tiếp sau là Nhật, một số nước châu Âu. Năm 1992, Mỹ nhập 3.400 tấn, năm 2000 nhập 40.000 tấn. Năm 2001, ước tính nhập 70.000 75.000 tấn, trị giá 106 108 triệu USD.
Trong khi giá một số hàng thủy sản luôn có nhiều biến động thì hầu hết các sản phẩm từ cá rô phi có giá khá ổn định trong vòng 5 năm qua. Giá bán thay đổi ít tạo môi trường kinh doanh tương đối ổn định cho người nuôi cá và hệ thống phân phối tiêu thụ. Cá rô phi với ưu thế: ít dịch bệnh, thức ăn không đòi hỏi chất lượng cao, cá có màu thịt trắng có khả năng thay thế cho một số loại cá biển, cá dễ chế biến theo nhiều loại sản phẩm khác nhau nên được đa số người tiêu dùng chấp nhận. Thị trường cá rô phi trên thế giới hiện tại chưa thật lớn, nhưng theo nhiều dự báo, sẽ có nhu cầu cao và mở rộng với tốc độ nhanh.
Chủ trương phát triển nuôi cá rô phi ở nước ta là hoàn toàn đúng đắn, góp phần tăng nhanh sản lượng cá nuôi, tăng tỷ trọng sản phẩm thủy sản xuất khẩu được nuôi từ nước ngọt. Nuôi cá rô phi góp phần đa dạng hóa sản phẩm, tận dụng tốt hơn các vùng nước ngọt hiện có. Nuôi cá rô phi trong nước lợ giúp giảm rủi ro trong nuôi trồng thủy sản, là biện pháp cải tạo môi trường ao nuôi, đặc biệt những vùng nuôi đang bị suy thoái môi trường.
Nước ta có lợi thế về diện tích mặt nước ngọt và lợ (120.000ha ao hồ nhỏ, 340.000ha hồ chứa nước, 580.000ha ruộng trũng, nhiều hệ thống sông ngòi, nhiều vùng nước ven biển với độ mặn thấp) là những vùng nước có thể nuôi cá rô phi, có khả năng mở rộng diện tích, sản xuất với sản lượng lớn. Tuy nhiên, các ao hồ rất phân tán, xa các cơ sở chế biến, gây khó khăn cho tổ chức sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Phần lớn các ruộng trũng đang cấy lúa cần phải qui hoạch, cải tạo lại mới đáp ứng yêu cầu kĩ thuật nuôi cá.
Cá rô phi xuất khẩu cần kích cỡ lớn khi thu hoạch (600 1.000g/con), do đó giống nuôi phải là cá đơn tính có chất lượng, đó là giống cá có tỉ lệ đực > 95% được sản xuất từ phẩm giống có chất lượng cao. Thông qua nhập nội và tiến hành chọn giống nâng cao chất lượng di truyền hiện chúng ta đã có một số giống cá rô phi có chất lượng, như cá rô phi dòng GIFT, cá rô phi vằn dòng Thái Lan, và cá rô phi hồng Ðài Loan. Cá rô phi GIFT chọn giống có tốc độ sinh trưởng cao hơn cá GIFT nhập nội 17%, đã được cung cấp cho 25 tỉnh/thành trên cả nước để nuôi thành cá bố mẹ thay thế các đàn cá rô phi bố mẹ có chất lượng thấp. Chúng ta đã làm chủ công nghệ chuyển giới tính cá rô phi, có thể chủ động sản xuất hàng loạt cá đơn tính với tỉ lệ cá đực 95 100%. Công nghệ chuyển giới tính sản xuất cá rô phi toàn đực cũng đã được chuyển giao tới một số cơ sở sản xuất cá giống ở một vài tỉnh. Tuy nhiên người nuôi cá hiện đang phải dùng cá giống có chất lượng khác nhau, đa phần giống chất lượng thấp (cá gọi là đơn tính nhưng tỉ lệ đực thấp, < 95%, được sản xuất từ các phẩm giống lai tạp). Mạng lưới sản xuất cá rô phi giống có chất lượng còn ở giai đoạn sơ khai, hầu hết các địa phương chưa có đàn cá rô phi bố mẹ có chất lượng, đạt về kích cỡ, đủ về số lượng. Công suất sản xuất cá đơn tính ở các cơ sở hiện có là rất nhỏ (từ vài vạn đến 3 triệu con/năm) và thiếu ổn định về chất lượng. Do vậy năng lực sản xuất giống hiện có chưa thể đáp ứng nhu cầu giống có chất lượng khi phát triển nhanh việc nuôi cá rô phi xuất khẩu.
Sản phẩm cá rô phi nuôi từ cá giống chuyển giới tính sử dụng hoocmôn hiện đang được chấp nhận trên thị trường thế giới, tuy nhiên lo ngại của người tiêu dùng về an toàn thực phẩm, đặc biệt trong bối cảnh cạnh tranh thương mại ngày càng gay gắt là điều cần phải tính tới. Ðể phát triển bền vững việc nuôi cá rô phi xuất khẩu, trên phương diện giống, chúng ta không thể chỉ dựa vào công nghệ chuyển giới tính để tạo cá đơn tính. Xây dựng công nghệ sản xuất cá rô phi đơn tính bằng công nghệ di truyền, nghiên cứu công nghệ tạo cá siêu đực đã được tiến hành ở nước ta, đã tạo được cá rô phi siêu đực, những chưa thể đưa rộng ở phạm vi sản xuất vì tỉ lệ cá đực ở thế hệ con của cá siêu đực còn thấp và thiếu ổn định.
Nuôi cá rô phi trong vùng nước lợ mặn là một lợi thế, nhất là chất lượng cá sản phẩm. Nước ta có điều kiện về diện tích nước lợ, mặn nhưng các phẩm giống rô phi hiện có phù hợp với nuôi ở vùng nước ngọt hơn là nuôi ở vùng nước lợ, mặn. Cá thường đạt tốc độ sinh trưởng nhanh hơn khi nuôi trong nước ngọt. Ðể mở rộng và nuôi cá rô phi có hiệu quả ở vùng nước lợ mặn, rất cần phát triển các phẩm giống có tính thích ứng cao với độ mặn.
Công nghệ nuôi thâm canh và bán thâm canh cá rô phi thương phẩm đã được xây dựng, bước đầu có kết quả tốt, nuôi thương phẩm đạt năng suất 20-25 tấn/ha, cỡ cá thu hoạch 500 800g/con, hệ số thức ăn 1,7, hach toán có lãi khi sản phẩm tiêu thụ nội địa. Tuy nhiên trước nhu cầu nuôi sạch, nhất là với cá nuôi từ vùng nước ngọt có mùi bùn, cần có công nghệ quản lí môi trường và xử lí trước khi thu hoạch.
Cá rô phi là đối tượng nuôi rất triển vọng, thị trường có nhu cầu tăng nhanh, cần nhanh chóng đầu tư phát triển. Ðể sản phẩm cá rô phi nuôi có tính cạnh tranh cao, cần tiếp tục nâng cao chất lượng con giống, tạo phẩm giống có khả năng lớn nhanh hơn và thích ứng với các vùng nước khác nhau, nhanh chóng xây dựng các công nghệ sản xuất giống và nuôi cho sản phẩm sạch. Nhiều nước đã và đang chú ý phát triển nuôi cá rô phi, do vậy nếu có bước đi thích hợp, xác định đầu tư đúng mức để phát triển nhanh, chúng ta sẽ có ưu thế hơn trong cạnh tranh.
Ts. Phạm Anh Tuấn, Viện nghiên cứu Nuôi trồng thủy sản
Ứng dụng công nghệ biofloc trong nuôi thâm canh cá rô phi thương phẩm
Việc ứng dụng công nghệ biofloc (viết tắt tiếng Anh là BFT) trong nuôi thâm canh cá rô phi thúc đẩy tốc độ tăng trưởng của cá nuôi, năng suất nuôi đạt cao, hiệu quả sử dụng thức ăn được cải thiện, góp phần làm giảm ô nhiễm môi trường ao nuôi.
Ứng dụng BFT trong nuôi trồng thủy sản được coi là một hướng đi mới của công nghệ sinh học, dựa trên nguyên lý bổ sung nguồn cacbon theo một tỷ lệ phù hợp với lượng nitơ sẵn có trong nước ao để làm thức ăn cho vi sinh vật dị dưỡng có trong ao, tạo điều kiện cho nhóm này phát triển chiếm ưu thế trong ao. Vi sinh vật dị dưỡng sẽ chuyển hóa các hợp chất chứa nitơ trong nước ao thành protein trong sinh khối, nhờ đó tái sử dụng được nguồn nitơ từ chất thải hòa tan trong nước ao và chuyển hóa thành sinh khối thức ăn tự nhiên cho cá nuôi, làm tăng hiệu quả sử dụng thức ăn nuôi cá.
Khái niệm biofloc trong BFT dùng để chỉ tập hợp vật chất hữu cơ lơ lửng trong nước bao gồm tảo, động vật nguyên sinh và vi sinh vật – trong đó chiếm ưu thế là vi sinh vật dị dưỡng – được gắn kết với nhau bằng chất keo sinh học polyhydroxy alkanoat (PHA). Tập hợp các biofloc là nguồn thức ăn tự nhiên giàu dinh dưỡng đối với cá rô phi nuôi trong ao. Do đó, việc ứng dụng BFT sẽ làm giảm chi phí thức ăn nuôi cá và được coi là giải pháp phát triển bền vững nuôi trồng thủy sản ở quy mô công nghiệp.
BFT đã được sử dụng phổ biến trong nuôi tôm chân trắng tại các trại nuôi tôm ở nhiều nước Đông Nam Á. Ở nước ta, trong những năm qua Viện Nghiên cứu Nuôi trồng thủy sản I đã triển khai ứng dụng thử nghiệm BFT trong nuôi tôm chân trắng và cá rô phi. Năm 2012, một nhóm cán bộ của Viện đã nghiên cứu ứng dụng BFT trong nuôi thâm canh cá rô phi thương phẩm nhằm đánh giá khả năng áp dụng công nghệ này tại Việt Nam.
Mô hình ứng dụng BFT trong nuôi thâm canh cá rô phi thương phẩm gồm 2 mô đun, mỗi mô đun có 3 ao với diện tích trung bình mỗi ao trong một mô đun là 2.000 m2 và 1.000 m2. Ao nuôi có bờ bê tông, đáy ao lót bạt HDPE, độ sâu mức nước ao >1,5 m. Trong quá trình nuôi không thay nước, chỉ bổ sung lượng nước thất thoát do bốc hơi hoặc bị thấm.
Cá giống thả nuôi là cá rô phi đơn tính đực dòng NOVIT 4, có cỡ trung bình 7,1 g/con, được nuôi với mật độ 5 con/m2 ao. Cho cá ăn thức ăn công nghiệp dạng viên nổi mỗi ngày 2 lần với lượng cho ăn bằng nhau vào lúc 8 giờ sáng và 3 giờ chiều, khẩu phần ăn đáp ứng 90% mức độ thỏa mãn trung bình. Mỗi tuần ngừng cho cá ăn 1 ngày để kích thích cá sử dụng sinh khối biofloc trong ao.
Nguồn cacbon bổ sung vào ao nuôi (1 lần/tuần) là rỉ đường có hàm lượng cacbon chiếm 37,5%, được dùng để điều chỉnh tỷ lệ cacbon/nitơ trong ao nhằm tạo môi trường thuận lợi cho biofloc phát triển và hạn chế ô nhiễm môi trường ao nuôi. Lượng biofloc mồi bổ sung trong tháng đầu là 3 – 5 ppm/ngày; trong những tháng tiếp theo dùng chế phẩm sinh học thương mại trong thành phần vi sinh hữu ích có nhóm Bacillus để duy trì ổn định các biofloc trong ao.
Trong quá trình nuôi, vận hành hệ thống sục khí đáy suốt ngày đêm kết hợp với máy quạt nước để trộn đều nước ao từ tầng đáy lên tầng mặt và tạo dòng nước chảy trong ao. Trong 2 tháng đầu chỉ chạy máy quạt nước khi bón bổ sung rỉ đường và biofloc mồi. Sau đó sử dụng cả sục khí đáy và quạt nước liên tục cho đến khi thu hoạch để duy trì dưỡng khí và đảm bảo biofloc lơ lửng trong nước.
Sau 177 ngày nuôi thâm canh cá rô phi thương phẩm có ứng dụng BFT, mô hình đã thu được kết quả như sau: Khối lượng trung bình của cá nuôi đạt 624,2 g/con, tốc độ tăng trưởng trung bình 3,53 g/con/ngày, thời gian cá đạt đến cỡ trung bình 500 g/con sớm hơn 18 ngày so với nuôi không ứng dụng BFT; Hệ số chuyển đổi thức ăn trung bình 1,35 – giảm 20,6% so với nuôi không ứng dụng BFT; Tỷ lệ sống của cá nuôi đạt 81,6 – 85,7%; Năng suất đạt 23,6 tấn/ha/vụ nuôi 6 tháng; Hiệu quả sử dụng prôtêin là 2,65 g; Tỷ lệ prôtêin thức ăn chuyển hóa thành sinh khối là 50,48% – tăng 10,41% so với nuôi không ứng dụng BFT. Môi trường ao nuôi được duy trì sạch sẽ do công nghệ này có thể chuyển hóa tới 51% lượng nitơ đầu vào hệ thống nuôi thành sinh khối.
Về hiệu quả kinh tế của mô hình, các số liệu cho thấy: Tổng đầu tư cho 1ha nuôi thâm canh cá rô phi thương phẩm có ứng dụng BFT là 526,662 triệu đồng; Tổng doanh thu 627,600 triệu đồng; Lãi ròng 100,938 triệu đồng; Tỷ lệ lợi nhuận/vốn đạt 19,17% cho một chu kỳ nuôi 6 tháng; Giá thành 1 kg cá thương phẩm là 23.316 đồng, giá bán trung bình 26.500 đồng/kg, người nuôi lãi 3.184 đồng/kg.
Tóm lại, việc ứng dụng BFT trong nuôi thâm canh cá rô phi thương phẩm đã đạt kết quả rõ rệt, thể hiện qua việc thúc đẩy tốc độ tăng trưởng của cá nuôi, năng suất nuôi đạt cao, hiệu quả sử dụng thức ăn được cải thiện, góp phần làm giảm ô nhiễm môi trường ao nuôi. Tuy nhiên, theo nhận xét của nhóm nghiên cứu, mô hình này phù hợp với những cơ sở nuôi có khả năng đầu tư cơ sở hạ tầng và công nghệ.
Theo Thông tin Khuyến nông Việt Nam, Số 20/2014 – Khuyến Nông VN, 30/12/2014
Bệnh của cá rô phi và biện pháp phòng trị
Một trong những yếu tố quan trọng để tăng năng suất nuôi thâm canh cá rô phi là quản lý tốt sức khỏe vật nuôi. Nước ta nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa, có điều kiện khí hậu ấm áp để sản xuất cá rô phi hướng tới mục tiêu xuất khẩu nhưng đồng thời đó cũng là môi trường cho bệnh tật phát triển. Tuy là loài cá nuôi bị sốc với biến đổi của môi trường và có khả năng kháng một số bệnh nhưng trong quá trình ương nuôi cá giống và nuôi cá thương phẩm thường gặp một số bệnh sau:
1.1. Bệnh xuất huyết
Tác nhân gây bênh:
Cầu khuẩn Streptococcus sp, Gram dương.
Dấu hiệu bệnh lý:
Ðầu tiên cá yếu bơi lờ đờ, kém ăn hoặc bỏ ăn, hậu môn, gốc vây chuyển màu đỏ; mắt, mang, cơ quan nội tạng và cơ xuất huyết; máu loãng; thận, gan, lá lách mềm nhũn. Cá bệnh nặng bơi quay tròn không định hướng, mắt đục và lồi ra, bụng trương to.
Phân bố và lan truyền bệnh:
Bệnh gặp ở nhiều loài cá nước ngọt. Khi nuôi cá rô phi năng suất cao trong hệ tuần hoàn khép kín, cá dễ phát bệnh. Bệnh có thể lây cho người khi chế biến cá không vệ sinh an toàn.
Phòng trị bệnh:
Bón vôi (CaO hoặc CaCO3 hoặc CaMg(CO3)2) tùy theo pH môi trường, liều lượng 1-2kg/100m3, 2 – 4 lần/tháng.
Dùng Erythromyxin: trộn vào thức ăn từ 3-7 ngày, dùng 2-5 g/100kg cá/ngày. Có thể phun xuống ao nồng độ 1-2 ppm, sau đó sang ngày thứ 2 trộn vào thức ăn 4 g/100kg cá, từ ngày thứ 3-5 giảm còn một nửa. Thuốc KN-04-12 cho ăn 4g/1kg cá/ngày và 3 – 6 ngày liên tục. Vitamin C phòng bệnh xuất huyết, liều dùng thường xuyên 20 – 30mg/1kg cá /ngày, liên tục 7-10 ngày.
1.2. Bệnh viêm ruột
Tác nhân gây bệnh:
Vi khuẩn Aeromonas hydrophila, Gram âm.
Dấu hiệu bệnh lý:
Tương tự bệnh xuất huyết do cầu khuẩn Streptococcus sp. Bệnh tích điển hình ruột trương to,chứa đầy hơi.
Phân bố và lan truyền bệnh
Thường gặp ở cá rô phi nuôi thương phẩm và cá bố mẹ nuôi sinh sản khi môi trường nuôi bị ô nhiễm, đặc biệt là thức ăn không đảm bảo chất lượng, tỷ lệ nhiễm bệnh thấp.
Phòng trị bệnh
Dùng một số kháng sinh cho cá ăn như Erythromyxin hoặc Oxytetramyxin, liều dùng 10 – 12 g/ 100 kg cá/ngày đầu, từ ngày thứ 2-7 liều bằng 1/2 ngày đầu; thuốc KN-04-12.
1.3. Bệnh trùng bánh xe
Tác nhân gây bệnh:
Một số loài trong họ trùng bánh xe Trichodinidae như : Trichodina centrostrigata, T. domerguei domerguei, T. heterodentata, T. nigra, T. orientalis, Trichodinella epizootica, Tripartiella bulbosa, T. clavodonta.
Dấu hiệu bệnh lý:
Khi mới mắc bệnh, trên thân, vây cá có nhiều nhớt màu hơi trắng đục, ở dưới nước thấy rõ hơn so với khi bắt cá lên cạn. Da cá chuyển màu xám, cá cảm thấy ngứa ngáy, thường nổi từng đàn lên mặt nước. Một số con tách đàn bơi quanh bờ ao. Khi bệnh nặng trùng bám dày đặc ở vây, mang, phá huỷ các tơ mang khiến cá bị ngạt thở, những con bệnh nặng mang đầy nhớt và bạc trắng. Cá bơi lội mất phương hướng. Cuối cùng cá lật bụng mấy vòng, chìm xuống đáy ao và chết.
Phân bố và lan truyền bệnh
Trùng bánh xe gây bệnh chủ yếu ở giai đoạn cá giống, là bệnh ký sinh đơn bào nguy hiểm nhất của giai đoạn này. Trùng bánh xe ít gây bệnh ở giai đoạn cá thịt. Khi ương cá trong nhà, bệnh gây ảnh hưởng nghiêm trọng tỷ lệ chết cao 70-100%. Bệnh thường phát vào mùa xuân, mùa thu, khi nhiệt độ nước 25-30 độ C.
Phòng trị bệnh
Dùng nước muối NaCl 2-3% tắm cho cá 5-15 phút, dùng CuSO4 nồng độ 3-5 ppm tắm cho cá 5-15 phút hoặc phun trực tiếp xuống ao với nồng độ 0,5-0,7 ppm (0,5-0,7g cho 1 m3 nước). Dùng formalin nồng độ 200-250 ppm (200-250 ml/m3) tắm trong 30-60 phút hoặc nồng độ 20-25 ppm (20-25 ml/m3) phun xuống ao.
1.4. Bệnh trùng quả dưa
Tác nhân gây bệnh: trùng quả dưa Ichthyophthyrius multifiliis.
Dấu hiệu bệnh lý: Da, mang, vây của cá bệnh có nhiều trùng bám thành các hạt lấm tấm rất nhỏ, màu hơi trắng đục (đốm trắng), có thể thấy rõ bằng mắt thường (người nuôi cá còn gọi là bệnh vẩy nhót . Da, mang cá có nhiều nhớt, màu sắc nhợt nhạt.
Cá bệnh nổi đầu trên tầng mặt, bơi lờ đờ yếu ớt. Lúc đầu cá tập trung gần bờ, nơi có cỏ rác, quẫy nhiều do ngứa ngáy. Trùng bám nhiều ở mang, phá hoại biểu mô mang làm cá ngạt thở. Khi cá yếu quá chỉ còn ngoi đầu lên để thở, đuôi bất động cắm xuống nước.
Phân bố và lan truyền bệnh
Bệnh gặp ở nhiều loài cá nuôi. Cá rô phi lưu qua đông ở miền Bắc hoặc nuôi trong nhà, thường bị bệnh trùng quả dưa làm cá chết hàng loạt. Bệnh phát vào mùa xuân, mùa đông.
Phòng trị bệnh
- Dùng xanh malachit phun trực tiếp xuống ao hoặc bể kính với nồng độ 0,1- 0,3 ppm 2 lần/tuần.
- Cá nuôi lồng vào mùa phát bệnh thường xuyên treo xanh malachit trong lồng, liều lượng 5g/10m3 lồng.
- Dùng formalin nồng độ 200-250 ppm (200-250 ml/m3) tắm trong 30-60 phút hoặc phun xuống ao với nồng độ 20-25 ppm(20-25 ml/m3), 2 lần/tuần.
1.5. Bệnh sán lá đơn chủ
Tác nhân gây bệnh: sán lá đơn chủ Cichlidogyrus tilapiae, C. sclerosus, Gyrodactylus niloticus
Dấu hiệu bệnh lý: Cichlidogyrus, Gyrodactylus ký sinh trên da và mang cá, làm cho mang và da cá tiết ra nhiều dịch nhờn ảnh hưởng đến hô hấp cá. Tổ chức da và mang có sán ký sinh bị viêm loét tạo điều kiện cho vi khuẩn, nấm và một số sinh vật xâm nhập gây bệnh.
Phân bố và lan truyền bệnh
Cá có thể bị bệnh khi ương giống với mật độ dày và có thể gây chết hàng loạt trong giai hoặc bể ương. Bệnh phát vào mùa xuân, mùa thu, mùa đông.
Phòng trị bệnh
- Dùng nước muối NaCl 2-3% tắm cho cá 5-15 phút
- Dùng KMnO4 nồng độ 20 ppm (20g/m3) tắm cho cá 15 -30 phút
- Dùng formalin nồng độ 200 – 250 ppm (200 – 250 ml/m3) tắm trong 30-60 phút hoặc nồng độ 20 – 25 ppm (20 – 25 ml/m3) phun xuống ao.
1.6. Bệnh rận cá
Tác nhân gây bệnh: rận cá Caligus sp.
Dấu hiệu bệnh lý: Rận cá thường ký sinh ở vây, mang cá rô phi, làm cho da cá bị viêm loét tạo điều kiện cho vi khuẩn, nấm, ký sinh trùng khác xâm nhập, vì vậy nên nó thường cùng lưu hành với bệnh đốm trắng, bệnh đốm đỏ, lở loét nên dẫn đến làm cá chết hàng loạt. Cá bị Caligus ký sinh có cảm giác ngứa ngáy, vận động mạnh trên mặt nước, bơi lội cuồng dại, cường độ bắt mồi giảm.
Phân bố và lan truyền bệnh
Rận cá ký sinh ở nhiều loài cá nuôi. Cá rô phi nuôi mật độ dày, rận cá ký sinh đã gây chết hàng loạt ở các đầm nước lợ hoặc nước ngọt.
Phòng trị bệnh
- Dùng KMnO4 nồng độ 3-5 ppm (3-5g/m3) hoặc chlorin nồng độ 1ppm (1g/m3) phun xuống ao.
- Dùng formalin nồng độ 20-25 ppm(20-25 ml/m3) phun xuống ao.
Bùi Quang Tề, Viện nghiên cứu Nuôi trồng thủy sản I (Tạp chí thuỷ sản)
Chú ý khi nuôi cá rô phi thương phẩm
Khi nuôi quảng canh và bán thâm canh, cá rô phi thường ít bị mắc bệnh do loại cá này ít sốc với biến đổi của môi trường và khả năng kháng bệnh tốt. Tuy nhiên, khi nuôi thâm canh, loại cá rô phi có thể gặp một số bệnh:
- Bệnh xuất huyết
Khi xuất hiện bệnh, cá thường bơi lờ đờ, kém ăn hoặc bỏ ăn; hậu môn, gốc vây chuyển màu đỏ; mắt, mang, nội tạng và cơ xuất huyết; máu loãng, thận, gan, lá lách mềm nhũn. Khi bị bệnh nặng cá bơi quay tròn không định hướng, mắt đục và lồi bụng trương to. Bệnh này thường xuất hiện ở cá rô phi nuôi cao sản.
Điều trị bệnh bằng bón vôi, vitamin C, dùng thuốc ertronyxin tắm cho cho cá bệnh hoặc phun vào nước 10 – 30g/m3 nước trong 1 giờ, KNO4- 12 trộn vào thức ăn cho cá từ 2- 4g/kg cá/ngày.
- Bệnh viêm ruột
Bệnh này có triệu trứng như bệnh xuất huyết, ngoài ra ruột thường trương to, chứa đầy hơi. Khi phát hiện bệnh dùng Oxytetramyxin tắm cho cá bệnh, hoặc phun thuốc vào nước với liều lượng 20- 50g/m3 nước.
- Bệnh trùng bánh xe
Khi xuất hiện bệnh, thân và vây cá có màu trắng đục, da cá chuyển màu xám, cá ngứa ngáy và thường nổi từng đàn lên mặt nước. Nếu bệnh nặng, trùng thường bám dày đặc ở vây, mang, phá hủy các tơ mang, sau đó cá lật bụng quay đầu mấy vòng và chết rất nhanh. Bệnh này thường xuất hiện ở cá rô phi giống. Điều trị loại bệnh này bằng cách dùng nước muối, CuSO4, Formalin tắm cho cá bệnh hoặc dùng các loại thuốc này phun vào nước với liều lượng 2g/m3 nước trong 5 – 15 phút.
- Bệnh trùng quả dưa
Khi bệnh xuất hiện, da, mang, vẩy cá thường xuất hiện các hạt lấm tấm nhỏ, màu hơi trắng đục, có nhiều nhớt, màu sắc nhợt nhạt, cá bệnh bơi lờ đờ yếu ớt trên mặt nước, tơ mang bị phá hủy làm cá ngạt thở. Khi yếu, cá chỉ còn ngoi lên mặt nước để thở, đuôi bất động… Bệnh này thường phát ở cá giống và cá thịt, nhất là cá nuôi trong lồng. Điều trị bệnh bằng cách tắm các dung dịch Xanhmalachit, Formalin cho cá với liều lượng 1- 4g/m3 trong thời gian 30- 60 phút.
- Bệnh sán lá đơn chủ
Sán ký sinh trên da và mang khiến da cá tiết da nhiều dịch nhờn ảnh hưởng đến sự hô hấp. Da và mang bị sán ký sinh trùng gây ra viêm loét, tạo điều kiện cho vi khuẩn, nấm và một số vi sinh vật gây bệnh. Bệnh này xuất hiện chủ yếu ở cá giống. Điều trị bệnh bằng cách tắm cho cá bằng nước muối, Formalin, thuốc tím hoặc phun vào nước với tỷ lệ 10 – 15g/m3 trong 1-2 giờ.
NTNN, 11/9/2003
Hướng dẫn phòng, chống bệnh do Tilapia lake virus trên cá rô phi
Theo cảnh báo của Mạng lưới các Trung tâm Nuôi trồng thủy sản khu vực châu Á – Thái Bình Dương (NACA), Tổ chức Nông lương Liên hợp quốc (FAO) và Tổ chức Thú y thế giới (OIE), gần đây đã có sự bùng phát và lây lan của dịch bệnh do Tilapia lake virus (TiLV) gây ra trên cá rô phi tại 3 châu lục, đặc biệt là khu vực châu Á – Thái Bình Dương.
Bệnh này có thể lây lan qua việc vận chuyển cá rô phi giống mang mầm bệnh từ nước này sang nước khác; hiện tại, 6 nước và vùng lãnh thổ trên thế giới đã chính thức công bố bệnh, trong đó có Thái Lan và Đài Loan. Theo nhận định của OIE, FAO và NACA, Việt Nam là nước có nguy cơ rất cao đối với bệnh này. Để đối phó với dịch bệnh nguy hiểm này, Cục Thú y – Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã ban hành Công văn số 1357/TY-TS về việc hướng dẫn phòng, chống bệnh do TiLV trên cá rô phi. Một số nội dung chính của Hướng dẫn như sau:
- Dấu hiệu nhận biết bệnh do TiLV trên cá rô phi
a. Một số đặc điểm dịch tễ của bệnh
- Vi rút TiLV gây bệnh ở các loài cá rô phi nuôi, gồm: Cá rô phi vằn (Nile tilapia, Oreochromis niloticus), cá rô phi lai tạo (O. niloticus × O. aureus hybrids) và cá rô phi đỏ/cá diêu hồng (Oreochromis sp.). Các loài cá rô phi hoang dã như cá rô phi xanh (Oreochromis aureus), cá rô phi Mango (Sarotherodon galilaeus), Tilapia zilli và Tristamellasimonis intermedia cũng mẫn cảm với vi rút này.
- Tỷ lệ chết trong các ổ dịch tự nhiên từ 9 – 90%; bệnh xuất hiện ở mọi lứa tuổi nhưng chủ yếu tập trung ở cá giống (cá con). Cá rô phi đỏ (cá diêu hồng) giống nuôi lồng bị nhiễm bệnh, tỷ lệ chết có thể lên tới 90% trong một tháng sau thả.
- Bệnh lây lan theo chiều ngang, từ cá bệnh sang cá khỏe trong cùng ao nuôi, trại nuôi, qua nguồn nước, dụng cụ, ….
b. Dấu hiệu bệnh lý
- Bệnh gây tỷ lệ chết cao trong đàn cá nuôi, đặc biệt ở cá nhỏ, do đó khi thấy có hiện tượng cá rô phi nuôi chết nhiều, không rõ nguyên nhân thì có thể nghi đây là bệnh do vi rút TiLV gây ra.
- Cá mắc bệnh có biểu hiện chán ăn, màu sắc cơ thể biến đổi (sẫm màu); thay đổi tập tính bơi lội (như tập trung ở trên bề mặt, bơi lờ đờ), ngừng kéo đàn, hôn mê trước khi chết.
- Các dấu hiệu bên ngoài có thể có, gồm: Hiện tượng xung huyết, xuất huyết não; ăn mòn và lở loét từ dạng điểm đến mảng trên da; mang tái nhợt; mắt bị teo lại hoặc lồi ra, có hiện tượng đục thủy tinh thể; xoang bụng và hậu môn phình to; vẩy dựng lên, có thể bong tróc; đuôi bị ăn mòn.

Một số hình ảnh cá rô phi bị bệnh do TiLV gây ra
2. Các biện pháp phòng, chống dịch bệnh
Hiện nay, chưa có biện pháp kiểm soát hiệu quả dịch bệnh này, vì vậy cần áp dụng các biện pháp sau khi nghi ngờ hoặc phát hiện bệnh do TiLV gây ra trên cá rô phi:
- Thực hiện các biện pháp phòng chống được quy định tại Thông tư số 04/2016/TT-BNNPTNT ngày 10/5/2016 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn quy định về phòng, chống dịch bệnh động vật thủy sản; trong đó lưu ý các biện pháp sau:
- Nếu có hiện tượng cá rô phi chết nhiều bất thường, phải báo ngay cho cơ quan thú y nơi gần nhất để triển khai kịp thời các biện pháp phòng chống; các Chi cục thực hiện chế độ báo cáo theo quy định tại khoản 1, 5 Điều 5 Thông tư số 04/2016/TT-BNNPTNT và Công văn số 1245/TY-TS ngày 24/6/2016 của Cục Thú y về việc thống nhất sử dụng các biểu mẫu báo cáo dịch bệnh động vật thủy sản;
- Tuyệt đối không vận chuyển cá rô phi sống từ các ao nuôi đã bị bệnh sang các ao/vùng nuôi không bị bệnh để hạn chế dịch bệnh lây lan;
- Không vứt cá chết, cá bệnh, xả thải nước ao nuôi bị bệnh nhưng chưa qua xử lý ra ngoài môi trường làm lây lan dịch bệnh; xử lý cá chết và chất thải theo hướng dẫn tại Phụ lục VI Thông tư số 04/2016/TT-BNNPTNT.
- Cá rô phi giống trước khi thả nuôi cần được lấy mẫu gửi phòng thử nghiệm có đủ năng lực để xét nghiệm sàng lọc đối với mầm bệnh TiLV.
- Áp dụng các biện pháp an toàn sinh học, tăng cường quản lý ao nuôi để hạn chế mầm bệnh lây lan qua dụng cụ, phương tiện và con người (sử dụng các biện pháp vệ sinh, tiêu độc sát trùng).
Cục Thú y – Khuyến nông VN, 02/10/2017
Quy trình phòng trị bệnh cho cá rô phi nuôi lồng, bè trên hồ thủy điện Sơn La
Cá rô phi nuôi lồng thường bị một số bệnh như: bệnh xuất huyết, bệnh viêm ruột, bệnh nấm thủy mi, bệnh trùng bánh xe… Quy trình này quy định trình tự nội dung việc phòng và trị bệnh cho cá rô phi đơn tính (Oreochromis niloticus), áp dụng cho các cơ sở nuôi cá rô phi đơn tính bằng hình thức nuôi lồng trên hồ thủy điện Sơn La.
- Chọn vị trí và đặt lồng nuôi
1.1. Vị trí đặt lồng bè
- Khu vực nước sạch, không bị ảnh hưởng bởi chất thải sinh hoạt, chất thải sản xuất khác.
- Tránh xa nơi tàu thuyền thường qua lại nhiều.
- Nuôi ở hồ chứa nước phải chọn khu vực có dòng chảy, không nuôi ở các eo ngách.
1.2. Môi trường nước nơi đặt lồng
- pH = 7,5 – 8,0
- Oxy hoà tan (O2) lớn hơn 5 mg/lít
- Amoniac (NH3) không lơn hơn 0,01 mg/lít
- Nitrit (NO2) và sunfua hydro (H2S) nhỏ hơn 0,01 mg/lít
1.3. Cách đặt lồng
- Diện tích lồng chỉ được chiếm không nhiều hơn 0,05% diện tích khu vực mặt nước lúc cạn nhất.
- Mỗi khu vực đặt 2 – 5 bè (mỗi bè 4 lồng có diện tích 10 m2), khoảng cách giữa các cụm bè là 200 – 500 m. Các bè phải đặt so le, khoảng cách giữa các bè là 10 – 15 m, đáy lồng cách mặt đáy không nhỏ hơn 0,5 m.
- Chọn giống
- Ngoại hình: Cỡ cá đồng đều, cân đối, vây vảy hoàn chỉnh, không sây sát, không mất nhớt, màu sắc tươi sáng
- Trạng thái hoạt động: Nhanh nhẹn, bơi theo đàn, phản ứng nhanh với tiếng động, ánh sáng.
- Tình trạng sức khỏe: Không có dấu hiệu bệnh lý, khi bắt buộc xét nghiệm không nhiễm những bệnh nguy hiểm của loài, tỷ lệ dị hình không lớn hơn 1%.
- Kích cỡ: 8 – 10 cm/con, khối lượng 15 – 20 g/con.
- Bảo đảm môi trường nuôi và phòng bệnh cho cá nuôi lồng
Sử dụng một số hoá chất sau đây treo trong lồng để khử trùng môi trường nước, diệt các tác nhân gây bệnh ngoại ký sinh cho cá nuôi.
3.1. Vôi nung (CaO) để khử trùng và khử chua cho môi trường nước:
– Dùng vôi nung đựng trong bao tải treo ở đầu nguồn nước hoặc khu vực cho ăn trong các lồng bè.
- Túi treo cách mặt nước khoảng 1/3 – 1/2 độ sâu của nước trong lồng/bè.
- Liều lượng sử dụng là 2 – 4 kg vôi cho 10 m3 nước.
- Khi vôi tan hết lại tiếp tục treo túi khác
3.2. Hóa chất để khử trùng, phòng bệnh vi khuẩn, nấm và bệnh ký sinh trùng
a. VICATO (Trichlocyanuric acid – TCCA)
- Thuốc đóng viên 200 g/viên để treo trong lồng, thuốc tan dần ra ngoài khoảng 1 tuần.
- Liều lượng sử dụng là 200 g/10 m3 nước, 2 tuần một lần (vị trí và độ sâu treo như túi vôi).
b. Rescus
- Thuốc dạng nước đóng chai hòa nước té trực tiếp xuống lồng nuôi cá
- Cách dùng: Hòa tan 1 lít thuốc/40 lít nước té vào cá và xung quanh lồng.
3.4. Sulphat đồng (CuSO4) để phòng bệnh ký sinh đơn bào:
– Thuốc đựng trong túi vải treo trong lồng, bè (vị trí và độ sâu treo như túi vôi).
- Liều lượng sử dụng là 50 g/10 m3 nước, mỗi tuần treo 2 lần.
3.5. Cho cá ăn thuốc phòng bệnh nội ký sinh
Sử dụng một số loại thuốc sau đây trộn lẫn với thức ăn cho cá ăn để phòng bệnh nội ký sinh (bệnh nhiễm khuẩn máu, bệnh giun sán).
a. Thuốc KN-04-12:
– Thuốc KN-04-12 được phối chế từ những cây thuốc có tác dụng diệt khuẩn.
- Cho cá ăn định kỳ 30 – 45 ngày 1 đợt thuốc KN-04-12. Mỗi đợt cho ăn 3 ngày liên tục, liều lượng 2g/kg cá/ngày; phòng bệnh nhiễm khuẩn máu (đốm đỏ, xuất huyết, thối mang, viêm ruột…);
- Trị bệnh cho cá ăn 4g thuốc/kg cá/ngày, cho ăn 7 – 10 ngày liên tục.
- Mùa xuất hiện bệnh nhiễm khuẩn máu từ tháng 3 – 5 và tháng 8 – 10.
b. Thuốc kháng sinh:
- Dùng một số loại thuốc kháng sinh: Doxycyllin, Sulphatrim, AntiGerm… trộn vào thức ăn tinh cho cá để trị bệnh nhiễm khuẩn máu (Streptoccocus sp,Aeromonassp, Pseudomonassp).
- Liều lượng sử dụng là 100 mg/kg cá/ngày thứ nhất; từ ngày thứ 2 đến ngày thứ 7 cho ăn 50 mg/kg cá/ngày. Khi cá bị bệnh nhiễm khuẩn máu cho ăn 1 đợt, mỗi đợt kéo dài không quá 7 ngày.
c. Men tiêu hóa (Lacto-Plus hoặc HI-Lactic):
- Trộn men tiêu hóa vào thức ăn cho cá ăn hàng ngày.
- Liều lượng sử dụng là 1,0 – 3,0 g/kg thức ăn.
d. Vitamin C:
- Định kỳ 1 tháng cho cá ăn 1 đợt 7 ngày, trộn vitamin C vào thức ăn cho cá ăn hàng ngày;
- Liều lượng sử dụng là 10,0 – 30,0 mg/kg cá/ngày.
- Theo dõi sức khoẻ cá
- Hàng ngày phải chú ý theo dõi các hiện tượng có thể xảy ra đối với cá nuôi trong lồng/bè như: cá nổi đầu do thiếu oxy, cá bị nhiễm độc do nước bị ô nhiễm, cá kém ăn hoặc bỏ ăn do môi trường thay đổi xấu, thức ăn kém chất lượng hoặc cá bị nhiễm bệnh.
- Kịp thời có biện pháp xử lý các hiện tượng trên bằng cách: quấy sục khí làm tăng lượng khí oxy hoà tan, di chuyển lồng/bè ra khỏi khu vực môi trường bị ô nhiễm bẩn, cho cá ăn đủ chất lượng và số lượng, loại bỏ cá bệnh ra khỏi lồng.
- Ở khu vực nuôi có bệnh xảy ra, cần cách ly những lồng bị bệnh bằng biện pháp kéo lồng bè xuống vị trí cuối dòng nước chảy và kịp thời chữa bệnh cho cá nuôi.
- Khi thấy cá nuôi bị bệnh nặng và có khả năng lây lan, phải tiến hành thu hoạch ngay (kể cả phải thu cá trong lồng còn lại, nếu đã đạt yêu cầu thương phẩm).
Lê Ngọc Quân – Phòng Khuyến ngư, Trung tâm Khuyến nông Quốc gia – Khuyến nông VN, 15/09/2015
Phát hiện và phòng trị một số bệnh trên cá rô phi thương phẩm
Đối với cá rô phi thương phẩm, hai bệnh nguy hiểm nhất và có thể gây chết hàng loạt, đó là bệnh xuất huyết và bệnh viêm ruột. Trong quá trình nuôi bà con nên tuân thủ đúng các nguyên tắc phòng và trị bệnh, đồng thời thực hiện chăm sóc ao nuôi theo quy trình kỹ thuật sẽ hạn chế tối đa dịch bệnh trên đàn cá.
- Bệnh xuất huyết:
Triệu chứng của bệnh xuất huyết:
Nhìn bên ngoài:
- Cá bơi tách đàn, bơi lờ đờ, xoáy tròn một lúc sau đó chìm dưới đáy ao.
- Da biến đổi sang màu tối sẫm, các hốc vây và nắp mang bị xuất huyết.
- Mắt cá bị đục mờ, có thể bị lồi cả mắt ra.
Biểu hiện của cá rô phi bị bệnh xuất huyết.
Nội tạng bên trong:
- Khi cắt mang, thấy có đoạn mang bị sơ. Nếu cá bị nặng, mang chuyển sang màu trằng, có bùn bám lên trên.
- Khi mổ bụng thấy ruột cá không có thức ăn, bị xuất huyết, gan thâm tím, thận nhũn. Lúc này, ta có thể khẳng định chắc chắn cá rô phi bị bệnh xuất huyết.
Nguyên nhân gây bệnh xuất huyết:
Cá bị bệnh xuất huyết do cá bị nhiễm vi khuẩn Streptococcus sp. Khi cá bị ô nhiễm môi trường nước (do dư thừa thức ăn, bón phân nhiều mà không quản lý tốt môi trường ao nuôi), gặp nhiệt độ cao, vi khuẩn này sẽ phát triển cao, gây bệnh cho cá rô phi. Ngoài ra, nếu trong quá trình vận chuyển cá giống, dụng cụ vận chuyển không đảm bảo làm cá bị sây sát cũng làm vi khuẩn dễ xâm nhập vào cơ thể cá, lây lan nhanh trong quần đàn, gây ra bệnh xuất huyết và có thể gây chết cá hàng loạt.
Cá ở giai đoạn 2 – 3 tháng tuổi dễ bị nhiễm bệnh và chết nhiều nhất.
Trị bệnh xuất huyết:
- Sử dụng kháng sinh như Doxycilne hoặc Enrofloxacine, 2-5g/100kg cá/ ngày, liên tục trong 5 – 7 ngày. (Lưu ý: Enrofloxacine đã bị cấm sử dụng trong nuôi trồng thủy sản)
- Cách sử dụng: trộn thuốc với cám, để sau 30 phút mới tiến hành cho cá ăn. Chú ý trước khi trộn thuốc 10-15 phút, nên xịt nước vào cám để cám dễ ngấm thuốc.
- Còn đối với thức ăn tự chế, có thể nấu chín ở dạng sền sệt. Sau đó để nguội ở 20-30 độ rồi thuốc thật đề. Để khoảng 30 phút sau thì nắm lại và cho cá ăn.
- Trong quá trình trộn thức ăn cho cá, chú ý nên giảm đi một nửa lượng thức ăn hàng ngày sau đó mới trộn thuốc. Như vậy, cá sẽ ăn hết toàn bộ lượng thức ăn có thuốc.
- Kết hợp xử lý môi trường nước:
- Dùng vôi bột, với lượng 1-3 kg/m3 nước, lưu ý không được rắc trực tiếp xuống ao, bởi cá sẽ lầm tưởng là thức ăn. Nếu cá ăn phải sẽ không tốt hoặc có thể chết nếu ăn nhiều. Do vậy, chúng ta cần phải hòa vôi bột cùng với nước sau đó té khắp ao, môi trường sẽ được cải thiện, giúp cá khỏe mạnh hơn.
- Hoặc dùng TCTA dạng viên sủi hay một số chế phẩm làm sạch môi trường( sử dụng theo hướng dẫn của nhà sản xuất).
- Chú ý khi ngừng dùng thuốc kháng sinh từ 20 – 30 ngày, người nuôi mới được thu hoạch cá, để không còn dư lượng kháng sinh trong thịt cá, làm ảnh hưởng đến sức khỏe của người tiêu dùng.
- Bệnh viêm ruột
Triệu chứng bệnh viêm ruột:
- Bơi tách đàn, lờ đờ; da chuyển màu tối hơn (biểu hiện giống ở bệnh xuất huyết).
- Bụng chướng rất to và hộ môn sưng đỏ có dịch nhầy chảy ra.
- Khi giải phẫu, thấy ruột đầy hơi.
Khi cá bị bệnh viêm ruột, hậu môn sưng đỏ và có nhiều chất nhờn.
Nguyên nhân gây bệnh:
Cá rô phi bị bệnh viêm ruột là do cá bị nhiễm vi khuẩn Aeromonas hydrophila hoặc là do ăn phải thức ăn nấm mốc, quá hạn sử dụng.
Trị bệnh:
- Cũng giống như khi trị bệnh xuất huyết, đối với cá bị bệnh viêm ruột, dùng kháng sinh như Doxycilne trộn với thức ăn để trị bệnh.
- Tuy nhiên để hiệu quả trị bệnh cao, cần cho cá ăn thêm một số chế phẩm sinh học hoặc một số vitamin để nâng cao sức đề kháng. Hàng tháng, cho cá ăn thêm vitamin C, với liều lượng 30-50mg/100 kg cá. Hiện nay, trên thị trường có bán thuốc tiên đắc thành phần chủ yếu là tỏi có hiệu quả rất tốt, có thể dùng cho cá.
- Phòng bệnh xuất huyết và viêm ruột:
Vệ sinh ao trước khi nuôi cá:
- Tát cạn ao, bắt cá tạp.
- Vét bùn.
- Rắc vôi bột và phơi đáy ao. Dùng 7 – 10 kg vôi bột cho 100 m2 đáy ao.
Trong quá trình chăm sóc:
- Dùng vôi bột theo định kỳ. Khối lượng: 2 – 3 kg vôi té 100 m3 nước tùy thuộc độ pH của nước.
- Dùng chế phẩm sinh học để khử trùng nước ao nuôi theo hướng dẫn của nhà sản xuất.
Ngoài ra, hàng tuần cần kiểm tra nước 1 lần, để xem mức độ tảo cũng như thức ăn tự nhiên trong ao, từ đó có cách điều chỉnh kịp thời. Màu nước ao thích hợp nuôi cá là màu nõn chuối.
Nguyễn Thị Hà – Viện Nghiên cứu Nuôi trồng thủy sản I (Theo Thông tin Khuyến nông Việt Nam Số 10/2014) – Khuyến nông VN, 16/09/2014
Nuôi cá rô phi an toàn
Thị trường ngày nay đòi hỏi cá rô phi cũng như các sản phẩm thủy sản nói chung phải bảo đảm an toàn vệ sinh thực phẩm. Vì vậy, người sản xuất phải quan tâm đến vấn đề này.
An toàn vệ sinh thực phẩm, đối với nuôi cá rô phi cần phải đạt những yêu cầu:
- Sản phẩm cá không bị nhiễm vi sinh đặt biệt là bệnh Streptrococus, không nhiễm hóa chất độc hại (Chloramfenicol) và không chứa các ion kim loại nặng như Cu++, Hg++, Pb++, Ng++, và Fe…
- Thịt cá không có mùi hôi của thức ăn, của môi trường như mùi bùn, mùi của tảo.
- Sản phẩm cá phải đạt gía trị dinh dưỡng, kích cỡ theo yêu cầu thị trường.
- Biện pháp nuôi cá rô phi an toàn vệ sinh thực phẩm như sau:
Điều kiện môi trường nuôi
Để nuôi cá rô phi an toàn vệ sinh thực phẩm, có thể tiến hành nuôi ở ao, hồ, ruộng chuyển đổi, trong lồng bè trên sông, hồ chứa và nước lợ. Song phải đảm bảo các điều kiện sau :
- Nước sạch, không bị ảnh hưởng của nước thải sinh hoạt, thuốc trừ sâu, nhà máy hóa chất, không mang nguồn lây nhiễm bệnh. Chất lượng nước đảm bảo các chỉ tiêu pH= 6,5-8,5, oxy hoà tan lớn hơn 3mg/l; khí H2S trong nước 0,02mg/l , NH3 nhỏ hơn 0,03mg/l; khí Cl trong nước nhỏ hơn 0,03mg/l và độ trong của nước từ 20 đến 30cm. Các ion kim loại nặng như Fe, Cu, Mg, Zn, Pb không vượt qúa mức cho phép. nuôi trong nước lợ độ mặn bảo đảm 5%o.
- Nguồn cấp nước vào ao chủ động và được kiểm soát trước khi vào ao và thải ra ngoài.
Điều kiện ao đầm và lồng bè nuôi cá
- Ao đầm nước ngọt
Diện tích thích hợp 4000 – 5000m2, mực nước ổn định từ 1,5 – 1,7m, nền đáy cứng, ít bùn. Bờ ao chắc chắn, đỉnh bờ cao hơn mực nước trong ao khi cao nhất là 0,5m. Ao đầm ở nơi thoáng có thời gian chiếu sáng dài, có hệ thống mương công hoàn chỉnh cấp nước, tiêu nước thuận lợi.
- Ao đầm nước lợ
Diện tích từ 0,5 đến 1ha, mực nước ổn đính, 1,2 – 1,5m. Có điều kiện cấp thoát nước chủ động.
- Nuôi ở lồng bè trên sông hồ
Nguyên liệu làm lồng bè là tre hóp, gỗ chịu nước, lưới dệt hoặc nhựa composite. Lồng có dạng hình khối chữ nhật kích thước phổ biến là :
3 x 2 x 1,7m (dài x rộng x cao) hoặc 4 x 3 x 1,7m.
Lồng bè nuôi ở sông lưu tốc dòng chảy 0,2 – 0,3m/gy. Nếu nuôi nhiều lồng , mỗi cụm không qúa 20 cái và cách nhau 150 – 200m.
Nuôi ở hồ chứa lưu tốc dòng chải 0,1 – 0,2m/gy. mỗi cụm lồng không qúa 15 cái và đặt cách nhau 200 – 300m.
Trước khi thả cái rô phi giống vào nuôi, ao, đầm, lồng bè phải được vệ sinh, cải tạo môi trường.
Đối với ao đầm: Tháo cạn nước cũ, bốc vét bùn phơi khô đáy ao (đối với ao không chua phèn) tiến hành cày nhẹ đáy ao, để ải nhằm cho đất xốp, đáy thống thoáng tăng được mầu mỡ cho ao. Đối với ao không thể thoát cạn được, dùng máy bơm áp lực lớn, bơm cạn nước, hút bùn. Sau đó dùng vôi cải tạo với lượng 10 – 12kg/100m2.
Đối với lồng bè : Cọ rửa sạch phơi khô, dùng vôi hoặc nước clorua vôi phun đều một lượt trong và ngoài lồng bè, sau đó phơi khô từ 1 – 2 ngày mới hạ thủy dùng. Lồng đặt cạnh đáy từ 3 – 4m và ngập nước từ 1 – 1,5m.
Tiêu chuẩn cá giống và mật độ nuôi
Cá rô phi nuôi an toàn vệ sinh thực phẩm phải có chất lượng như sau :
- Là dòng GIFT đơn tính sản xuất giống bằng công nghệ di truyền hoặc bằng hormon tính đực 17a methyltestosteron.
- Ngoại hình cân đối, không bị dị hình, trốc vảy, cỡ đồng đều bơi lội nhanh nhẹn.
- Không có dấu hiệu bệnh lý
- Chiều dài thân 5-6cm/con, khối lượng cơ thể 10-12g/con. nuôi trong ao đầm mật độ thả 2-3 hoặc 5-6con/m2 . Nuôi trong lồng bè mật độ thả 80 – 100 con/m3 hoặc từ 159 – 200 con/m3 .
Trước khi thả cá xuống ao, cá giống được vô trùng bằng ngâm tắm trong nước muối 3% trong 5 – 10 phút. Ở miền Bắc thả nuôi ao vào tháng 3 – 4, ở miền Nam thả giống nuôi quanh năm. Nên thả tập trung đủ mật độ trong vòng từ 3 – 7 ngày.
Thức ăn và chế độ cho ăn
Nuôi cá rô phi an toàn thực phẩm, thức ăn cho cá chủ yếu là chế biến công nghiệp có hàm lượng protein từ 20 – 30% và không chứa kháng sinh, hóa chất trong thức ăn. Nếu dùng thức ăn phối chế, thành phần gồm: Bột cá 10% + bột đậu tương 12% + khô lạc 15% + bột ngô 17% + bột sắn 5% + cám gạo 40% và 1% là Premix . Thức ăn nấu chín. Lượng thức ăn hàng ngày (kể cả thức ăn công nghiệp) là 10 – 15% khối lượng cá nuôi. Cứ 20 – 25 ngày định lượng khối lượng cá nuôi một lần để xác định khối lượng thức ăn.
Mỗi ngày cho ăn một lần vào buổi sáng và chiều, cho thức ăn vào sàn, đặt cố định nhiều địa điểm trong ao để dễ kiểm tra.
Chăm sóc cá nuôi
- Thường xuyên theo dõi mực nước, màu nước ao đầm nuôi. Nếu cạn nước phải cấp bù kịp thời . Nếu nước ao màu đen cấp thêm nước mới để pha loãng cho phù hợp hoặc tháo bỏ nước cũ.
- Định kỳ khảo sát hàm lượng oxy để vận hành máy quạt nước, nhất là về đêm, gần sáng.
- Định kỳ thay nước mới để kích thích cá sinh trưởng. Từ tháng nuôi thứ ba thay nước mỗi tháng 2 kỳ, mỗi kỳ thay và cây nước 1/3 lượng nước trong ao.
Từ tháng thứ 5 – 6 thay nước 4 lần/tháng mỗi lần từ 1/2 ao. Thường xuyên theo dõi hoạt động của cá trong ao, đầm, lồng bè, nếu phát hiện cá có biểu hiện khác thường khi bơi lội phải kiểm tra để xác định nguyên nhân.
- Cá nuôi ở lồng bè, cứ 3 ngày vệ sinh lồng một lần: cọ rữa phía ngoài và phía trong lồng. Phòng trị bệnh cho cá nuôi : Cá rô phi nuôi thâm canh thường gặp một số bệnh như: Nấm thủy my, trùng bánh xe, trùng qủa dưa, sán lá đơn chủ. Mỗi loại bệnh có biểu hiện triệu chứng phát sinh riêng. Cần kiểm tra hoạt động của cá và thân thể cá để có biện pháp phòng trừ. Để chủ động phòng bệnh cho cá trong qúa trình nuôi cần tiến hành như sau:
- Dùng vôi nông nghiệp CaCO3 phun xuống ao mỗi tháng từ 2 – 3 lần, mỗi lần 100 – 150kg/ha.
- Dùng chế phẩm sinh học Zeolite Granlax với lượng 100 – 150kg/ha, cứ 10 – 15 ngày dùng 1 lần.
Không dùng thuốc, hóa chất, kháng sinh trong danh mục cấm vào phòng trừ bệnh cho cá.
Thu hoạch cá
Nuôi từ 5 – 6 tháng cá đạt từ 0,5kg/con trở lên, tiến hành thu hoạch. Trước khi thu hoạch 2 – 3 ngày ngưng cho cá ăn, giảm mực nước từ 1/3 – 1/2 khối lượng nước trong ao, dùng lưới vây bắt, tránh không để cá sặc bùn. Sau đó tháo cạn dùng vợt bắt hết . Cá đưa vào các dụng cụ chứa nước sạch. Tuyển chọn những con không đủ quy cỡ thu hoạch nuôi tiếp và thu hoạch sau.
Đối với cá nuôi ở lồng bè, dùng vợt thu dần và tuyển lựa cá nhỏ để nuôi tiếp.
Cá thu hoạch được cần vận chuyển tiêu thụ xa phải dùng oxy để vận chuyển, không dùng thuốc gây mê cho cá.
Nuôi cá rô phi an toàn vệ sinh thực phẩm nhiều nơi đã đạt năng suất 10 – 15 tấn/ha và 30 – 40kg/m3 lồng. Tỷ lệ sống 80 – 85% cỡ cá thu hoạch 0,5 – 0,6kg/con
Khoa học và đời sống, 18/5/2004
Lồng bè nuôi cá điêu hồng
Cá rô phi được Bộ Thủy sản xác định là mặt hàng xuất khẩu chủ lực trong thời gian tới. Loài cá này có năng suất cao và mau lớn, thịt ngon nên được thị trường trong và ngoài nước ưa chuộng. Sau vụ nuôi (3 – 4 tháng), bình quân mỗi lồng 25 m2 cho lãi từ 10 – 15 triệu đồng. Để giúp nông dân nuôi cá đúng kỹ thuật, hiệu quả cao, Khoa Thủy sản Đại học Nông Lâm TP. Hồ Chí Minh có cách thiết kế lồng tiết kiệm và cách nuôi cá rô phi đỏ (điêu hồng).
THIẾT KẾ LỒNG, BÈ LƯỚI
Tiết kiệm vì so với bè gỗ, chi phí làm bè lưới thấp hơn rất nhiều, đầu tư lồng bè lưới (4 x 6 x 2,5 m) chỉ từ 5 – 10 triệu đồng thay vì lồng bè gỗ lên đến 15 – 25 triệu đồng với kích thước như nhau. Ngoài ra, Khoa Thủy sản cũng kết luận rằng, nuôi cá trong lồng bè lưới cá tăng trưởng nhanh hơn và dễ thu hoạch hơn so với lồng bè gỗ. Cách thiết kế lồng bè lưới như sau:
Sử dụng lưới PE với mắc lưới 1 – 2 cm (giá 55.000 đ/kg), thời gian sử dụng 2 – 3 năm. Vật liệu làm khung bè có nhiều (sắt, nhôm, inox, ống kẽm, gỗ…). Tuy nhiên qua thực nghiệm cho thấy sử dụng sắt hiệu quả, giá thấp và sức chịu tốt hơn nhôm. Sắt có mạ lớp chống sét, bè nuôi nên sử dụng sắt f 27 – 32 (thời gian sử dụng 3 – 5 năm). Phần phao nổi nên sử dụng thùng phuy sắt hoặc nhựa (đường kính 60 cm, dài 90 cm).
Thiết kế bè nuôi tùy vào quy mô, thông thường bè được thiết kế dạng hình chữ nhật, kích thước 4 x 6 x 2,5 m. Khung lồng làm bằng sắt ống, kết phao nổi và bọc lưới ni-long. Lồng cho nổi trên mặt nước tối thiểu là 0,3 m tránh cá nhảy khỏi lồng. Nên đặt lồng nơi nước chảy nhẹ của dòng sông, tránh dòng nước xoáy, tàu thuyền qua lại nhiều, tránh dòng nước thải. Đáy lồng cách đáy sông tối thiểu 0,5 m.
CÁCH NUÔI
Mật độ nuôi tối đa là 100 con/m3 nước. Chọn cá giống có kích cỡ 20 – 30 con/kg, cá khỏe, đều cỡ và màu sắc đẹp. Thức ăn được tính theo trọng lượng cá nuôi, từ 2 – 5 kg cho 100 kg cá. Cho cá ăn nhiều lần trong ngày (3 – 4 lần). Thức ăn có thể tự chế như cám gạo, bột cá, cá tạp… Tuy nhiên theo khuyến cáo, tốt nhất cho cá ăn thức ăn công nghiệp đỡ tốn chi phí phát sinh và bổ sung chất cần thiết cho cá phát triển. Theo dõi lượng thức ăn và hoạt động của cá. Chú ý phòng bệnh cho cá điêu hồng:
Bệnh ký sinh, do ký sinh trùng và nấm gây ra, cá biểu hiện ngứa, hay nhảy phóng bất chợt, bơi lờ đờ… Khi cá bệnh ký sinh, dùng CuSO4, 25 g/m3 nước, tắm cá 10 – 15 phút. Hoặc dùng formol, 0,15 – 0,20 lít/m3 nước, tắm cá trong vòng 30 – 40 phút.
Cá hay bị bệnh đốm đỏ, bệnh thường xuất hiện vào đầu mùa mưa (cá tra, cá trê cũng hay bị bệnh này). Cá mắc bệnh bỏ ăn, thân mất nhớt, trên thân và mang có nhiều đốm màu đỏ và lở loét, sau cùng là chết hàng loạt. Khi cá bệnh đốm đỏ, cần sử dụng kháng sinh oxytetracycline 20 – 25 g/m3, tắm trong vòng 60 phút hoặc trộn 20 – 25 g/100 kg thức ăn. Có thể dùng tetracycline, 20 – 25 g/m3, tắm trong 60 phút hoặc trộn 100 mg thuốc/1 kg thức ăn. Hay sử dụng rifamycine 10 – 29 g/m3, tắm 60 phút. Khi cá đạt 0,4 – 1 kg/con thu hoạch đồng loạt để chuẩn bị nuôi vụ kế tiếp.
PHƯƠNG DUY – KHPT, 9/12/2005
Nuôi cá rô phi hồng
Điều kiện nuôi
Cá rô phi hồng có thể sống được ở nước ngọt, nước lợ và nước mặn (chịu được độ mặn dưới 28%o. Cá nuôi ở nhiệt độ bình thường 20-30oC, dưới 15-18oC cá không ăn và có hiện tượng chết, pH 5-8,5.
Kỹ thuật nuôi
- Nuôi trên ao:
Diện tích ao, hồ nuôi nên nhỏ hơn 7.000m2; độ sâu 1,5- 2m2, có nguồn nước sạch, dồi dào, có nguồn nước vào, ra.
Chất lượng nước tốt, không bị ô nhiễm, không nuôi chung với các loại cá ăn thịt khác (cá chuối, nheo, trê…).
Mật độ cá phụ thuộc vào môi trường của ao: với ao bình thường không sục khí, 1ha thả 13.000- 15.000 con.
Với ao tiêu thoát nước tốt, có thiết bị sục khí, 1ha thả 20.000-25.000 con.
Thức ăn dinh dưỡng: ở các thời kỳ phát triển khác nhau, nhu cầu dinh dưỡng khác nhau. Từ cá bột đến cá giống cần protit 30- 35%; cá trưởng thành, cá bố mẹ cần 28- 32%. Chất béo 6- 12%, lyzin 2-3%, Ca 1,5- 2,5%, xenluco dưới 6%. Hệ số thức ăn 2,4kg/kg cá thịt.
Thời gian nuôi từ 120-150 ngày đạt 0,5 – 0,7kg/con, đạt 8-10 tấn/ha.
- Nuôi bè, lồng: có thể nuôi ở hồ rộng, sông.
Hồ sâu hơn 4m, sông sâu hơn 3m, nước lưu thông chậm. Kích thước lồng 2x2x1,5m sâu.
Mật độ cá 2.000 con/lồng.
Ở sông môi trường nước tốt 2.500-3.000 con/lồng. Năng suất đạt 1- 1,5 tấn/lồng, ở sông đạt 1,8-2 tấn/lồng.
NTNN, 22/9/2003
Kinh nghiệm nuôi cá điêu hồng trong ao đất
Ông Nguyễn Văn Thiền, ngụ ấp Mỹ Khánh, xã Mỹ Hòa Hưng nuôi cá điêu hồng mang lại thu nhập cao, cải thiện cuốc sống gia đình. Sau đây là những kinh nghiệm về kỹ thuật nuôi mà anh có được sau một vụ nuôi.
Cá điêu hồng hay còn gọi là cá rô phi đỏ, kỹ thuật nuôi tương tự như nuôi các loài cá nước ngọt khác, tuy nhiên cần lưu ý các điểm cơ bản sau:
- Về đặc điểm sinh học: cá điêu hồng thích hợp với nguồn nước có độ pH – 6,2 – 7,5, khả năng chịu phèn kém nhưng có thể phát triển tốt ở vùng nước nhiễm mặn nhẹ 5 – 12%o cá sống trong mọi tầng nước.
- Cá điêu hồng ăn tạp thiên về thực vật và có thể ăn mùn bả hữu cơ, do đó nguồn thức ăn cho cá rất đa dạng, bao gồm các loại cám thực phẩm, khoai củ, ngũ cốc,… ngoài ra có thể tận dụng các nguyên liệu phụ phẩm từ các nhà máy chế biến thủy sản (nhu vỏ tôm, râu mực, đầu cá,….) hay các phấn phẩm lò giết mổ gia súc để chế biến thành các nguồn thức ăn phụ cung cấp cho cá nuôi. Mặt khác có thể chọn loài ốc bươu vàng làm nguồn thức ăn tươi sống để cho cá ăn.
- Ao nuôi: phải được thực hiện các bước cải tạo theo tuần tự như sau: bơm cạn nước, vét bùn nền đáy ao, bón vôi khử phèn độc tố tiềm tàng trong ao với liều lượng từ 10 – 15 kg/100m2, phơi ao khoảng 1 tuần rồi tiến hành cấp nước sạch vào ao qua cống có ngăn lưới ở miệng công không cho cá tạp và cá dữ vào ao nuôi. Chọn ao có diện tích từ 500 – 1.000m2, độ sâu từ 0,8 – 1,5m và phải chủ động cấp thoát nước khi cần thiết.
- Mật độ: có thể nuôi đơn cá điêu hồng trong một ao hoặc nuôi ghép với nhiều loại cá khác như: cá sặc rằn, cá chép, cá hường, cá rô phi vằn… Nếu nuôi cá điều hồng là chủ yếu: nên nuôi với mật độ từ 5 – 8 con/m2.
- Lượng thức ăn: tùy theo mức độ sử dụng của cá, trung bình bằng 5 – 7% trọng lượng cá, cần bố trí các sàn ăn trong ao để kiểm tra lượng thức ăn hàng ngày, sử dụng nhiều sàn ăn để cá lớn, cá nhỏ đều được ăn. Tránh dư thừa thức ăn gây lãng phí và ô nhiễm nguồn nước, lượng thức ăn nên chia làm 2, cho ăn vào buổi sáng sớm và buổi chiều mát. Theo dõi thường xuyên tình hình nước trong ao (màu sắc, mùi vị …). Nếu thấy nước bẩn thì cần phải thay nước sạch cho ao nuôi tránh hiện tượng thiếu oxy.
- Thu hoạch: cá nuôi khoảng 7 – 8 tháng là có thể thu hoạch được, vào thời gian này cá đạt trọng lượng từ 0,4 – 0,6kg/con, nếu được chăm sóc tốt, trong trường hợp cá lớn đều thì thu hoạch 1 lần, nếu không đều thì thu hoạch những con lớn trước, con nhỏ để lại nuôi tiếp 1 – 2 tháng sau sẽ thu hoạch tiếp.
T. Thu, E-An Giang
Nuôi cá điêu hồng sau vụ tôm
Cải tạo ao:
Sau khi đã thu hoạch tôm, tháo cạn nước, nếu ao không thoát tự nhiên thì phải dùng máy bơm bơm hết nước và hút bùn nhão dưới đáy ao ra ngoài. Tiến hành phơi đáy ao từ 5 – 7 ngày, để diệt cá tạp và mầm bệnh. Dùng vôi bột rải xuống ao với lượng 10 – 20kg/100m2, sau đó lấy nước vào ao từ 0,3 – 0,5m qua lưới chắn tạp hoặc túi lọc tạp, túi lọc tạp làm bằng vải Kate 4 lớp, miệng túi gắn vào ống với đường kính 0,5 – 1m, chiều dài túi 7 – 15m, miệng túi thả tự do trong ao có đường kính 2 –3m. Dùng phân chuồng heo, gà, vịt rải đều khắp đáy ao với lượng 10 – 15kg/100m2. Sau khi bón phân vài ngày thấy nước có màu xanh đọt chuối là tốt, lúc này lấy thêm nước vào ao khoảng 1 – 1,5m và tiến hành thả cá giống.
Chọn và thả giống:
Chọn con giống đồng đều cỡ, không bị mắc bệnh, phản xạ nhanh khi động mạnh vào nước. Nên chọn mua giống ở những trại SX giống uy tín và chất lượng và tốt nhất là chọn cỡ cá từ 25 – 30 con/kg. Thả giống vào sáng sớm hoặc trời mát. Trước lúc thả kiểm tra các điều kiện môi trường như mật độ, độ pH… Tùy theo khả năng bổ sung thức ăn có thể thả 2 – 4 con/m2 hoặc 5 – 7 con/m2.
Cho ăn và chăm sóc:
Có thể tận dụng nguồn thức ăn ở địa phương sẵn có như: Tôm tép tạp, cám, cá tạp… đã chế biến và nấu chín kết hợp với thức ăn công nghiệp dạng viên sao cho có hàm lượng đạm từ 25 – 30% và cung cấp cho cá theo từng giai đoạn sinh trưởng. Mỗi ngày cho ăn 3 lần vào sáng sớm 40%, trưa 20%, chiều mát 40% lượng thức ăn trong ngày. Cho ăn 3% trọng lượng cá lúc còn nhỏ, 2% lúc cá lớn. Cứ 10 ngày thay nước một lần, mỗi lần thay 30% lượng nước có trong ao và trong quá trình nuôi có thể linh động thay nước tùy vào chất lượng nước. Hàng tháng kiểm tra tốc độ tăng trưởng, tỷ lệ sống để xác định lượng thức ăn hàng ngày.
Phòng ngừa bệnh:
Chủ động dùng thuốc kháng sinh bổ sung Vitamin C theo định kỳ 10 ngày/lần bằng cách trộn vào thức ăn với liều lượng 2% tổng lượng thức ăn, không cho thức ăn ăn thừa, ôi thiu. Nguồn nước phải sạch không bị ô nhiễm. Theo dõi các hiện tượng bệnh và xử lý kịp thời, thường xuyên theo dõi kiểm tra môi trường nước.
Thu hoạch:
Khi cá đạt kích cỡ thương phẩm từ 350 – 400gr/con trở lên là có thể tiến hành thu hoạch được bằng lưới vây là tốt nhất.
NNVN, 30/12/2003
Cách phòng trị bệnh cho cá điêu hồng
Cá rô phi đỏ hay còn gọi là cá điêu hồng (Red Tilapia) hiện đang được nuôi khá phổ biến ở vùng đồng bằng sông Cửu Long, mang lại giá trị kinh tế cao. Những đặc điểm sinh học cơ bản trong điều kiện thả nuôi được xác định như sau: về dinh dưỡng là loài cá ăn tạp các chất như: mùn bả hữu cơ, tảo, ấu trùng côn trùng, trong ao nuôi hoặc bằng bè, cá ăn thức ăn tự chế từ các phụ phẩm nông nghiệp, thức ăn viên (đạm từ 20 – 25%). Về sinh sản, cá rô phi đỏ là loài nắm đẻ, đẻ quanh năm, ấp trứng trong miệng. Có thể ương cá con trong ao hoặc trong chậu, lồng. Khi ương trong ao cần bón phân gây thức ăn tự nhiên để nuôi cá bột, còn khi ương trong lồng, chậu thì không cần bón phân nhưng phải thường xuyên vệ sinh chập, lồng. Môi trường nuôi chủ yếu trong ao hoặc lồng bè. Trong ao, sau 1 năm nuôi, cá đạt 200 – 500g/cn; khi nuôi bè cá lớn nhanh hơn (đạt trọng lượng 200 – 500g/con chỉ 7 – 8 tháng) và tỷ lệ hao hụt thấp.
Phòng trị một số bệnh thường gặp:
- Bệnh do ký sinh trùng: các bệnh do ngoại ký sinh trùng có tác động mạnh đến cá con trong quá trình ương. Thực tế cho thấy, nhiều cơ sở ương giống có tỉ lệ hao hụt từ 50 – 70% chủ yếu là do cá con bị bệnh đốm trắng (trùng quả dưa tấn công), bệnh do trùng mặt trời và tà quản trùng, bệnh do sán lá đơn chủ, bệnh do giáp xác ký sinh (Argulus và Ergasilus).
Cách phòng trị: ao ương hoặc nuôi cá phải có sục khí. Khi phát hiện cá bị bệnh cần bón: Formol nồng độ 25 – 30ml/m3 trị thời gian dài và nồng độ từ 100 – 150ml/m3 nếu trị trong 15-30 phút; CuSO4 (phèn xanh) nồng độ 2-5g/10m3 trị thời gian dài và từ 20 – 50g/10m3 trị trong 15 – 30 phút, cách ngày trị một lần; muối ăn dùng để phòng và trị bệnh cho cá, nồng độ 1-3% trị thời gian dài và 1-2% trị trong 10-15 phút.
- Bệnh xuất huyết: bệnh do vi khuẩn Aemomas hydrophia hoặc Edwardsiellatarda gây ra. Cá có dấu hiệu toàn thân bị xuất huyết, hậu môn sưng lồi, bụng trương to, có dịch vàng hoặc hồng, đầu và mắt cá sưng và lồi ra. Bệnh thường xuất hiện ở cá rô phi đỏ nuôi bè.
Biện pháp đề phòng: là tránh thả cá nuôi và hạn chế thay nước lúc giao mùa. Nên định kỳ bón khử trùng nơi cho ăn. cách trị là bón vôi và khử trùng nước, có thể trộn thuốc kháng sinh vào thức ăn cá, tỷ lệ tuỳ theo tình trạng bệnh.
- Cá trương bụng do thức ăn: thường xảy ra ở các ao, bè cho cá ăn thức ăn tự chế không được nấu chín, không đảm bảo chất lượng làm cá không tiêu hoá được thức ăn, bụng cá trương to, ruột chứa nhiều hơi. Cá bơi lờ đờ và chết rải rác.
Biện pháp khắc phục: là kiểm tra chất lượng và thành phần thức ăn để điều chỉnh lại cho thích hợp. Nếu trường hợp nặng, thường xuyên có thể thay đổi thức ăn. Trong thức ăn nên bổ sung men tiêu hóa (các probiotic…)
- Cá chết do mật độ dày: Hiện tượng này thường xảy ra ở các ao, bè nuôi thâm canh với mật độ quá dày. Cá chết không có dấu hiệu bệnh lý, chỉ nổi lờ đờ và chết hàng loạt. Tỉ lệ cá chết lệ thuộc vào mật độ và chất lượng nước. Mật độ thích hợp để thả nuôi cá rô phi thịt là 100-150con/m3. nếu mật độ trên 200 con/m3 có thể gây chết đột ngột lúc giao nước hoặc sau những cơn mưa lớn.
Web An Giang (11/25/2003 9:20:33 AM) – Báo KHPT
Xem thêm:
Cần phòng bệnh phù mắt, xuất huyết trên cá điêu hồng nuôi bè
Phòng và trị bệnh thường gặp cho cá điêu hồng
Cá điêu hồng hay còn gọi là cá rô phi đỏ là một loại cá đang được thị trường ưa chuộng và là một trong những loại cá được nuôi phổ biến nhất ở ĐBSCL. Sau khi nuôi thử nghiệm và phát triển đại trà thời gian gần đây ở vùng ĐBSCL, cá điêu hồng đã được xác định những đặc điểm sinh học cơ bản trong điều kiện thả nuôi ở nước ta như sau:
– Về tập tính ăn: Đây là loài cá ăn tạp các chất như mùn bã hữu cơ, tảo, ấu trùng, côn trùng. Trong ao nuôi hoặc bằng bè, cá ăn thức ăn tự chế từ các phụ phẩm nông nghiệp, thức ăn viên (đạm từ 20 – 25%).
– Về sinh sản: Cá điêu hồng thuộc loại mắn đẻ, đẻ quanh năm, ấp trứng trong miệng. Có thể ương cá con trong ao hoặc trong chậu, lồng. Khi ương trong ao cần bón phân gây thức ăn tự nhiên để nuôi cá bột, còn khi nuôi trong lồng, chậu thì không cần bón phân nhưng phải thường xuyên vệ sinh chậu, lồng.
– Môi trường nuôi: Cá thịt có thể nuôi trong ao hoặc lồng bè. Trong ao, sau một năm nuôi, cá đạt 200 – 500g/con chỉ từ 7 – 8 tháng và tỷ lệ hao hụt thấp.
Việc nuôi cá điêu hồng không khó, nhưng để nuôi đạt thành công, giá thành thấp cần chú ý tới những bệnh sau:
Bệnh do ký sinh trùng: Các bệnh do ngoại ký sinh trùng có tác động mạnh đến cá con trong quá trình ương. Thực tế cho thấy, nhiều cơ sở ương giống có tỷ lệ hao hụt từ 50 – 70% chủ yếu là do cá con bị bệnh đốm trắng (trùng quả dưa tấn công), bệnh do trùng mặt trời và tà quản trùng, bệnh do sán lá đơn chủ, bệnh do giáp xác ký sinh (Argulus và Ergasilus).
Cách phòng trị: Ao ương và nuôi cá phải có sục khí. Khi phát hiện cá bị bệnh cần bón: Formol nồng độ 25 – 30ml/m3, trị thời gian dài và nồng độ từ 100 – 150ml/m3 nếu trị trong 15 – 30 phút; CuSO4 (phèn xanh) nồng độ 2 – 5g/m3 trị thời gian dài và từ 20 – 50g/m3 trong thời gian 15 – 30 phút, cách này trị một lần; muối ăn để phòng trị bệnh cho cá, nồng độ 1% trị thời gian dài và 1 – 2% trong 10 – 15 phút.
Bệnh xuất huyết: Bệnh do vi khuẩn Aemomas hydrophia hoặc Edwardsiella tarda gây ra. Cá có dấu hiệu toàn thân xuất huyết, hậu môn sưng lồi, bụng trương to, có dịch vàng hoặc hồng, đầu và mắt cá sưng và lồi ra. Bệnh thường xuất hiện với cá điêu hồng nuôi bè.
Biện pháp đề phòng là tránh thả cá nuôi và hạn chế thay nước lúc giao mùa. Nên định kỳ bón và khử trùng nơi cho cá ăn. Cách trị là bón vôi và khử trùng nước, có thể trộn thuốc kháng sinh vào thức ăn cá, tỷ lệ tùy theo tình trạng bệnh.
Cá trương bụng do thức ăn: Thường xảy ra ở các ao, bè do cá ăn thức ăn tự chế không được nấu chín, không đảm bảo chất lượng làm cá không tiêu hóa được thức ăn, bụng cá trương to, ruột chứa nhiều hơi. Cá bơi lờ đờ và chết rải rác.
Biện pháp khắc phục là kiểm tra chất lượng và thành phần thức ăn để điều chỉnh lại cho thích hợp. Nếu trường hợp nặng, thường xuyên có thể thay đổi thức ăn. Trong thức ăn nên bổ sung men tiêu hóa (các probiotie…).
Cá chết do mật độ nuôi thả dày: Hiện tượng này thường xảy ra ở các ao, bè nuôi thâm canh với mật độ quá dày. Cá chết không có dấu hiệu bệnh lý, chỉ nổi lờ đờ và chết hàng loạt. Tỷ lệ cá chết phụ thuộc vào mật độ và chất lượng nước. Mật độ thích hợp để nuôi cá điêu hồng thịt là 100 – 120 con/m3 có thể gây chết đột ngột lúc giao nước hoặc sau những cơn mưa lớn. Vì thế cần nuôi với mật độ vừa phải (50 – 70 con/m3 nước) và chất lượng nước cần phải là nước sạch.
NNVN, 22/8/2004
Cần phòng bệnh phù mắt, xuất huyết trên cá điêu hồng nuôi bè
Những năm gần đây, mô hình nuôi cá điêu hồng lồng bè phát triển mạnh, mức độ thâm canh cao hơn, tuy nhiên, chất lượng cá giống giảm cùng với môi trường nước xấu, khiến cho dịch bệnh trên cá điêu hồng nuôi bè xảy ra trầm trọng và giá trị thiệt hại tăng. Bệnh phổ biến nhất trên cá điêu hồng là phù mắt, xuất huyết do vi khuẩn Streptococcus gây ra.
Người nuôi cần thường xuyên theo dõi bè nuôi
cá điêu hồng để có hướng giải quyết kịp thời.
Không phải mới đây mà từ năm 2004, một số hộ nuôi cá điêu hồng trên bè tại tỉnh An Giang đã xuất hiện bệnh phù mắt, xuất huyết với mức độ thiệt hại nhỏ. Thời gian gần đây, bệnh này đã trở nên phổ biến và gây chết cá hàng loạt trên cá điêu hồng nuôi bè tại các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) như: Tiền Giang, Đồng Tháp, Vĩnh Long.
Các chuyên gia ngành Nông nghiệp nhận định, nguyên nhân chính dẫn đến sự phát triển bệnh phù mắt, xuất huyết trên cá điêu hồng nuôi bè là do người dân thả nuôi với mật độ quá cao (trên 200 con/m2), môi trường nước ngày càng xấu cộng với thức ăn kém chất lượng. Theo ghi nhận của Chi cục Thủy sản tỉnh Tiền Giang, cá điêu hồng nuôi bè bị bệnh nhiều và tỷ lệ cá chết cao vào thời điểm giao mùa giữa mùa nắng với mùa mưa và trong thời gian nước sông có nhiều phù sa (hay còn gọi là mùa nước son).
Theo các kiểm nghiệm viên phòng bệnh cá (Chi cục Thủy sản tỉnh), người nuôi cá điêu hồng có thể phát hiện cá bị bệnh phù mắt, xuất huyết thông qua một số biểu hiện bên ngoài như cơ thể cá sậm màu, mắt bị lồi đục, các vây và xương nắp mang bị xuất huyết. Bên cạnh đó, các cơ quan như não, thận và tỳ tạng của cá bệnh bị tổn thương nên cá vận động khó khăn, bơi không định hướng và gây chết cá. Cá bệnh có 2 trường hợp, cá bệnh cấp tính có thể chết rất nhanh và tỷ lệ chết cao, trong khi đó cá bệnh mãn tính bị xuất huyết trên thân nhưng nội tạng không bị tổn thương và cá vẫn sống bình thường.
Theo tài liệu khoa học, bệnh phù mắt, xuất huyết trên cá điêu hồng do nhóm vi khuẩn thuộc giốngStreptococcus gây ra. Nhóm vi khuẩn này có kích thước khá nhỏ với dạng ngoài hình cầu hoặc ovan, bắt màu gram dương. Khi xâm nhập vào cơ thể cá, loại vi khuẩn này có khả năng gây tổn thương não cá, sau đó chúng theo máu đến thận, tỳ tạng và làm tổn thương các cơ quan này. Khi quan sát tiêu bản tươi mô gan, thận, tỳ tạng của cá bệnh dưới kính hiển vi điện tử sẽ thấy các vi khuẩn này nằm bên cạnh các tế bào biến dạng, cấu trúc rời rạc, đồng thời các mô thận và tỳ tạng cá bệnh có dấu hiệu xung huyết, xuất huyết và hoại tử.
Trên thực tế, để chẩn đoán cơ bản bệnh bệnh phù mắt, xuất huyết trên cá điêu hồng, người nuôi có thể kết hợp quan sát dấu hiệu bệnh lý bên ngoài với giải phẫu quan sát dấu hiệu bệnh lý của các cơ quan nội tạng. Do Streptococcus là loại vi khuẩn thuộc nhóm gram dương nên việc phòng trị bệnh thường khó khăn, hiệu quả thấp. Do đó, phòng bệnh là công việc quan trọng nhất để mang lại hiệu quả nuôi tốt nhất cho người nuôi cá điêu hồng trên bè.
Để làm tốt công tác phòng bệnh, trước hết cần làm tốt khâu chuẩn bị bè trước khi thả nuôi, chọn con giống chất lượng, được kiểm dịch trước khi thả nuôi, thả nuôi với mật độ khoảng 100 – 150 con/m2, kiểm soát tốt môi trường nước trong suốt quá trình nuôi và nhất là cần duy trì hàm lượng ôxy hòa tan trong bè nuôi hợp lý (5 – 7 mg/lít). Trong trường hợp phát hiện cá bệnh chết cần lập tức vớt khỏi bè, xử lý bằng cách đem chôn trong hố có rải vôi.
Người nuôi cá điêu hồng trên bè cần thường xuyên kiểm tra, phát hiện bệnh sớm, để có biện pháp chẩn đoán và điều trị kịp thời. Sau khi xác định được tác nhân gây bệnh trên cá là do vi khuẩn Streptococcus, bà con nuôi cá phải dùng các loại kháng sinh có tác dụng với vi khuẩn gram dương để điều trị. Tuy nhiên, để việc điều trị cá bệnh đạt hiệu quả cao, việc chọn lựa loại thuốc kháng sinh và liều lượng sử dụng cần có sự tư vấn của cán bộ chuyên môn thông qua kết quả làm kháng sinh đồ tại các phòng kiểm nghiệm bệnh thủy sản.
Thành Công – Tiền Giang, 22/03/2015