Kỹ thuật nuôi cá rô đồng, cá rô đầu vuông

Kỹ thuật nuôi cá rô đồng thương phẩm (Anabas testudineus Bloch)

1/ Nuôi cá tại ao:

  • Diện tích ao mương nuôi CRĐ từ 100 m2 – 2.000 m2 mức nước ao sâu trung bình 1,5m, ao nuôi liền với nguồn nước không bị nhiễm các chất độc nông dượccung suốt thời gian nuôi. Ao có bộng cấp và thoát nước càng tốt, tối thiểu có một bộng để lấy nước mới vào, xả nước dơ ra. Bộng phải có lưới bịt chống cá dữ vào ăn cá rô và cá khác vào tranh mồn ăn CRĐ. Để giữ nước cần thiết có thể dùng bao nylon, bao xy măng bịt đầu bộng khi đã cho nước vào ao.
  • Ao được cải tạo như các ao nuôi cá khác: Don cây cỏ, vét sình bùn, xảm chặt các hang mội, bón vôi và phân chuồng tạo thức ăn tự nhiên cho cá. Đắp bờ cao hơn mức nước cao nhất 0,5m, nơi bờ thấp, nơi xung yếu, đập nước, … dùng lưới chắn kỹ trước khi nước ngập, lưới cao so với mặt đất mực nước ngập 0,5m, lưới gắn chặt vào đất, có trụ kềm lưới. Thường sử dụng lưới cước để ngăn cá. Cho nước vào ao trước khi thả cá 5-7 ngày, mức nước 1m – 1,5m.

a/ Giống cá nuôi:

  • Cỡ CRĐ giống: 300 – 500 con.kg. Cá đều cỡ, cá khỏe mạnh, cá không bị xây xát mất nhớt. Cá yếu được nhốt nuôi riêng khi thật khỏe mạnh mới nuôi chung. Mật độ nuôi 10 con/ m2 nơi có thức ăn đủ, nước tốt, nuôi tốt mật độ nuôi 20 – 30 – 50con/ m2.
  • Có thể thả ghép cá hường giống 1 con / 5-10 m2, cá mè trắng 1con/5-10 m2 để tận dụng thức ăn rơi rớt và làm sạch môi trường nước, không được thả cá mè vinh, chép, trê phi tranh mồi ăn của CRĐ, giá bán thấp.

b/ Thức ăn cho cá:

  • Tạo nguồn thức ăn tự nhiên trong vùng nước cho cá. + Có thể sử dụng phân heo, gà, cút cho cá ăn trực tiếp (cần lưu ý không để nước đái heo xuống ao nuôi). Ao 500 – 1000 m2 có thể sử dụng phân heo của 10 – 20 con làm thức ăn cơ bản cho cá, bổ sung thêm thức ăn nhân tạo. Tùy thực tế xem sức sức ăn của cá mà tăng hoặc giảm lượng thức ăn. Trước khi thu hoạch 2-3 tháng, ngưng cho cá ăn phân heo, mà cho cá ăn bằng thức ăn chế biến để cá sạch, béo. Thức ăn chế biến 3-5% trọng lượng cá, tùy cá ăn mà tăng giảm.
  • Cho cá ăn bằng thức ăn chế biến: Bột đầu tôm, phụ phế liệu nhà máy chế biến cá tôm và gia súc, bột cá, ruốc, ốc, cá tạp, bột đậu nành, … tỷ lệ đạm 30% + cám mịn và xác đậu nành 60% + tấm 7% + bột lá gòn 3% + Vitamin, Premit. hế biến thức ăn: Thức ăn thô (cá tạp, cua, ốc,…) được nghiền nhỏ. Nấu cháo tấm với bột cá cho nhừ, cho bột lá gòn vào, nếu có xác đậu nành nấu riêng, trộn cám và Vitamin vào thức ăn, vừa khô, đặc, dẻo. Có thể cho10% rau muống đã thái nhỏ và nấu mềm nhừ trộn lẫn với thức ăn trên. Thức ăn có độ đạm càng cao cá lớn càng nhanh, từ cá giống lên cá 7-15 con/kg có 4 tháng.
  • Cho cá ăn: CRĐ lúc còn nhỏ chưa phân đàn, cho cá ăn bằng sàn treo ở đầu ao, cá vào sàn ăn, khoảng 50 – 80 m2 có một sàn. Khi cá lớn, dùng sàn thì cá lớn vào ăn trước, cá nhỏ vào ăn sau, cá lớn không đều, nên rải thức ăn đều ao cho cá ăn để cá lớn nhỏ đều được ăn. Tỷ lệ cho ăn 3-5% trọng lượng cá, ngày cho ăn 1-2 lần. Cho CRĐ ăn thức ăn hoặc lúa, đậu nành rang vàng thơm cho dầu dừa vào cho cá ăn.

c/ Quản lý chăm sóc cá nuôi:

  • Giữ môi trường nước nuôi đến màu xanh lá chuối non. Nếu nước có màu sậm và mùi hôi phải thay nước ngay. Trung bình 7-15 ngày nên thay nước một lần, nếu nước ao nuôi vẫn tốt thì khi nước dơ mới thay. Thay nước tốt có lợi cho cá nuôi, song cá tạp vào nhiều tranh mồi ăn của cá nuôi.
  • Kiểm tra thức ăn của cá dư hay thiếu bằng xem cá có thức ăn trong bụng không và thức ăn còn lại khi cho vào sàn ăn 2 giờ. Nếu ruột cá không có thức ăn, mà thức ăn còn nhiều ở sàn là thức ăn không thích hợp , phải thay đổi thức ăn, hoặc xem cá yếu ăn vì lý do gì: nước dơ thì thay nước, thiếu đạm thì tăng đạm, có đạm mà yếu ăn tăng Vitamin C, Premit vào thức ăn và xem cá có bệnh hay không xử lý kịp thời.
  • Kiểm tra bộng bờ, lưới bộng, lưới bao nơi xung yếu khi mưa lũ. Nơi không có điều kiện bao lưới nơi xung yếu, có thể trồng cây sả dừng nhiều lớp ở bờ này.
  • Trong thời gian nuôi, cá phân đàn, cá lớn thì lớn nhanh, cá nhỏ chậm lớn vì không được ăn đều. Cần kiểm tra sau 4-6 tháng nuôi, dùng lưới kéo bắt cá lớn để vào ao nuôi vỗ riêng, bán. cá nhỏ còn lại tiếp tục nuôi và cá có phân đàn nuôi riêng.

2/ Nuôi CRĐ ở ruộng lúa, rừng tràm, sông cụt:

a/ Chuẩn bị nơi nuôi: Ruộng lúa rừng tràm thì có mương trong, bờ bao quanh, bờ cần cao hơn mực nước cao nhất 0,5m. Nơi xung yếu: đập có bộng, nước ra vào, lung trũng nối liền với nhau ngăn cách bằng bờ, nơi thấp,… Cần có lưới chắn hoặc trồng sả dầy để hạn chế cá đi. Nếu nuôi ở kênh rạch, sông cụt, xung quanh có bờ bao, lòng kênh dùng lưới chắn kỹ. Nơi nuôi được cải tạo, nhất là diệt các loài địch hại của CRĐ như cá lóc, lươn, rắn, rái cá,… 

b/ Giống nuôi: Giống CRĐ nên thả cỡ lớn 200 – 300 con/kg. + Thường nuôi ghép CRĐ với các loại cá khác nuôi ở ruộng lúa: mè vinh, sặt rằn, mè trắng, trôi, chép 70 – 80%, CRĐ 20 – 30%. Mật độ cá nuôi 1-3 con/ m2. 

  • Nuôi ở rừng tràm: CRĐ 0,3-0,7 con/ m2. nuôi ghép với cá sặt rằn, trê vàng, thát lát và cá lóc cùng cỡ 0,5- 1 con / m2 mặt nước. 
  • Nuôi ở sông cụt: CRĐ 5-10 con / m2 và ghép cá sặt rằn, cá hường, mè trắng. 

d/ Quản lý chăm sóc cá nuôi: như ở ao 

3/ Thu hoạch cá nuôi: 

Cá nuôi 4-5 tháng đạt 60 – 100g/con, 6-9 tháng đạt 100 – 150g/con. Chọn thời điểm thị trường ít các loại cá khác, thu hoạch CRĐ cán được giá. trước khi thu hoạch 2 tháng cần tăng cường cho cá ăn đủ số và chất, thay nước sạch vào ao. Dùng lưới bắt cá lớn bán, cá nhỏ để lại nuôi tiếp bán. Cần theo dõi hàng ngày ghi chép để rút kinh nghiệm.

Theo sách NXB Nông nghiệp

Nuôi cá rô đồng thương phẩm bằng con giống nhân tạo

Được Trạm KN huyện Tam Nông (Đồng Tháp) hỗ trợ 40% tiền mua con giống và 20% tiền mua thức ăn cho cá, anh Nguyễn Ngọc Tước – ngụ ấp K8, xã Phú Đức đã tận dụng diện tích mặt nước ao sau nhà để thực hiện mô hình nuôi cá rô đồng thương phẩm bằng con giống nhân tạo và đã thu được lợi nhuận hết sức khả quan. Anh Tước vui vẻ cho biết: “Nuôi cá rô đồng nhân tạo rất dễ, ít đòi hỏi kỹ thuật vì cá rất thích nghi với môi trường, chịu chật chội với những điều kiện khắc nghiệt của thiên nhiên và ít bệnh. Theo tôi, trong quá trình nuôi cần chú ý cho ăn đầy đủ theo chu kỳ phát triển của cá, thức ăn đủ chất, đảm bảo độ đạm cần thiết… Bên cạnh đó, cần quản lý chất lượng nước và rào chắn cẩn thận trong mùa mưa lũ để tránh thất thoát…”

Với 1 cái ao cũ 800m2 phía sau nhà, vào trung tuần tháng 7/2003, anh Tước cho vét bùn non dưới đáy ao rồi rải 10kg vôi bột/m2 để sát trùng… Tiếp đó, anh bơm nước sạch vào ao và thả 40.000 con cá rô đồng giống nhân tạo vào nuôi. Nguồn thức ăn chính của cá rô đồng được anh Tước sử dụng thức ăn viên công nghiệp có chứa nhiều độ đạm. Thời gian đầu cá còn nhỏ khoảng 10 – 15gr/con, anh cho cá ăn 4 lần/ngày, mỗi lần khoảng 10kg thức ăn. Hơn 1 tháng sau khi nuôi, cá lớn từ 20–25gr/con, anh cho cá ăn 3 lần/ngày và lượng thức ăn tăng lên 15kg/lần… Và anh tăng dần lượng thức ăn lên trong mỗi lần cho cá ăn theo quá trình tăng trưởng của cá. Bình quân cứ hao tốn gần 2,5kg thức ăn thì sẽ đạt 1kg cá rô đồng thương phẩm! Để tránh bẩn nguồn nước trong ao, anh Tước thường xuyên thay nước ao, định kỳ 1 tháng 1 lần anh bổ sung vào thức ăn cho cá những vitamin, chất khoáng, thuốc xổ giun, sán và những ký sinh trùng bám ngoài da… nhằm kích thích cá rô đồng mau phát triển, tránh được một số loại bệnh thường gặp ở cá rô…

Cứ như thế, anh Tước luôn cần mẫn chăm sóc, thường xuyên theo dõi diễn biến tình trạng tăng trưởng cũng như dịch bệnh của cá để có cách chữa trị kịp thời… Từ đó, đàn cá nuôi của anh đã phát triển tốt, tăng trọng nhanh, tỷ lệ hao hụt thấp… Đến nay, sau gần 4 tháng nuôi, anh Ngọc Tước đã cho tát ao và thu hoạch được trên 2,6 tấn cá rô đồng thương phẩm, bán được trên 60 triệu đồng. Trừ tất cả chi phí đầu tư như: Cải tạo ao, mua con giống, thức ăn, thuốc trị bệnh cho cá và công chăm sóc… tổng cộng hơn 37 triệu đồng, anh Nguyễn Ngọc Tước còn lời gần 23 triệu đồng!

Mô hình nuôi cá rô đồng thương phẩm bằng con giống nhân tạo của anh Nguyễn Ngọc Tước đang được các ngành chức năng nghiên cứu phát huy và nhân rộng để giúp người dân huyện vùng sâu Đồng Tháp Mười chuyển đổi cơ cấu vật nuôi phù hợp với điều kiện của gia đình, nhanh chóng thoát nghèo vươn lên khá – giàu từ mô hình này.

NNVN, 19/11/2003

Chọn và nuôi cá rô đồng theo hướng bán thâm canh

  • Nên chọn cá giống đạt chất lượng tốt ở những cơ sở cá giống uy tín và nên chọn cá ở kích cỡ có thể chọn lọc được cá cái để nuôi (thường từ 180-200 con/kg).
  • Có thể sử dụng thức ăn viên hoặc thức ăn chế biến cho cá ăn nhưng cần có độ đạm cao (25-30%) để cá tăng trọng nhanh, tăng năng suất, rút ngắn thời gian nuôi, tăng hiệu quả kinh tế.
  • Nên cho cá ăn dặm thêm vào buổi tối (8-9 giờ) cá sẽ lớn nhanh hơn.
  • Cần tính toán thời gian nuôi thích hợp, không nên thu hoạch cá vào mùa lũ, giá cá thấp, hiệu quả kinh tế không cao.
  • Khi cá nuôi khoảng 5 tháng mà trọng lượng trung bình nhỏ hơn 70g/con (15 con/kg) thì không nên nuôi tiếp vì cá đã mang trứng lớn chậm, không có hiệu quả kinh tế.
  • Tận dụng những bưng biền, ruộng trũng cải tạo thành ao để nuôi cá rô đồng rất tốt vì có mực nước sâu, gần sông rạch nên cấp sạch và thoát nước dễ dàng. Tuy nhiên cần phải gia cố, cải tạo bờ ao chắc chắn.

KS. Đặng Tịnh – Phó Trưởng Trạm khuyến nông Hóc Môn – KHPT, 3/2/2005

Những điểm cần lưu ý khi nuôi cá rô đồng

Nuôi 4 – 5 tháng nếu áp dụng tốt các biện pháp kỹ thuật phù hợp thì cá đạt trọng lượng từ 10 – 15 con/kg và năng suất từ 3 – 5 tấn/1.000 m2.

Thịt cá rô đồng rất ngon, được ưa chuộng và có giá bán khá cao trên thị trường.

Trong quá trình nuôi, nông dân nên lưu ý đến các đặc điểm mang tính bắt buộc đối với loài cá này như:

  • Nên nuôi bằng con giống nhân tạo và nhất là phải kiểm soát được nguồn giống. Tốt hơn cả là nên tự tạo được nguồn giống để chủ động theo kế hoạch nuôi. Khi ương cá bột khoảng 40 – 45 ngày thì có thể lọc lồng để cá đồng cỡ và qua đó chọn được đàn cá có tỷ lệ cá cái cao nên nuôi cá mau lớn và đạt năng suất cao.
  • Cần cho cá ăn thức ăn công nghiệp dạng viên có hàm lượng đạm cao trên 30% ở 2 tháng đầu và sau đó phối hợp với thức ăn tự chế từ nguồn phụ phẩm có nguồn gốc động vật. Tuy nhiên, cần theo tỷ lệ nhất định (không nên quá 50% tổng lượng thức ăn) và cần cho cá ăn thúc liên tục vì nếu không cho cá ăn đủ số lượng, chất lượng thức ăn, cá sẽ chậm lớn.
  • Con cá rô khi đến giai đoạn bán thì không thể trì hoãn được. Nếu kéo dài thì cá sẽ ôm trứng rồi không phát triển nữa, hoặc cá giảm ăn và gầy đi…
  • Giống như các loại cá khác, nuôi cá rô cũng cần sắp xếp mùa vụ để tránh xuất bán vào các tháng 8, 9, 10 âm lịch, vì đây là lúc lượng cá tự nhiên nhiều, nên cá bán không được giá.
  • Mặc dù là loài sống tốt được trong môi trường khắc nghiệt như nước tù bẩn và hàm lượng ô-xy hoà tan trong nước thấp… Song con cá rô khi nuôi với mật độ cao trong ao thì cần định kỳ thay nước sạch thường xuyên. Mặt khác, cá cũng hay phát sinh một số bệnh như: xuất huyết, bệnh đường ruột, bệnh nấm nhớt và một vài bệnh khác nhất là vào các giai đoạn giao mùa… Các bệnh này chủ yếu do môi trường nước xấu mang lại. Chính vì vậy, trong quá trình nuôi, cần chú ý giữ cho nước trong ao thật tốt để phòng bệnh cho cá, nhất là ở giai đoạn giữa vụ trở đi, vì lúc này số lượng chất thải từ cá và các lớp tảo chết tích tụ dưới đáy ao rất nhiều. Biểu hiện dễ thấy nhất là khi độ pH tăng trên 7.0 (pH tốt nhất cho cá rô đồng là từ 6.5 – 7.0). Vì vậy trong suốt quá trình nuôi, cần chú ý sử dụng các chất xử lý nền đáy như zeolite hoặc các loại chế phẩm sinh học xử lý ao khác.

Theo Sở Khoa học và Công nghệ Hải Dương – Báo Hải Dương, 13/03/2013

Kỹ thuật sản xuất giống cá rô đồng thương phẩm (Anabas testudineus Bloch)

Giống cá rô đồng có ở tự nhiên lúc Bà Chằn (tháng 5-6) bắt được giống cá rô đồng ở trên ruộng, mương bị cạn khá nhiều. Nhưng do đánh bắt cá bị xây xát, mất nhớt, cá chết tạ chỗ và sau đó chết dài dài vì bệnh. Cá còn sống mang tính hoang dã của cha mẹ, nên khi có dòng nước chảy vào, cá thường đi theodòng nước hoặc gặp nơi sống không thích hợp cá cũng đi. Nguồn giống cá rô đồng tự nhiên không đều, thiếu chủ động cung cấp giống theo yêu cầu nuôi. Giống cá rô đồng sản xuất nhân tạo, qua nuôi đại trà ở nhiều nơi, tính hoang dã của cá giảm hẳn, có nơi chỉ rào lưới 0,5m và có nơi không rào và cho cá ăn tốt cá cũng không đi.

  1. Chuẩn bị cá cha mẹ 
  • Ao mương nuôi vỗ cá cha mẹ có diện tích từ 50 – 500 (m2), sâu 1m, được chuẩn bị từ tháng 11-1. Cá cha mẹ được nuôi dưỡng sớm, chăm sóc tốt, cá có thể đẻ sớm hơn thời vụ tự nhiên vào tháng 2-3dl và tháng 4-5 có cá giống cung cấp cho yêu cầu nuôi nữa và cuối năm đạt cỡ cá thương phẩm. 
  • Chọn cá cha mẹ cỡ từ 40 – 100g/con, cá không bị xây xát, dị hình, cá khỏe mạnh, nuôi chung cá đực cái mật độ 1kg cá/2 m2 ao . 
  • Cho cá ăn hàng ngày: cám 60%, bột cá 38% và bột gòn 2% làm chất kết dính. Nấu bột cá, bột lá gòn xong trộn cám vào vừa đặc cho cá ăn. Có thể cho cá ăn một phần lúa mộng. Ngày cho ăn 3-5% so với trọng lượng thân cá, cá tái phát dục ăn 7%. 
  • 15 ngày kích thích bằng nước một lần, mỗi lần 1/3 ao. – 30 ngày kiểm tra độ thành thục của cá, 15 ngày kiểm tra cho cá đẻ; cá đực có bụng thon, khi vuốt nhẹ bụng có sẹ trắng sữa. Cá cái bụng to, mềm đều, lỗ sinh dục màu hồng. Cỡ cá 21-30g có 2.900 – 15.000 trứng, 1kg cá cái có 30-40 vạn trứng, tỷ lệ thụ tinh và nở trên 90%. 
  1. Sản xuất cá giống. 

a/ Sản xuất giống cá rô đồng tại ao:

  • Ao được cải tạo và diệt tạp tốt, cho nước vào ao 0,5m, bón phân chuồng để tạo thức ăn tại chỗ cho cá, nước có màu xanh lá chuối non. 
  • Cá cha mẹ có trứng và sẹ tốt, bắt từng cặp cá thả vào ao, mật độ cá thả 5-10 m2 ao. Dâng nước lên 1m, cá rô được nước mới kích thích đẻ trong ao. Hàng ngày cho cá ăn cám, tấm, ốc nghiền nhỏ, bột cá nấu, phân heo, … như phần ương cá. Sản xuất giống cá rô đồng tại ao, tại hộ gia đình cũng cung cấp được lượng giống cá rô đồng đáng kể cho yêu cầu nuôi. Có hộ ao 500 m2 thả trên 1,5kg cá rô đồng cha mẹ cũng được 800kg cá rô thịt. 

b/ Sản xuất giống cá rô đồng nhân tạo: 

  • Cho cá đẻ: 
  • cá rô đồng cha mẹ, đực cái bắt nhốt trước 2 giờ tiêm, chọn cá đã thành thục sinh dục. 
  • Tiêm HCG liều 3.000 – 4.000 UI/kg hoặc LHRa 20 – 30mg/kg cá cái, cá đực tiêm nửa liều cá cái. tiêm vào lưng hoặc gốc xoang ngực. 
  • Cho cá đẻ: Xô, chậu, thau, lu, khạp có đường kính rộng 40 – 50cm trở lên, cho nước sach vào 10 – 12cm, bắt từng cặp cá cho vào, hoặc ở bể 3-4kg cá / m3 nước. Thời gian hiệu ứng thuốc sau khi tiêm 7-16 giờ cá đẻ, cá đẻ trứng ra nở 16-22 giờ tùy nhiệt độ. 
  • Ấp trứng cá: 
  • Trứng cá rô đồng mới đẻ có đường kính 0,4-0,8mm, trứng trương nước 0,8-1,1mm, trứng nổi tự do. 
  • Ấp trứng ở xô, thau, chậu có nước sâu 20-30cm, mật độ trứng ấp 3.000 trứng/lít nước , nước tĩnh, thay nước ngày 2 lần, thường xuyên vớt bỏ trứng ung ra. 
  • Sau 60 giờ trứng nở, chuyển cá bột xuống ao ương. 
  • Ương cá bột lên cá giống: 
  • Ao mương ương cá giống được dọn sạch cây cỏ, sên vét bớt sình bùn, xảm các hang mội, bón vôi 10kg/100 m2 ao, diệt các địch hại của cá như phần cải tạo ao ương cá khác. Phơi nắng ao 2-3 ngày, cho nước vào ao qua lưới lọc kỹ, lưới thật dầy, có thể dùng vải KT.
  • Bón phân gà, heo đã ủ 10-15g/100 m2 ao hoặc dùng phân vô cơ: đạm và lân superphosphat theo tỷ lệ N/P = 2/1 với lượng 200g m3 nước (nên dùng phân hữu cơ thì màu nước giữ lâu hơn). Bón lót 3 ngày trước khi thả cá ương. Cần kiểm tra nước ao, nếu có địch hại của cá phải được diệt trước khi thả, nếu có bọ gạo phải dùng dầu hỏa có khu và treo đèn ở ao. Cá bột được thả khi nước ao có màu xanh lá chuối non, sao đó 5-10 ngày bón phân một lần tùy màu nước.
  • Mật độ cá ương 4-6 vạn cá bột /100 (m2 ) ao, cá bột phải đều cỡ, thời gian ương 45 ngày, cỡ cá đạt 300-400con/kg, tỷ lệ sống ương tốt trên 50%.
  • Thức ăn cho cá: Mười ngày đầu cho ăn lòng đỏ trứng vịt luộc tán nhuyễn và bột đậu nành pha lãong nấu chín, số lượng một trứng vịt và 10g bột đậu nành cho 1-2 vạn cá bột/ngày. Ngày cho ăn 4 lần. Sau đó cho cá ăn cám 30%, bột đậu nành 30%, bột cá 40%. Khẩu phần thức ăn, khởi điểm cho ăn 100g/vạn cá/ngày, sau đó tùy khả năng bắt mồi của cá mà tăng hoặc giảm khẩu phần cho ăn, nhưng khi cá có cơ quan hô hấp phụ (20 ngày ương) nên tăng lượng thức ăn và phân bón nước ao có màu xanh lá chuối non. Do cá rô đồng bột giống ăn thức ăn lơ lửng trong nước là chủ yếu, nên thức ăn nấu chín và hòa tan vào trong nước và rải đều trên mặt ao.
  • Thời gian ương cá cần diệt bọ gạo, không để ếch nhài, nòng nọc và các động vật khác vào ăn cá con.
  • Cấp thêm nước vào ao khi nước ao hao hụt, nước ao dơ.
  • Có điều chỉnh lượng thức ăn cần thiết để cá lớn đều, không ăn thịt lẫn nhau.
  • Theo dõi sự hoạt động của cá, tăng trưởng của cá.
  • Cá giống cỡ 300 – 500 con/kg được đánh bắt nhẹ nhàng bằng kéo lưới, cho cá vào vèo chứa nếu chuyển đi xa, chuyển nhanh đến nơi nuôi cá rô đồng thương phẩm. Cá rô đồng giống được chuyển bằng bao nylon, có nước và bơm dưỡng khí, bọc 60×90 chở 1.500 – 3000 con/bọc.

Theo sách NXB Nông nghiệp

Kinh nghiệm sản xuất giống cá rô đồng

Chọn cá bố mẹ: Nên chọn cỡ cá 30-70g hoặc lớn hơn, có cơ thể hoàn chỉnh, không bị dị tật, dị hình. Cá có nguồn gốc từ tự nhiên hoặc từ nguồn cá nuôi trong ao.

Cá đực thường nhỏ hơn cá cái và có thân dài, cá cái có bụng lớn và có tỷ lệ chiều dài thân trên chiều cao lớn hơn cá đực.

Nuôi vỗ cá bố mẹ: Ao nuôi vỗ: Nên dùng ao có diện tích 200-500m2, mức nước sau 0,8-1m.

Mật độ nuôi vỗ cá và tỷ lệ đực cái: Cứ 1 m2 ao nuôi vỗ 4-6 con cá bố mẹ. Ghép 2 cá đực với 1 cá cái.

Mùa vụ: Bắt đầu nuôi vỗ từ tháng 12 năm trước.

Cho cá ăn và quản lý ao: Cứ 10kg cá bố mẹ mỗi ngày cho ăn 0,2kg thức ăn hỗn hợp (gồm 25% cám, 25% ruốc và 50% bột cá). Thường xuyên quan sát màu nước và hoạt động của cá. Sau khi nuôi vỗ cá bố mẹ 2 tháng có thể chọn cá cho sinh sản.

Cho cá đẻ nhân tạo: Bể cho cá đẻ: Có thể sử dụng bể xi măng, bể nhựa, lu sành, bể bạt… Tùy số lượng cá cho đẻ nhiều hay ít mà chọn bể có diện tích 10 -20m2.

Giữ mức nước trong bể từ 0.4-0,8m.

Chọn cá bố mẹ thành thục: Chọn những cá cái có bụng to, mềm và những con cá đực khỏe mạnh, linh hoạt để cho đẻ.

Tiêm kích dục tố: Tiêm cho 1 kg cá cái một trong hai loại kích dục tố với liều lượng như sau: 1 ống LRHa 0,2mg + 2 viên DOM (hoặc Motilium) hoặc 2.000-2.500 đơn vị HCG. Cũng tiêm cho cá đực 1 trong 2 loại thuốc trên nhưng với liều lượng chỉ bằng 1/2 của cá cái. Tiêm thuốc vào gốc vây của ngực cá. Sau khi tiêm kích dục tố thả ghép 2 cá đực với một cá cái vào bể đẻ.

Cá bắt đầu đẻ sau khi tiêm kích dực tố 6-8 giờ. Thời gian đẻ kéo dài 2-3 giờ. Vào chính vụ (tháng 5-7) tỷ lệ cá đẻ đạt 96-100%, tỷ lệ thụ tinh đạt 82-93%, tỷ lệ nở 87-98%.

Ấp trứng: Sau khi cá đẻ, trứng được vớt nhẹ nhàng chuyển vào chậu nhựa để ấp. Chậu nhựa có đường kính 50cm, mức nước trong chậu là 15 cm. Mỗi chậu có thể ấp được 50.000 trứng mà không cần phải sục khí.

Sau khi trứng nở thành cá bột được 2-3 ngày tuổi thì chuyển cá bột ra ương ngoài ao.

Ương cá bột thành cá giống: Diện tích ao ương: 500-1000m2

Chuẩn bị ao ương: Tháo cạn ao và phơi đáy. Cứ 100m2 ao ương bón 10kg vôi để diệt tạp, trừ mầm bệnh và bón lót 25-30kg phân chuồng.

Lấy nước vào ao qua lưới lọc trước khi thả cá bột 1-2 ngày. Cá bột được ương trong ao với mật độ 400-600 con/m2.

Cho cá ăn: Trong 10 ngày đầu tiên: Cứ 100.000 cá bột mỗi ngày cho ăn 5 lòng đỏ trứng vịt bóp nhuyễn và 400g bột đậu nành rang xay nhuyễn. Hòa thức ăn với nước tạt cho cá ăn 2 lần/ngày.

Từ ngày thứ 11 đến ngày thứ 20: Cứ 100.000 cá bột mỗi ngày cho ăn 300g bột đậu nành, 300g cám và 300g bột cá. Thức ăn được trộn đều và rải khắp ao cho cá ăn 2 lần/ngày.

Từ ngày thứ 21 đến ngày thứ 30: Mỗi ngày cho ăn 600g cám và 600g bột cá/100.000 cá bột. Trộn đều và rải cho cá ăn.

Từ ngày 31 đến ngày thứ 40, mỗi ngày cho ăn 1,5-2kg cám và bột cá/100.000 cá bột. Thành phần thức ăn là 50-70% cám và 30-50% bột cá.

Kết quả: Sau 50-60 ngày ương, cá đạt trọng lượng trung bình 1,5-2g, tỷ lệ sống đạt 20%.

Đoàn Giang (Bản tin Nông nghiệp – Vĩnh Long)

Một số đặc điểm chính của cá rô đồng (Anabas testudineus Bloch)

  • Cá rô đồng là loại thịt béo, thơm, dai, ngon, có giá trị cao, tiêu thụ khá mạnh cả ở nông thôn, thành phố. Cá rô đồng lớn nhất phát hiện 300g/con, cỡ ca tiêu thụ rộng rãi 7-15 con/kg.
  • Cá rô đồng sống ở nước ngọt, chúng thường sinh sống được ở các loại hình mặt nước: ruộng lúa, ao mương, lung bào, đìa, sông rạch… Trên thế giới cá rô đồng phân bố ở Nam Trung Quốc, Việt Nam, Lào, Campuchia, Thái Lan, Miến Điện, Ấn Độ, Philippines, Châu Phi và các quần đảo giữa Ấn Độ và Chấu Úc.
  • Cá rô đồng sống rất khỏe, có thể chịu đựng được điều kiện thiếu nước trong một thời gian khá lâu do chúng có cơ quan hô hấp trên mang, thở khí trời. Cá rô đồng có thể ra khỏi nước 6 ngày mà không chết (nếu nang phụ không bị khô), dựa vào đặc điểm này có thể vận chuyển cá rô đồng tươi sống đi tiêu thụ ở các nơi.
  • Cá rô đồng thích nghi với khí hậu nhiệt đới,lúc khô hạn cá có thể sống chui rúc trong bùn mấy tháng và có thể ra khỏi mặt nước đi một quãng tương đối xa để tìm nơi sinh sống, có thể lên đất khô tìm mồi ăn.
  • Cá rô đồng nuôi dưỡng bằng giống nhân tạo, cho ăn đủ chăm sóc tốt, cá giảm hẳng tính hoang dã, gần như không đi. Có nơi nuôi 2.000 (m2) được 4,5 tấn cá rô đồng, không có rào, cá cũng không đi, bán giá bình quân 30.000đ/kg (20.000 – 45.000 đ/kg) lời 70.000.000 đ/vụ.
  • Cá rô đồng (là loài cá ăn tạp nghiêng về động vật do cấu tạo tiêu hóa ngắn so với chiều dài của thân cá 0,76 – 1,06. Cá có răng chắc, sắc, xếp thành dãy trên hai hàm, trên 2 hàm còn có răng nhỏ nhọn: hàm răng ở giữa to hơn hai bên và răng có trên xương lá mía.

Cá rô đồng có thể ăn các loài tép, tôm, cá, động vật không xương sống, côn trùng bay trong không khí, lúa, gạo, hạt cỏ, phân động vật…

Cá rô đồng có thể tấn công các động vật nhỏ hơn chúng để ăn, nên được xếp loại cá dữ nhưng mức độ dữ có giới hạn.

  • Các giai đoạn phát triển của cá rô đồng:
  • Trứng sau khi thụ tinh 10 phút, noãn hoàng tách khỏi trứng.
  • 12 giờ 30 phút, hình thành đốt cơ, phôi cử động liên tục.
  • 17 giờ 20 phút, cá nở, cơ thể có nhiều sắc tố, noãn hoàng to, ống tiêu hóa thẳng, có đốt cơ.
  • 60 giờ sau khi nở cá ăn được phiêu sinh động vật (moina) và thức nhân tạo.
  • Ngày thứ 8 trở đi cá rượt đuổi những loài nhỏ hơn để ăn thịt. Tính ăn động vật của cá thể hiện 8-10 ngày tuổi. Do đó ương cá rô đồng muốn có tỷ lệ sống cao phải cung cấp thức ăn đầy đủ, đặc biệt là thức ăn phải ở dạng lơ lửng trong nước vì cá không có tập tính sục đáy bể tìm thức ăn và cá giống khi ương nuôi phải hạn chế sự chênh lệch độ lớn về kích thước nhằm tránh cá ăn thịt lẫn nhau.
  • Ngày 10 cá dài 0,57 – 0,76cm.
  • Ngày 17 cá dài 0,96 – 1,2cm.
  • Ngày 30 cá dài 1,9 – 2,43cm.
  • Đến 20 ngày tuổi, CRĐ đã ngoi lên khỏi mặt nước đớp khí trời, điều đó chứng tỏ cơ quan hô hấp trên mang đã hình thành. Tốc độ tăng trưởng của Cá rô đồng phụ thuộc vào thành phần và số lượng thức ăn cung cấp, bón phân kết hợp cho ăn tăng trưởng của cá cao nhất.
  • Sinh sản của cá rô đồng: 
  • Ở điều kiện tự nhiên, mùa mưa bắt đầu là cá sinh sản, tập trung tháng 5-7 đến tháng 9 thoái hóa hoàn toàn. Trong sản xuất giống nhân tạo, chăm sóc cá cha mẹ tốt thời gian dài hơn 3 tháng. Cá đực thành thục sớm hơn cá cái, cuối vụ đực cái càng thoái hóa.
  • Sức sinh sản tuyêt đối: cá tự nhiên 10 – 11cm số trứng 8.656 trứng ± 1098, cá dài 18 – 19cm số trứng 42.847 trứng ± 972. Cá nuôi vỗ 12cm, số trứng 29.066 trứng khi đó ở tự nhiên có 16.559 trứng. 
  • Đường kính của trứng 0,4-0,8mm, khi cá đã thụ tinh trứng trương lên 0,85 – 1,1mm.
  • Cá rô đồng nuôi vỗ tái phát dục sau 3-4 tuần.

NXB Nông nghiệp

Một số bệnh thường gặp ở cá rô đồng

  1. Bệnh do nấm thủy mi (nấm nước ở cá)
  • Bệnh nấm thủy mi gây tác hại lớn đối với nhiều loài cá nuôi ở giai đoạn cá con, cá thịt và trứng cá. Bệnh thường xảy ra vào mùa mưa và thời tiết lạnh khi nhiệt độ xuống thấp (18 – 200C), đặc biệt khi cá bị xây xát (do đánh bắt hoặc vận chuyển) hoặc do viêm nhiễm ngoài da (do bệnh ghẻ lở hoặc do ký sinh trùng ký sinh).
  • Dấu hiệu bệnh lý : khi cá bị nấm thủy mi ký sinh, trên da cá xuất hiện vùng trắng xám tua tủa những sợi nấm nhỏ, mềm tạo thành những búi trắng như bông có thể nhìn thấy bằng mắt thường (để cá bệnh trong nước dễ quan sát hơn).
  • Cách phòng trị : dùng xanh Malachite liều lượng 1 – 2 g/m3 nước tắm cho cá trong thời gian 30 phút hoặc liều lượng 0,1 – 0,2 g/m3 nước tắm cho cá trong 24 giờ. Cá bệnh được tắm liên tục trong 3 – 5 ngày hoặc dùng muối ăn liều lượng 2 – 3 kg/m3 nước tắm cá trong 24 giờ, tắm cá liên tục trong 3 – 5 ngày.

Để phòng bệnh nấm thủy mi, ao ương nuôi phải được tẩy dọn kỹ sau mỗi vụ nuôi. Khi cá bị xây xát cần phải tắm muối trước khi thả nuôi.

  1. Bệnh lở loét
  • Bệnh xuất hiện ở các loài cá lóc, rô đồng, cá trê, lươn, …
  • Dấu hiệu bệnh lý : những dấu hiệu đầu tiên là cá ít ăn hoặc bỏ ăn, hoạt động lờ đờ, bơi nhô đầu lên mặt nước, da cá xẫm lại, có vết mòn màu xám hoặc các đốm đỏ phát triển ở đầu, thân, các vây và đuôi. Những vết loét dần dần lan rộng thành những vết loét rộng, vẩy rụng, xuất huyết và viêm. Những con cá bệnh nặng các vết loét lõm sâu tới xương. Giải phẩu các cơ quan nội tạng hầu như không biến đổi.
  • Cách phòng trị :
  • Dùng vôi tạt xuống ao với liều lượng 2 kg/100 m 3 , 2 tuần 1 lần.
  • Hoặc dùng muối ăn với liều lượng 2 – 3% tắm cho cá 5 – 15 phút.
  • Hoặc dùng thuốc tím với liều lượng 10 g/m3 tắm cho cá trong thời gian 10 – 30 phút.
  • Dùng kháng sinh có chứa Oxytetracyline, trộn vào thức ăn cho cá ăn liên tục 5 ngày.

Khuyến ngư Kiên Giang

Tác nhân gây bệnh đen thân ở cá rô đồng nuôi thâm canh

Cá rô đồng (Anabas testudineus Bloch, 1792) là loài cá nước ngọt, phân bố rộng ở nhiều nước như Việt Nam, Lào, Campuchia, Thái Lan, Myanmar, Trung Quốc, Ấn Độ, Philippines…

Ở nước ta, cá rô đồng thường sinh sống trong các loại hình mặt nước ruộng lúa, ao, mương, đìa, sông rạch… là loại cá có thịt béo, thơm, dai, ngon, có giá trị cao, được nhiều người ưa chuộng và được tiêu thụ khá mạnh trên thị trường – cả ở vùng nông thôn lẫn thành phố do phù hợp với khẩu vị của người tiêu dùng.

Do đã chủ động được nguồn giống cá rô đồng nhờ sinh sản nhân tạo giống thành công, cũng như do loài cá này có khả năng sử dụng thức ăn chế biến công nghiệp trong khi nuôi nên hiện nay tại nhiều địa phương trong cả nước đã phát triển nuôi cá rô đồng theo hình thức thâm canh.

Cũng vì nuôi thâm canh với mật độ cao và cho cá ăn bằng thức ăn chế biến công nghiệp nên tuy cá rô đồng có thể sống được trong những điều kiện môi trường không thuận lợi nhưng vẫn không tránh khỏi việc xuất hiện một số bệnh ở cá nuôi, như bệnh xuất huyết, lở loét, nấm nhớt, sình bụng… và nhất là bệnh đen thân, gây tổn thất về kinh tế cho người nuôi.

Bệnh đen thân ở cá rô đồng được coi là một bệnh nguy hiểm vì bệnh có thể gây chết khối lượng lớn cá nuôi trong ao. Bệnh thường xảy ra ở giai đoạn đầu của chu kỳ nuôi, trong thời kỳ vào khoảng 20 – 30 ngày tuổi đến 55 – 60 ngày tuổi sau khi thả cá giống, khi chiều dài cá đạt khoảng 3,5cm. Cá nuôi mắc bệnh đen thân có các dấu hiệu bệnh lý đặc trưng như màu sắc toàn thân cá chuyển sang màu đen, đôi khi có hiện tượng tuột vây, đứt đuôi. Cá bệnh thường nổi lên mặt nước, sau đó 1 – 2 ngày sẽ bị chết. Tỷ lệ cá chết vì mắc bệnh này dao động trong khoảng từ 40 – 70%, có trường hợp lên đến 90 – 100%! Giải phẫu cá bệnh thấy gan cá có biểu hiện sưng, xuất huyết hoặc chuyển màu nhợt nhạt, ruột cá không có hoặc có rất ít thức ăn.

Tuy bệnh đen thân gây ra tác hại lớn cho người nuôi thâm canh cá rô đồng nhưng do chưa có những hiểu biết rõ ràng về tác nhân gây bệnh đen thân ở cá rô đồng nuôi thâm canh nên cho đến gần đây vẫn chưa có biện pháp hữu hiệu nào được xây dựng để phòng trị căn bệnh này.

Sau một thời gian phối hợp nghiên cứu giữa Viện nghiên cứu Nuôi trồng thủy sản I với Phân viện nghiên cứu Thủy sản Minh Hải thuộc Viện nghiên cứu Nuôi trồng thủy sản II, năm 2013, câu trả lời về tác nhân gây bệnh đen thân ở cá rô đồng nuôi thâm canh đã được đưa ra.

Bằng cách sử dụng phương pháp bao vây để xác định tác nhân gây bệnh ký sinh trùng, nấm, vi khuẩn và phương pháp phân tích siêu cấu trúc để xác định sự có mặt của virus trong các mẫu cá rô đồng có biểu hiện mắc bệnh đen thân và cá rô đồng không có dấu hiệu bất thường (cá khỏe mạnh dùng làm đối chứng), được thu tại các vùng nuôi cá rô đồng thâm canh ở Bắc Giang, Hải Dương (phía bắc) và Hậu Giang, Đồng Tháp (phía nam) trong năm 2012, nhóm tác giả đã bước đầu làm sáng tỏ tác nhân gây bệnh đen thân ở cá rô đồng nuôi thâm canh.

Về tác nhân gây bệnh là ký sinh trùng, kết quả nghiên cứu cho thấy: Có bắt gặp một số ngoại ký sinh trùng như trùng bánh xe, trùng loa kèn, bào tử sợi và sán lá đơn chủ trên mang và da cá bị bệnh đen thân nhưng không bắt gặp ký sinh trùng Trypanosoma sp. trong máu cá. Tuy nhiên, các ký sinh trùng này được bắt gặp với tỷ lệ nhiễm thấp và đồng thời cũng gặp ở cả cá khỏe mạnh nên không thể coi ký sinh trùng là nguyên nhân gây ra hiện tượng đen thân ở cá rô đồng.

Về tác nhân gây bệnh là nấm: Kết quả nuôi cấy và phân lập nấm từ mang của các mẫu cá bệnh và cá khỏe mạnh đã phát hiện một số giống, loài nấm như Fusariumsp., Saprolegnia sp., Rhyzopus sp., Exophiala sp. và Aspergillus sp. với tần suất thấp và không đồng nhất ở các mẫu, do vậy nấm cũng không phải là nguyên nhân gây ra hiện tượng đen thân ở cá rô đồng.

Về tác nhân gây bệnh là vi khuẩn: Sau khi nuôi cấy và phân lập vi khuẩn từ gan, thận, não của cá bệnh và cá khỏe mạnh, đã thấy xuất hiện một số loài vi khuẩn thuộc các giống Aeromonas, Edwardsiella, Streptococcus, Flavobacterium, Staphylococcus với tỷ lệ nhiễm ở cá bệnh cao hơn ở cá khỏe mạnh. Đây là các nhóm vi khuẩn thường gặp ở cá nước ngọt và chúng có khả năng gây một số bệnh cho cá nuôi. Tuy nhiên, các dấu hiệu bệnh lý điển hình do các nhóm vi khuẩn này gây ra ở các loài cá nuôi trong nước ngọt lại không phải là những dấu hiệu phổ biến của cá rô đồng có biểu hiện mắc bệnh đen thân. Hơn nữa, chúng được phát hiện với tỷ lệ nhiễm thấp nên không thể là tác nhân gây bệnh đen thân ở cá rô đồng nuôi thâm canh, mà có khả năng chỉ là tác nhân cơ hội, tấn công cá khi cá đã bị mắc bệnh do một tác nhân khác gây ra bệnh và trong trường hợp này có thể là tác nhân virus, làm cho bệnh trở nên nặng thêm lên.

Về tác nhân gây bệnh là virus: Kết quả phân tích siêu cấu trúc các lát cắt siêu mỏng của các mẫu gan, thận, não của cá bệnh cho thấy hầu hết các tổ chức gan và thận đều có hiện tượng thoái hóa hoặc hoại tử, đồng thời quan sát thấy sự có mặt của các hạt virus bám quanh khoang thoái hóa. Các hạt virus này có dạng hình cầu đối xứng, đường kính khoảng 150 – 160 nm với lớp vỏ capsid bao ngoài. Riêng ở tổ chức não của cá có biểu hiện của bệnh đen thân, không thấy có sự biến đổi khác thường so với cá khỏe mạnh và không quan sát thấy có các hạt virus trong các tế bào mô não.

Để đánh giá vai trò của virus đối với bệnh đen thân ở cá rô đồng nuôi thâm canh, đã tiến hành tiêm dịch nghiền thô (không lọc) hoặc dịch nghiền lọc gan, thận thu được từ cá bệnh cho cá khỏe mạnh. Kết quả thực nghiệm gây nhiễm cho thấy các dấu hiệu đen thân đặc trưng tương tự ngoài tự nhiên đã xuất hiện ở cá khỏe mạnh trong tất cả các nghiệm thức thí nghiệm. Điều này đã giúp khẳng định virus phát hiện được trong gan, thận của cá bệnh là tác nhân gây bệnh đen thân ở cá rô đồng nuôi thâm canh.

Kết quả xác định được tác nhân gây bệnh đen thân ở cá rô đồng nuôi thâm canh sẽ tạo thuận lợi cho việc xây dựng và ban hành các quy trình, biện pháp hữu hiệu để phòng trị căn bệnh này, giúp phát triển nghề nuôi cá rô đồng thâm canh trong các vùng nước ngọt, nâng cao hiệu quả sử dụng mặt nước và tăng thu nhập kinh tế cho người nuôi cá.

Hoàng Quân – Khuyến Nông VN, 26/06/2015

Sinh sản nhân tạo và nuôi thương phẩm cá rô đồng đầu vuông

Nhóm nghiên cứu kiểm tra độ thuần thục của cá bố mẹ

Sở KH&CN Hải Phòng vừa tổ chức Hội nghị đánh giá kết quả thực hiện đề tài nghiên cứu khoa học “Ứng dụng và hoàn thiện sinh sản nhân tạo và nuôi thương phẩm cá rô đồng đầu vuông tại Hải Phòng” do Trung tâm Khuyến nông – Khuyến ngư Hải Phòng chủ trì thực hiện.

Cá rô đầu vuông là đối tượng nuôi có nhiều ưu điểm như kích thước lớn, tốc độ sinh trưởng nhanh, chất lượng thịt thơm ngon, dễ thích nghi với môi trường nuôi.

Cá bố mẹ được vận chuyển từ tỉnh Hậu Giang về nuôi vỗ tại trại cá giống Phương Lai, xã Cấp Tiến, huyện Tiên Lãng. Cá được ăn thức ăn có hàm lượng protein từ 30-32%. Tuy điều kiện thời tiết hai miền Nam – Bắc khác nhau, cá vẫn sinh trưởng tốt. Tỷ lệ sống của cá trong những tháng mùa đông tuy giảm, nhưng vẫn đạt 86%. Tỷ lệ thành thục đạt 98%, tương đương với một số một số đối tượng cá nuôi truyền thống như cá chép, cá trôi Ấn,… và cao hơn một số đối tượng nuôi khác như cá trắm cỏ, cá chim trắng trong điều kiện khí hậu miền Bắc.

Sau khi nuôi vỗ, cá bố mẹ được chọn lọc để sinh sản nhân tạo. Cá được tiêm kích dục tố, sau đó thả trong bể xi măng theo tỷ lệ 1 đực : 1 cái để tiến hành giao phối và đẻ trứng. Trứng cá được thu gom và ấp trong điều kiện có sục khí với mật độ 3.000 trứng/lít. Cá bột sau 3 ngày nở được chuyển ra ao ương. Thu cá giống sau 40-45 ngày ương.

Với 75.000 con cá giống, nhóm nghiên cứu đã thực nghiệm ứng dụng và hoàn thiện quy trình nuôi thương phẩm cá rô đồng đầu vuông tại Hải Phòng. Kết quả cho thấy, năng suất và tỷ suất lợi nhuận trên vốn đầu tư tại ao nuôi mật độ 25 con/m2 là cao nhất (30 tấn/ha và 25,6%).

Từ quá trình thực nghiệm, nhóm nghiên cứu đề xuất quy trình sinh sản nhân tạo và nuôi thương phẩm cá rô đồng đầu vuông tại Hải Phòng, đồng thời so sánh quy trình này với quy trình tại Hậu Giang. Theo đó, mùa vụ sinh sản của cá rô đồng đầu vuông tại Hải Phòng từ tháng 3 đến tháng 8, tại Hậu Giang từ tháng 2 tới tháng 9; mật độ để nuôi thương phẩm cá rô đồng đầu vuông tại Hải Phòng tốt nhất là 25 con/m2, tại Hậu Giang là 80 – 100 con/m2; nuôi thương phẩm cá rô đồng đầu vuông tại Hải Phòng chỉ thực hiện 1 vụ/năm, tại Hậu Giang là 2 vụ/năm.

Đề tài đã được Hội đồng khoa học đánh giá cao nhờ những hiệu quả thực tiễn mang lại, góp phần chủ động nguồn giống cũng như nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm thủy sản của thành phố.

Đức Hiếu (Sở KH&CN Hải Phòng) – Khoa học phổ thông, 20/11/2013

Cá rô đầu vuông

Cá rô đầu vuông có kích thước lớn gấp nhiều lần so với cá rô đồng bình thường. Khi còn nhỏ, cá rô đầu vuông giống như cá rô đồng nhưng khi lớn, đầu cá có hình hơi vuông, thân dài, có hai chấm đen ở gần đuôi và mang cá. Tuy kích thước và trọng lượng rất lớn nhưng chất lượng cá thơm ngon, thời gian nuôi càng kéo dài, cá càng lớn chứ không giảm cân như cá rô đồng bình thường. Nuôi trong 4 tháng đầu, có thể đạt trọng lượng 6 con/kg.

  1. Chọn và cải tạo ao nuôi:

Chọn ao nuôi: Ao nuôi cá rô phải có diện tích tối thiểu trên 200m2. Độ sâu mực nước chết từ 1,6-2m. Xung quanh bờ ao phải thoáng, không có bóng cây, ao nuôi cá rô phải chủ động được nguồn nước cấp và nguồn nước thải không ảnh hưởng đến các hộ nuôi xung quanh cũng như sinh hoạt của người dân.

Cải tạo ao nuôi:

– Tác cạn nước trong ao nuôi, bắt hết cá tạp.

– Rãi vôi nông nghiệp với lượng 7-10kg/100m2, phơi đáy ao tử 3-5 ngày

– Bơm nước mới cho ao với mức nước 5 tấc.

– Gây thức ăn tự nhiên cho ao: Đậu nành hòa vào nước, tạc xuống ao với lượng 3-5 kg/100m2 hoặc có thể dùng phân hóa học N-P-K với lượng 1-2 kg/100m2. 2 ngày sau tiến hành bơm nước đủ cho ao nuôi. 

  1. Chọn và thả giống nuôi:

Chọn giống: Cỡ cá rô giống thả thích hợp nhất là từ 150-200 con/kg, cá giống phải đồng cỡ, không dị hình, dị tật, cá bơi lội nhanh nhẹn, màu sắc tươi sáng.

Thả giống: Thả giống cá rô phải thả vào lúc sáng sớm hoặc chiều mát, để bao cá giống xuống ao ngâm 10-20 phút rồi mở miệng bao cho cá ra từ từ.

  1. Chăm sóc và quản lý:

Chăm sóc: Thức ăn cho cá rô là thức ăn ăn công nghiệp hoặc thức ăn chế biến

  • Thức ăn công nghiệp: Có độ đạm từ 35-28 tùy giai đoạn cá nuôi mà cho thức ăn có độ đạm khác nhau. 
  • Cá giai đoạn mới thả đến 1 tháng tuổi: Cho ăn 35 độ đạm, khẩu phần ăn 5-7% trọng lượng cơ thể
  • Cá giai đoạn 1 tháng đến 2 tháng tuổi: Cho ăn 30 độ đạm, khẩu phần ăn 4-6 % trọng lượng cơ thể
  • Cá giai đoạn 2 tháng đến thu hoạch: Cho ăn 28 độ đạm, khẩu phần cho ăn 2-3 % trọng lượng cơ thể.
  • Thức ăn chế biến: Gồm 30% bột cá hoặc cá tạp xay nhuyễn, cám tấm 70%. Trộn 3 loại này lại nấu chín cho cá ăn, khẩu phần cho ăn tương tự như cho cá ăn bằng thức ăn công nghiệp.

Quản lý: Định kỳ 7-10 thay nước cho ao nuôi một lần, lượng nước thay từ 20-40 % lượng nước trong ao. 

  1. Phòng và trị một số bệnh thường gặp trên cá rô:

a. Bệnh nấm thủy my: Bệnh này thường gặp ở cá giai đoạn mới thả giống, dấu hiệu bệnh là trên da cá có các vết trắng nhỏ như bông gòn, cá bơi lội lờ đờ. Trị bệnh bằng cách dùng Iodine hòa vào nước tạc đều xuống ao. Trên thị trường có rất nhiều loại thuốc có thành phần là Iodine, trên bao bì có hướng dẫn liều dùng cụ thể cho từng giai đoạn cá nuôi. 

b. Bệnh lở loét: Bệnh này do vi khuẩn gây ra do đó để trị bệnh phải dùng kháng sinh.Có thể dùng Sunfa hoặc Cotrim để trị bệnh. Trên thị trường có rất nhiều loại thuốc có thành phần Sunfa và Cotrim, trên bao bì có hướng dẫn liều dùng cụ thể cho từng giai đoạn cá nuôi.

Ks. Ngô Tuấn Tính – Trung tâm Khuyến nông An Giang

Các tin có liên quan