Kỹ thuật nuôi cá song (cá mú)
I. GIỚI THIỆU
Cá song thuộc loài cá vùng nước ấm, phân bố ở biển nhiệt đới, á nhiệt đới, phân bố rất ít ở vùng ôn đới. Vùng biển Thái Bình Dương có tới 37 loài, Trung Quốc có 31 loài, Nhật Bản có 25 loài, Đài Loan có 27 loài, Hồng Kông có 17 loài.
Ở nước ta cá song (còn gọi là cá mú) có trên 30 loài (theo Viện Hải Dương Học Nha Trang), trong đó có các loài có giá trị kinh tế, giá trị xuất khẩu cao là:
- Cá song đỏ Epinephelus akaara
- Cá song hoa nâu E. fuscoguttatus
- Cá song vạch E. brunneus
- Cá song chấm tổ ong E. merra
- Cá song mỡ E. tauvina
- Cá song đen E. heeberi
- Cá song cáo E. megachir
- Vùng biển vịnh Bắc bộ có cá song mỡ, song đen, song cáo.
- Vùng biển miền Trung có cá song đỏ.
- Vùng biển Đông và Tây Nam bộ có song đỏ, song mỡ.
Cá song thường sống ở các hốc đá, các áng, vùng ven bờ quanh các đảo có rạn đá san hô, thường ở độ sâu từ 10 – 30m, chịu đựng được độ mặn rộng từ 11 – 41‰. Phạm vi nhiệt độ thích hợp từ 22 – 28oC thích hợp nhất là từ 25-28oC, ở nhiệt độ 18oC cá bắt đầu ít ăn, ở nhiệt độ 15oC, cá gần như ngưng hoạt động.
Cá song thuộc nhóm cá dữ ăn mồi động vật. Thường rình bắt mồi ở nơi yên tĩnh. Cá song tranh ăn dữ dội, con lớn lấn át con bé, khi đói thiếu mồi ăn, chúng ăn lẫn nhau. Đặc tính này thể hiện ngay ở giai đoạn cá con, vì vậy trong quá trình nuôi phải thường xuyên san cỡ đồng đều nuôi riêng.
Cá song đẻ trứng nổi, có hạt dầu ở trong. Mùa đẻ của cá song vùng phía Bắc vào tháng 5,7. Vùng miền Trung vào tháng 12,3. Cá song thuộc nhóm cá chuyển giới tính đực cái, khi còn nhỏ đều là cá cái, khi lớn đều là cá đực như cá song mỡ, cá dưới 50cm đều là cá cái, khi đạt 70cm trở lên chuyển thành cá đực.
Cá song mới nở ăn động vật phù du. Cá lớn ăn tôm, cá con. Cá thường rình bắt mồi sống, không ăn mồi chết, không ăn mồi chìm ở đáy. Nuôi trong lồng thường cho ăn thức ăn hồn hợp. Dùng thịt nhuyễn thể, thịt cá, cua tươi xay nhuyễn hoặc băm nhỏ để cho ăn.
Nguồn cá song giống được khai thác từ tự nhiên. Với cá cỡ nhỏ từ 1-2cm gọi là “cá hạt dưa”. Ương nuôi lên giống 8-12cm nuôi trong 8-10 tháng đạt cỡ trên 500g thì xuất bán.
II. ƯƠNG NUÔI CÁ SONG GIỐNG
Cá song giống cỡ 9-12cm bắt trong tự nhiên đưa vào lồng nuôi thành cá thịt thương phẩm thường là quy cỡ không đều, số giống gom không tập trung, thời vụ thả giống kéo dài. Mặt khác, quá trình khai thác vận chuyển cá thường bị sây sát. Trong những năm gần đây, ngư dân miền Trung đã có kinh nghiệm gom cá song nhỏ, “cá hạt dưa” cỡ 1-2cm để ương thành cá giống lớn, cung cấp số lượng giống nhiều, tập trung đúng thời vụ, cá đồng cỡ, khoẻ mạnh cho các lồng nuôi cá thịt.
- Ương cá giống trong ao:
- Địa điểm làm ao: Chọn vùng bãi triều đáy là cát bùn, nước có độ mặn từ 10‰ trở lên, có điều kiện thay nước thuận lợi để làm ao.
- Diện tích ao: Từ 100-500m2, mực nước sâu từ 1-1,5m. Tuỳ theo nguồn giống thu được thường xuyên ít hay nhiều để xác định diện tích ao.
- Cống ao: Ao có cống lấy và tháo nước để thường xuyên có thể thay nước. Phía trước cống đào sâu hơn đáy ao từ 25-33cm với diện tích bằng 1/10 – 1/15 diện tích đáy để khi tháo nước thu hoạch cá sẽ tập trung ở đây.
- Vệ sinh ao, bón lót: Bón lót: 100m2 ao, dùng 7-15kg vôi để diệt cá tạp, sinh vật có hại và cải tạo nền đáy ao, ao chua có thể dùng nhiều vôi hơn. Để khi thả cá xuống ao cá có mồi ăn ngay, tẩy vôi được một ngày sau lấy nước vào ao (20-30 cm), bón lót phân chuồng cứ 100m2 ao bón 30-40kg phân hữu cơ, sau đó dâng dần mức nước lên, 3 ngày sau thả cá.
- Mật độ thả: 30-50 con/m2
- Cho ăn, chăm sóc, quản lý: Sau khi bón lót, hàng tuần bón thúc một lần phân chuồng với lượng 10-15kg/100m2. Hàng ngày cho ăn thức ăn thịt nhuyễn thể, cá tươi, tôm tươi nghiền nhuyễn, có thể vớt ruốt tươi rửa sạch cho ăn. Ngày cho ăn 3-4 lần, lượng cho ăn bằng 5-10% trọng lượng cá, cần theo dõi: sức ăn của cá, thời tiết để điều chỉnh lượng thức ăn hàng ngày. Khi cho ăn vãi từ từ, hạn chế thức ăn chìm xuống đáy, cho ăn ở 2-3 điểm.
Hàng ngày thay khoảng 20-30% nước ao. Theo dõi hoạt động của cá.
- Thu hoạch: Ương được 2-3 tháng cá đạt cỡ 9-12cm bắt đầu thu. Lúc đầu có thể thả bóng, lờ, ống nhựa để thu tỉa, sau đó rút nước thu ở khu tập trung.
- Ương giống trong lồng:
- Chọn vùng ương: chọn vùng ven bờ eo, vịnh, đầm áng khuất gió, sóng nhẹ, yên tĩnh, nguồn nước không bị ô nhiễm, điều kiện chăm sóc quản lý thuận tiện.
Độ mặn của nước dao động từ 10‰ trở lên.
Độ sâu nơi đặt lồng khi triều kiệt là 2m. Nhiệt độ nước từ 20oC trở lên, thích hợp nhất là 25-28oC.
- Thiết kế lồng nuôi: Dùng gỗ chịu mặn có đường kính 8-10cm, dài 4-4,5m làm cọc đống sâu xuống nền đáy theo hình chữ nhật hoặc hình vuông. Mỗi cọc cách nhau 1-2m. Đóng cọc đứng xong đóng nẹp ngang để giữ cho khung cọc vững chắc.
Dùng lưới nylon sợi thô (1-2mm) không có gút, mắt lưới nhỏ hơn chiều cao thân cá.
Cỡ cá (cm) Kích thước mắt lưới (2a=cm)
2-5 0,5
6-15 1,0
16-30 2,0
31-50 5,0
Trên 50 8,0
Lưới may thành giai, cột cố định trong khung gỗ. Mặt trên của giai có nắp bằng lưới mắt thưa. Đáy giai may 2 lớp lưới. Chiều cao của giai 2m khi cố định giai vào cọc phải cách đáy ít nhất 40cm, phần ngập trong nước là 1,5m, phần cao hơn mặt nước 0,5m.
Diện tích lồng có thể làm to nhỏ tuỳ theo nguồn giống thường xuyên gom được. Thường làm kích cỡ lồng: (4 x 2 x 2); (3 x 1,5 x 2); (10 x 5 x2) Hoặc: (2 x 2 x 2); (3 x 3 x 3).
- Mật độ thả: 50-70 con/m3
Thường thả cá giống vào tháng 12,1 và 2. Trước lúc thả giống thường tắm cho cá bằng thuốc xanh malaxit (Malachite green) với nồng độ 5-10 ppm (thuốc này đã bị cấm sử dụng theo QĐ 20/2003/QĐ-BTS) trong 5-10 phút.
- Cho ăn, chăm sóc, quản lý: Dùng thịt nhuyễn thể, cá, tôm tươi nghiền nhuyễn cho ăn, có thể vớt ruốc, tép tươi rửa sạch cho ăn.
Ngày cho ăn 3-4 lần, lượng cho ăn bằng 5-10% trọng lượng cá. Cần theo dõi sức ăn của cá, theo dõi thời tiết để điều chỉnh lượng cho ăn hàng ngày, khi cho ăn vãi từ từ, hạn chế thức ăn chìm xuống đáy, cho ăn ở 2-3 chỗ trong lồng.
Ương được 15-20 ngày phải phân cỡ san cá một lần.
- Thời gian ương:
Ương khoảng 1,5-2 tháng sau cá đạt 8-10cm thì thu hoạch.
III. NUÔI CÁ SONG THỊT TRONG LỒNG
- Chọn vùng nuôi:
Chọn các vùng eo, vịnh, đầm, phá khuất gió, sóng nhẹ. Nước độ mặn dao động từ 10-33‰, nhiệt độ nước từ 20oC trở lên. Mức nước sâu khi triều kiệt là 1-2m, nguồn nước trong sạch không bị ô nhiễm bởi nước thải công nghiệp, thuốc trừ sâu… để nuôi.
- Thiết kế lồng nuôi:
a. Lồng lưới cố định:
Dùng gỗ chịu mặn có đường kính 10 -15cm, dài 4 – 4,5m đóng cọc xuống nền đáy nền đáy theo hình vuông hoặc hình chữ nhật, tuỳ theo diện tích nuôi. Mỗi cọc cách nhau từ 1-2m sau khi đóng cọc, đóng các nẹp gỗ ngang để giữ cố định các cọc. Dùng lưới nylon sợi thô 1-2mm, mắt lưới 2a = 2-8cm may thành giai. Đáy giai có hai lớp lưới để bảo vệ. Nắp giai là lưới thưa và có cửa ra vào để kiểm tra.
Giai được cố định trong khung gỗ bởi các dây giềng ở các góc. Đáy giai cách nền đáy 40-60cm, phần ngập trong nước là 1,5m, phần cao hơn mặt nước là 0,5m. Mỗi giai có thể tích 30-70m3.
b. Lồng lưới trên bè:
Kết cấu lồng nuôi yêu cầu như đối với lồng lưới cố định. Về kích cỡ, lồng nuôi cá giống, thường là 2 x 2 x 2m hoặc 3 x 3 x 3m. Kích cỡ lồng nuôi cá thịt thường là 3 x 3 x 3m hoặc 4 x 4 x 3m.
- Cấu trúc bè nuôi:
(1) Khung bè: Là gỗ ván xẻ chịu nước thuộc nhóm gỗ 2 hoặc 3. Ván xẻ dài khoảng 8m, rộng 0,20m, dày 1,2 – 1,5cm. Ván gỗ ghép nối với nhau bằng bu lông 10 -12cm, 12 thanh xà ghép lại thì được một ô lồng gồm 4 lồng lưới (hình 1a, b). Nhiều ô lồng ghép lại thành bè.
(2) Phao: Khung bè được nâng nổi lên trên mặt nước nhờ hệ thống phao. Phao là thùng nhựa hoặc phao xốp.
Phao 200 lít dùng 5-7 chiếc cho một ô lồng. Phao xốp 80 x 60 x 50cm có sức nổi 250kg. Phao buộc dưới gỗ ván
(3) Neo: 4 góc bè có neo cố định (25-50kg/cái), dùng dây nylon Æ = 25-30mm để neo bè.
Trên bè dành một diện tích nhất định làm kho chứa (thức ăn, lưới cụ, máy bơm…), nhà làm việc (kiểm tra môi trường, dịch bệnh, theo dõi thời tiết…) và lán bảo vệ.
Bè nuôi cá biển như một xí nghiệp nuôi thu nhỏ đồng thời có thể di chuyển, tổ chức nuôi ở vùng nước sâu, nuôi nhiều loài cá, nuôi nhuyễn thể (trai cấy ngọc).
c. Lồng tre:
Ngư dân vùng đầm phá Tam Giang – Thừa Thiên Huế có kinh nghiệm làm lồng bằng tre là nguồn nguyên liệu sẵn có của địa phương. Giá thành làm lồng hạ. Nan tre dày 1cm, rộng 3-4cm, dài 1,5-2m tuỳ theo độ sâu nơi đặt lồng, chiều cao của nan có thể từ 1,5-2m.
Lồng làm theo hình tròn có đường kính 2,5-2,8m, cao 1,5m. Các nan tre bện cước Æ = 0,18cm, nan cách nan 1,2cm, mỗi đường bện cách nhau 20cm, gồm 3 đường bện, đáy lồng là sạp tre đan khít.
Nắp lồng là một cửa rộng kích thước 60 x 60cm để ra vào kiểm tra bên trong.
Có nơi làm lồng theo hình bầu dục, lồng cao 0,9-1,8m. Đáy lồng là sạp tre, nắp lồng bằng lưới. Với lồng cao 1,8m thì phân nửa dưới lồng bằng tre cao 90cm, phần trên là lưới cao 90cm. Chính giữa nắp lưới ở trên có một ống nhựa để thả thức ăn vào lồng, không làm cửa.
- Vị trí đặt lồng:
Đặt lồng nơi có dòng chảy nhẹ, có lưu tốc 0,2-0,4m/giây, mức nước sâu 2,5m. Nước sạch không bị ô nhiễm bởi nước thải công nghiệp, hoá chất độc hại.
Lồng được treo trên 4 cọc, cách đáy 0,4-0,5m, cách mặt nước 0,3-0,4m.
- Vận chuyển giống:
a. Xử lý cá trước khi vận chuyển:
- Xả hơi trong bong bóng cá: Cá song giống khai thác ở độ sâu khoảng 8m nước. Vì vậy để giảm chênh lệch về áp suất bên ngoài với cơ thể cá, phải dùng kim châm chọc vào bóng hơi để xả hơi trong bóng hơi cho cá thích nghi với áp suất bên ngoài.
Dùng kim chọc qua gốc vây ngực với độ nghiêng 1,5-2,5cm (tuỳ cỡ cá to nhỏ) về phía lưng, thấy có tiếng xì hơi là được.
- Nuôi tạm: Cá bắt được nuôi tạm 1-2 tuần trong lồng hoặc thuyền thông thuỷ 1-2 tuần rồi vận chuyển.
Hai ngày đầu không cần cho ăn, từ ngày thứ 3 bắt đầu cho ăn, lúc đầu cho ăn ít, sau tăng dần.
Trong lúc vận chuyển phải cho cá nhịn ăn 2 ngày và phải tắm phòng bệnh cho cá.
- Tắm phòng bệnh:
Tắm trong dung dịch Furacin 0,05% từ 3-5 phút.
Tắm trong dung dịch KMnO4 0,15 ppm 5-10 phút.
Tắm nước ngọt sạch 10-15 phút.
Loại bỏ những con bị sây sát nặng, cơ thể yếu.
b. Vận chuyển:
- Vận chuyển bằng túi nylon: Thời gian vận chuyển dưới 12 giờ có thể dùng túi nylon.
Mật độ: với cỡ cá 4cm – cá tráp đóng 400-600 con/ túi; cá vược 200-300 con/túi.
- Vận chuyển bằng thuyền thông thuỷ: thời gian vận chuyển khoảng 24 giờ dùng thuyền thông thuỷ để vận chuyển. Thời gian quá 24 giờ phải thay nước trong thuyền. Nước dùng để thay phải đảm bảo có độ mặn, nhiệt độ phù hợp với nước trong thuyền.
Mật độ vận chuyển: Cá song cỡ 100-150g/con thả 70-75 con/m3.
Cá tráp, cá vược cỡ 4cm thả 1.000 – 1.500 con/m3.
- Giống nuôi:
Chọn giống khoẻ mạnh, sắc cá đẹp, không xây sát.
- Mật độ thả:
Phân loại nuôi theo từng lồng với cỡ đều nhau.
- Vùng Thừa Thiên Huế thường nuôi cá song ghép với cá hồng, cá dìa, mật độ nuôi từ 30-45 con/m3.
Lồng 6-9m3 ương 200-300 con/lồng. Trong đó cá song cỡ 8cm, nặng 70-100g, cỡ 12cm nặng 150g, cá dìa cỡ 2cm nặng 1,3g, cá hồng 6cm nặng 50g.
- Vùng sông Cầu nuôi trong lồng lưới chỉ nuôi cá song và thả với mật độ thưa: cỡ 8-12cm thả 15-30 con/m3.
- Vùng có nhiệt độ thấp phía Bắc, thả với mật độ dày hơn 40-50 con/m3, trung bình 1m3 nước có thể thả 8-12kg cá giống.
Thường thả giống vào sáng sớm hoặc chiều mát. Trước khi cho cá vào lồng cần tắm phòng cho cá bằng thuốc xanh (Malachite green) với liều lượng 5-10g/m3 nước (thuốc này đã bị cấm sử dụng theo QĐ 20/2003/QĐ-BTS), tắm trong 15-20 phút.
- Cho ăn:
Cho ăn nhuyễn thể tươi, cua, ghẹ, cá băm nhỏ, lượng cho ăn bằng 5-10% trọng lượng cá. Ngày cho ăn hai lần vào sáng sớm và chiều tối. Khi cho ăn vãi thức ăn chậm, hạn chế thức ăn chìm xuống đáy, cho ăn ở 2-3 điểm hoặc rải đều khắp lồng.
Cá đói thường lao lên mặt nước bắt mồi, cá no, thời tiết thay đổi đột ngột thường ít ăn. Những ngày mưa bão có thể cho ăn một lần trong ngày. Hệ số thức ăn (tươi) với cá song thịt là 7,2 – 11,6.
- Chăm sóc, quản lý:
- Hàng ngày theo dõi sức ăn, hoạt động của cá và môi trường nước. Khoảng 3-5 ngày cọ rửa lưới một lần cho thông thoáng nước, tăng sức nổi của lồng.
Với lồng tre 10 -15 ngày cọ rửa đáy lồng một lần.
- Hàng tháng phải phân lọc con lớn trội nuôi riêng do cá mú tranh ăn mạnh, con lớn át con bé. Khi thiếu mồi ăn, đói, chúng ăn lẫn nhau.
- Vào những ngày khí áp thấp, cá bị ngột phải dùng mái chèo khuấy nước, chùi rửa lồng cho thông thoáng.
- Khi có dự báo bão phải di chuyển bè đến nơi an toàn. Buộc chặt lưới, che nắp lồng và gia cố thêm neo bè..
IV.PHÒNG VÀ TRỊ BỆNH CHO CÁ
- Trước lúc thả giống nuôi phải tắm trong dung dịch xanh Malaxit (Malachite green) với nồng độ 5-10 ppm (5-10g thuốc cho 1m3 nước) (thuốc này đã bị cấm sử dụng theo QĐ 20/2003/QĐ-BTS) . Tắm trong 10-15 phút.
- Không cho cá ăn tất cả các loại thức ăn đã ươn thối, đã lên mốc.
- Vệ sinh lồng lưới: Trung bình một chu kỳ nuôi phải thay lưới, làm vệ sinh lưới 3-4 lần. Lưới thay ra giặt sạch rồi ngâm vào nước ngọt cho chết hết rong rêu, đập lưới cho rong rêu rụng ra và rửa lại bằng nước ngọt cho sạch rồi ngâm vào dung dịch nước rửa (100 lít nước + 1 kg sulfat đồng) trong 2-3 ngày. Rửa lại bằng nước ngọt và phơi khô.
- Vợt vớt cá và các dụng cụ vận chuyển cá phải thường xuyên làm vệ sinh sạch sẽ.
- Phòng trị các bệnh thường gặp:
Bệnh đốm đỏ, xung huyết do vi khuẩn gây nên:
Dấu hiệu bệnh: thân cá, gốc vây ngực, vây lưng, đuôi có nhiều đốm đỏ, lở loét, hậu môn sưng đỏ, con bị nặng rụng vẩy, có nhiều chỗ lở loét và chết.
Chữa trị: Tắm cho cá trong dung dịch thuốc kháng sinh oxy tetraxycline với liều lượng 10g/m3 nước trong 5 -10 phút.
Dùng dung dịch thuốc tím KMnO4 (10 ppm) rửa sạch vết thương cho cá, sau đó bôi thuốc mỡ tetraxycline.
Điều trị liên tục trong 3 ngày. Trộn thuốc oxy tetraxycline với liều lượng 0,5g/kg thức ăn cho ăn trong 7-8 ngày.
Bệnh hoại sơ: Sau khi đánh bắt hoặc vận chuyển cá bị nhiễm trùng vết thương. Vết thương có mủ trắng, thịt bị loét, lan rộng ra toàn thân. Cá bỏ ăn, bơi lờ đờ rồi chết.
Cách phòng trị: tắm trong dung dịch oxy tetraxycline 25ppm 5-10 phút, mỗi ngày một lần.
Rửa vết thương bằng dung dịch Furacin 0,05% 3-5 phút, cách một ngày tắm một lần.
Rửa vết thương bằng dung dịch KMnO4 0,01%, sau đó lau khô và bôi mỡ tetraxycline vào vết thương.
Trộn sulfamid vào thức ăn: 100 – 200mg sulfamid cho 1kg cá hoặc 20-50mg thuốc kháng sinh cho 1kg cá.
Bệnh vi khuẩn đường ruột: Do vi khuẩn Aeromonas gây nên. Cá bỏ ăn, bơi lờ đờ, ruột sưng to, cá bị nặng chảy máu ruột rồi chết.
Cách phòng trị: Trộn thuốc vào thức ăn cho cá ăn 5-7 ngày. Liều dùng 100-200mg sulfamid cho 1 kg cá, hoặc 20-25mg thuốc kháng sinh cho 1kg cá.
- Bệnh đốm trắng: Do tiêm mao trùng Ciliata gây nên. Đu và mang cá có nhiều nhớt, cá khó thở bơi lờ đờ trên mặt nước. Bệnh lây lan nhanh và gây chết nhiều.
Cách phòng trị: Ngâm cá trong dung dịch 2ppm sulfat đồng pha nước biển trong 2 giờ. Mỗi ngày ngâm một lần cho đến khi khỏi bệnh.
- Ngâm cá trong nước ngọt 3 ngày liền, mỗi ngày một lần, mỗi lần ngâm 4-5 phút.
- Ngâm cá vào dung dịch Chlorine hoặc KMnO4 5-8 ppm pha với nước ngọt. Ngâm trong 2-3 phút, cách ngày làm một lần.
THU HOẠCH:
Nuôi được 6-8 tháng sau cá đạt 500-800g/con thì thu hoạch. Cần thu hoạch trước mùa lạnh vì ở nhiệt độ 18oC cá ngừng ăn, không lớn.
Web Ninh Thuận
Các bệnh thông thường ở cá mú
- Virus:
Là tác nhân gây bệnh có kích thước nhỏ nhất, thông thường bằng 1/20 kích thước của vi khuẩn. Chúng xâm nhập vào sinh vật sống, sinh sản bên trong ký chủ và gây bệnh bằng cách làm tổn hại các mô của ký chủ. Ở cá mú có 2 loại virus được báo cáo là virus gây hoại tử thần kinh (VNN) và irido virus…
Có thể ngăn ngừa bệnh bằng cách: Tiệt trùng các bể và phương tiện khác trước khi sử dụng. Tránh làm sốc cá khi vận chuyển và thả giống. Cung cấp đầy đủ thức ăn, chất dinh dưỡng cho cá.
- Bệnh do vi khuẩn
Trong môi trường nuôi có thể thấy vi khuẩn bám vào lưới, sống với cây cỏ và động vật trong môi trường nuôi. Kết với các phân tử trong nước. Dạng phiêu sinh hoặc nổi tự do trên mặt nước.
Cơ quan bị lây nhiễm: Vây và đuôi, thân, mắt.
Dấu hiệu: Vây bị rữa, xuất huyết dưới da, có khối u. Màu sắc đậm, mắt đục, mắt lồi có xuất huyết hoặc không. Cá chết ở đáy.
Vi khuẩn bị nhiễm bệnh cho cá khi: Mật độ nuôi quá cao, chất lượng dinh dưỡng và nước kém. Nhiễm ký sinh trùng và chúng tạo vết thương, đó chính là lối vào cho vi khuẩn xâm nhập. Ô nhiễm chất hữu cơ vì thức ăn thừa và nước kém lưu chuyển. Cá bị thương.
Phòng ngừa: Duy trì mật độ cá và sinh khối thích hợp bên trong hệ thống nuôi. Duy trì sự lưu thông nước cho lồng nuôi bằng cách vệ sinh và thay lồng để giảm thiểu sinh vật bám trên lưới. Thức ăn tươi hoặc nhân tạo cho cá phải được bảo quản tốt.
Xử lý: Tắm cá trong nước ngọt, không kéo dài quá 15 phút. Tắm cá nhanh bằng dung dịch formalin và iodine.
- Các bệnh do nấm:
Nấm là vi sinh vật có dạng sợi, tăng trưởng không cần ánh sáng, chúng tạo năng lượng bằng cách tiêu thụ chất hữu cơ…
Phòng ngừa: Tránh làm cá bị thương, chuyển ngay cá có dấu hiệu bị nhiễm nấm khỏi hệ thống nuôi. Không cho cá thức ăn bẩn và hư. Bảo quản tốt thức ăn nhân tạo.
- Bệnh do ký sinh trùng:
Cơ quan bị ảnh hưởng: Mang và thân.
Dấu hiệu: Cá tập trung tại mặt nước hoặc gần nơi sục khí. Mang có màu lợt. Màu sắc của thân đậm hơn, trên thân xuất hiện những đốm như nhung.
Hậu quả: Da và mang cá bị hoại tử. Cá chết nhiều nếu không được điều trị.
Điều trị: Tắm cho cá bằng Sulfat đồng, hàm lượng 0,5ppm trong 3 – 5 ngày, sục khí mạnh. Thay nước và hóa chất hàng ngày hoặc tắm cho cá bằng Formalin, hàm lượng 200ppm trong 1 giờ, sục khí mạnh. Chuyển cá vào bể nước sạch 2 lần trong 3 giờ xử lý cá.
- Trùng lông tơ:
Chúng có hình quả lê, kích thước 0,5mm với lớp lông tơ trên bề mặt. Ký sinh trên da cá.
Cơ quan bị nhiễm: Bề mặt thân, mắt cá
Các dấu hiệu của bệnh: Xuất hiện các chấm trắng trên da cá. Cá cọ mình vào các vật cứng khi bơi. Trên thân cá xuất hiện nốt nhày.
Điều trị: Tắm 0,5ppm CuSO4 (0,5g CuSO4 trong 1 tấn nước) 5 – 7 ngày, sục khí mạnh, thay nước đã xử lý và hóa chất hàng ngày. Tắm cá bằng nước có 25ppm Formalin (25ml Formalin trong 1 tấn nước) 5 – 7 ngày, sục khí mạnh, thay nước đã xử lý và hóa chất hàng ngày. Chuyển cá đã xử lý vào bể nước sạch 2 lần trong vòng 3 ngày.
- Sán lá ở da:
Là loài sán ký sinh bên ngoài cơ thể, có chiều dài 2 – 6mm.
Cơ quan bị nhiễm: Bên ngoài cơ thể, mắt.
Điều trị: Tắm cá trong nước ngọt 10 – 30 phút hoặc tắm cá trong dung dịch oxy già 150ppm, trong 10 – 30 phút, sục khí mạnh. Ngoài ra còn chú ý sán lá ở mang và giun tròn gây hại.
NVN, 4/6/2004 (Theo tài liệu của TTPT nghề cá Đông Nam Á)
Nuôi cá bống mú trong ao đất
Nghề nuôi cá bống mú trong ao đất là triển vọng mới. Chi phí đầu tư vừa phải, hệ số thức ăn thấp, cá ít bị bệnh, rất phù hợp ở vùng đất ven biển Kiên Lương (Kiên Giang). Huyện đang khuyến khích mở rộng diện tích nuôi, và tăng sản lượng mỗi năm, nhắm đến xuất khẩu cá bống mú trong tương lai.
Mô hình đưa cá bống mú lồng bè ngoài biển vào nuôi trong ao đất dưới tán rừng phòng hộ ở ấp Ba Núi, xã Bình An (Kiên Lương, Kiên Giang) mang lại hiệu quả kinh tế cao.
Lãi 2 tỷ đồng/năm
Trước hết phải kể đến nông dân sáng tạo đưa mô hình độc đáo từ biển khơi vào trong đất liền, đó chính là ông Nguyễn Hữu Trí ở ấp Ba Núi. Hôm chúng tôi đến, ông Trí đang hì hục đặt máy bơm nước trong vuông ao để chuẩn bị thả nuôi cá bống mú đợt mới.
Ông Trí nói: Gia đình có 2 ha đất bị nhiễm phèn, trồng lúa cho năng suất thấp và bấp bênh, trồng cây ăn trái thì không hiệu quả. Thấy đồng đất khó khăn như vậy, bao lần tôi định bỏ hoang, tìm việc khác để mưu sinh. Năm 1998, thấy một số nơi bà con thả nuôi tôm sú đạt hiệu quả, tôi cũng bắt chước làm theo nhưng đều thất bại, trở nên trắng tay. Có lúc phải đi làm thuê làm mướn cho người ta để kiếm tiền mua gạo ăn qua ngày.
Câu chuyện nuôi cá biển trong ao của ông Trí mới bắt đầu từ năm 2007, ông được người bạn thân ở xóm rủ đi biển đánh bắt cá bống mú. Trong suốt 1 tuần ở ngoài biển lượng cá đánh bắt được khá nhiều nhưng tàu hết nước để uống. Ông và người bạn tìm cách rẽ vào hòn đảo để xin nước ngọt và đổi cá với chủ nhà. Tình cờ ông thấy phía sau nhà người cho nước uống có nuôi khoảng 10 con cá bống mú dưới ao đất mà vẫn sinh sống khỏe mạnh.
Từ ý tưởng đã hình thành trong đầu, giống như ngọn đuốc bừng sáng. Trở về nhà ông bàn với gia đình, sáng hôm sau sang nhà bà con vay mượn 20 triệu đồng để cải tạo ao và mua cá giống về thả nuôi. Ban đầu ông còn “nhát tay”, vì chưa có kinh nghiệm nhiều nên chỉ nuôi tập trung vào 2 cái ao với diện tích khoảng 5 công thả thử xem sao.
Sau khi xử lý nước xong nuôi thấy cá khỏe mạnh, ông bắt đầu đi đặt hàng các ngư dân trên địa bàn, nếu bắt được cá bống mú con thì bao nhiêu ông cũng mua. Do cá con không đồng đều nên ông chia ra nhiều ao để tiện việc chăm sóc, theo dõi tình hình sinh trưởng của chúng. Từ khi ông thực hiện mô hình táo bạo này người dân hàng xóm cười ông nói: “Cá bống mú xưa nay sinh sống ngoài biển, đưa vào ao đất như vậy cho phí tiền”.
Ông Trí cho biết: Mặc cho những lời nói ra vào, ông cứ thực hiện theo ý tưởng của ông. Tính từ ngày đầu thả nuôi đến khi thu hoạch là 10 tháng. Mặc dù loại cá này thuộc dạng dễ nuôi nhưng quá trình chăm sóc cũng rất công phu. Ngoài thức ăn cho bống mú là cá phân (cá nhỏ), cứ 15 ngày phải thay nước ao nuôi 1 lần theo quy cách: Bơm ra ngoài khoảng phân nửa nước hiện có trong ao, rồi bơm nước mới từ bên ngoài vào với thể tích tương đương như vậy.
Mô hình nuôi cá bống mú trong ao đất của ông Trí
Sau 10 tháng thả nuôi, cá đạt trọng tượng từ 1 – 1,5 kg/con. Ông Trí đã thu hoạch mấy ao cá bống mú trước sự ngỡ ngàng của bà con. Với tổng số 5 công thả nuôi, thu được 3 tấn, sau khi trừ chi phí, lãi gần 400 triệu đồng. Từ thành công ban đầu ông Trí trả hết nợ nần cho hàng xóm, số tiền còn lại ông bắt đầu cải tạo ao và mở rộng diện tích nuôi ra 2 ha nằm trong rừng phòng hộ cặp cửa biển Ba Hòn, cũng là địa điểm thích hợp cho việc lấy nước ra vào nuôi cá bống mú.
Số tiền còn lại ông mua con giống thả hết diện tích. Do rút tỉa được kinh nghiệm nuôi của vụ đầu nên ông Trí rất yên tâm nuôi vụ thứ hai trong ao đất và thu được 7 tấn cá, bán với giá 250.000 đồng/kg lãi gần 2 tỷ đồng. Và nhiều vụ thả nuôi tiếp theo ông đều thành công giúp gia đình trở nên khá giả nhất trong ấp.
Kỹ thuật nuôi cá bống mú
Cá bống mú là loài thủy sản nuôi trồng có giá trị kinh tế cao, loại cá này thuộc dạng dễ nuôi, tỷ lệ sống trên 90%, nhưng quá trình chăm sóc cũng rất công phu. Ngoài thức ăn cho cá bống mú là cá phân như cá cơm, cá trích, cá liệt…, lúc cá con mới đem về cho ăn bằng thức ăn xay nhuyễn cộng với tấm cám nấu. Khi cá lớn bằng cùm tay bắt đầu cho cá ăn loại cá phân sống, ban đầu cho ăn 1 ngày hai cữ và khi cá lớn giảm xuống cho ăn 1 cữ/ngày.
Theo ông Trí khâu quan trọng nhất là quản lý nước trong ao, cứ 15 ngày là phải thay nước ao nuôi theo quy cách bơm ra ngoài khoảng phân nửa nước hiện có trong ao, rồi bơm nước mới từ bên ngoài vào ao với thể tích tương đương như vậy mới thích nghi được cho cá.
Ao nuôi cải tạo sên vét bùn đáy, nếu có điều kiện trải bạt càng tốt để hạn chế cá đào hang quanh bờ. Về giống có thể thả cá giống được thu gom tự nhiên cỡ 5 – 7 cm hoặc 10 – 15 cm, hoặc chọn cá sinh sản nhân tạo. Con giống đòi hỏi không xây xát, dị hình; màu sắc tươi sáng, hoạt động nhanh nhẹn. Về mật độ thả, đây là loài cá dữ có thể ăn thịt lẫn nhau khi thiếu mồi, nên thả ở mật độ thưa từ 1 – 3 con/m2.
Thường xuyên kiểm tra các yếu tố môi trường nước, giữ các chỉ số ổn định trong giới hạn thích hợp bảo đảm cho cá phát triển bình thường. Độ mặn từ 10 – 23 ‰ ; pH từ 7.5 – 8.5 là thích hợp thả nuôi cá bống mú.
Ông Trí cho biết thêm, để cá sống trong ao phải bố trí chà và các ống nhựa có đường kính 10 – 20 cm cho cá trú ẩn, hạn chế cá tấn công nhau gây xây xát nhiễm bệnh. Định kỳ thu mẫu bằng cách vớt những ống nhựa lên để kiểm tra sức khoẻ cũng như tốc độ tăng trưởng của cá. Trung bình đầu tư nuôi cá mú trong ao đất đến thu hoạch khoảng 50.000 – 60.000 đồng/con/kg, còn đầu tư nuôi cá bằng lồng bè ở ngoài biển giá thành có thể tăng gấp 2 – 3 lần và quy mô bị giới hạn so với nuôi trong ao đất mà thường xuyên bị rủi ro cao.
Từ sự thành công của bản thân ông Trí nuôi loài cá này, ông còn thành lập HTX nuôi cá bống mú trong ao đất được 15 ha với 20 xã viên được ông hướng dẫn kỹ thuật nuôi rất nhiệt tình. Các xã viên trước đây là người dân nghèo có hoàn cảnh khó khăn nay nhờ vào HTX nuôi cá mú đã có của ăn của để. Bên cạnh đó HTX có nguồn cá bán quanh năm cho thương lái, nên giá luôn ổn định ở mức cao. Hiện tại trong xã Bình An có nhiều người học nuôi theo và số lượng lên khoảng 100 hộ nuôi với diện tích trên 50 ha.
Ông Vương Minh Mẫn, Trưởng phòng Kinh tế huyện Kiên Lương, cho biết: Do tập tính của cá bống mú sống trong môi trường có nguồn nước lưu thông thường xuyên nên đa số người nuôi thường thả cá vào lồng, bè treo dưới biển. Với hình thức nuôi lồng, đối tượng này tỏ ra khá thích hợp và đã mang lại hiệu quả kinh tế cao cho người nuôi.
Song, hình thức nuôi này khá tốn kém và cá thường xuyên chịu ảnh hưởng của môi trường nước bên ngoài có nhiều biến động do ảnh hưởng xả lũ, áp thấp nhiệt đới, bão, các chất thải tàu khai thác vào neo đậu làm tăng rủi ro cao.
Lê Hoàng Vũ, Nông nghiệp VN, 01/05/2013
Kĩ thuật nuôi cá mú
Cá mú thuộc loại cá nước mặn, sống ở biển nhiệt đới, á nhiệt đới. Tập trung nhiều loài ở vùng biển Thái Bình Dương. Nước ta có tới 30 loài cá mú, trong đó có 7 loài được ưa chuộng vì có giá trị cao, đạt tiêu chuẩn xuất khẩu là: cá mú vạch (E. brunneus), cá mú chấm tổ ong (E. merra), cá mú đỏ (Epinephelus akaara), cá mú hoa nâu (E. fuscoguttatus), cá mú cáo (E. megachir), cá mú đen (E. heeberi), cá mú mỡ (E. tauvina).
Cá mú (cá song) thuộc nhóm cá dữ, ăn mồi động vật, thường săn mồi ở nơi yên tĩnh, khi thiếu mồi, có thể con lớn ăn con bé. Cá mú đẻ trứng, cá con mới nở ra ăn động vật phù du, cá lớn cỡ từ 8-12cm, ăn động vật sống như cá con, tôm, tép…, cá mú rất ít khi ăn mồi đã chết và mồi chìm ở đáy.
Nguồn cá mú giống hiện được bắt trong tự nhiên vào mùa cá đẻ ở phía Bắc, vào tháng 5-7, các tỉnh miền Trung từ tháng 12 đến tháng 3 năm sau. Khi bắt cá giống về, người ta ương cá nhân tạo đến cỡ cá chừng 8-12cm mới xuất bán. Giá cá giống từ 5.000 – 8.000 đ/kg, nuôi 6-8 tháng đạt 0.5-0,8 kg/con, giá cá mú thịt từ 70.000 – 80.000 đ/kg, nguồn cá mú hiện được xuất khẩu rất tốt. Tuy cá mú thịt rất ngon, hiền, nhưng do chưa hạ được giá thành nên thị trường trong nước chỉ chủ yếu ăn cá đánh bắt tự nhiên, chứ chưa sử dụng đại trà loại cá mú nuôi. Mong rằng, trong tương lai gần, nghề nuôi cá mú (cá song), sẽ phát triển mạnh, hạ được giá thành, để trở thành mặt hàng phổ biến trong và ngoài nước.
Kỹ thuật nuôi cá mú thịt bằng lồng tre
Chọn vị trí đặt lồng nuôi: Chọn các vùng eo, vịnh, đầm, phá, ít gió bão, sóng êm nhẹ. Nhiệt độ nước từ 20oC trở lên, độ mặn bảo đảm dao động từ 10-33%o (phần ngàn). Nguồn nước trong sạch, tránh vùng bị ô nhiễm nước thải công nghiệp, nhiễm dầu… Mực nước duy trì tối thiểu phải đạt từ 1-2m (khi triều xuống thấp). Ngoài ra, còn phải chú ý chọn điểm nuôi dễ quan sát, theo dõi, bảo vệ và thuận tiện cho quá trình chăm sóc. Độ sâu tối đa từ 2,5-3m, lưu tốc từ 0,2-0,4 m/giây.
Thiết kế lồng nuôi: Có thể nuôi cá mú bằng lồng lưới, lồng tre, nhưng để dễ thực hiện và tiết kiệm đầu tư cũng như tận dụng nguồn tre có sẵn địa phương, nên dùng lồng tre để nuôi cá này.
Dùng nan tre dày 1-1,5cm, rộng 3-4cm, dài 1,5-2m (tùy theo độ sâu nơi đặt lồng mà xác định chiều dài thích hợp nhất). Lồng nuôi được thiết kế theo hình tròn có đường kính 2,5-3m, cao 1,5-2m. Xung quanh, ta bện cước từ 2-4 đường, đường giữa, dùng tre tốt uốn dẻo ràng quanh, có thiết kế tay cầm để di chuyển. Chú ý dùng cước loại có đường kính 0,18-0,2cm. Nắp lồng cũng có thể làm bằng tre hoặc lưới cước, thiết kế 1 cửa có kích cỡ 60-60 cm hoặc 70-70 cm để có thể ra vào kiểm tra bên trong lồng. Đáy lồng cũng làm bằng sạp tre đan khít.
Lồng được treo trên 4 cọc được đóng xuống nền đáy theo hình vuông hoặc hình chữ nhật, lồng cách đáy 0,4 – 0,5m và cao hơn mặt nước 0,3 – 0,5m.
Chọn cá giống nuôi thịt: Chọn cá nuôi có kích cỡ từ 8-12cm, lanh lẹ, khỏe mạnh, không bị sây sát, dị tật, màu sắc đặc trưng của giống cá muốn nuôi.
Mật độ nuôi: Thường từng địa phương nuôi có điều kiện nguồn nước, nhiệt độ khác nhau, ngoài ra, có nơi nuôi cá mú ghép với một số loại cá khác thì mật độ cũng khác. Ơở vùng nước tốt, đủ thức ăn, nguồn nước có nhiệt độ thấp, mật độ thả dày hơn từ 40-50 con/m3, còn thường các nơi nuôi, trung bình mật độ thả từ 15-35 con/m3. Có thể thả nuôi thêm các loại cá khác chung lồng như cá dìa, cá hồng…
Cần chú ý là thả giống vào sáng sớm hoặc chiều mát. Cần xử lý các giống bằng dung dịch thuốc xanh Malachite (thuốc này đã bị cấm sử dụng theo QĐ 20/2003/QĐ-BTS) với liều lượng 5-10 gr/m3 nước, tắm trong 20-25 phút trước khi thả cá vào lồng nuôi.
Chăm sóc, quản lý:
Thức ăn của cá mú là các loại thủy, hải sản sống. Ta có thể dùng các loại thức ăn sau đây: nhuyễn thể tươi, cua, ghẹ, cá vụn các loại, thịt các loại này còn tươi, đem băm nhỏ vừa đủ miệng cá táp.
Tập cho cá ăn: Những ngày đầu ta để cá đói, sau đó, thả thức ăn từ từ vào, giả như thức ăn là sinh vật sống hoạt động và cá sẽ táp mồi, và cứ làm như thế sau một thời gian ngắn, khi thấy cá quen vị mồi rồi, có thể làm thao tác nhanh hơn, tuy nhiên, cần tránh thức ăn bỏ vào nhiều và nhanh quá, cá ăn không kịp sẽ rơi xuống đáy lồng là cá mú sẽ không ăn.
Một ngày cho ăn 2 lần vào sáng sớm và chiều tối, khi cho cá ăn nên rải đều thức ăn ra, tránh tụ tập một chỗ.
Lượng thức ăn thường chiếm từ 5-10% trọng lượng cá nuôi trong lồng.
Thường thời tiết thay đổi đột ngột, nhiệt độ nước và dòng chảy thay đổi nhiều, cá ít ăn lại, thành thử, những ngày mưa bão, chỉ cho cá ăn 1 lần và giảm trọng lượng thức ăn lại từ 1/4 – 1/2 lượng thức ăn ngày thường.
Thường xuyên kiểm tra lồng nuôi, khoảng 3-5 ngày cọ rửa, vệ sinh các nan tre, hoặc lưới một lần, tháo gỡ các vật cản, rác rưởi bám vào lồng, làm cho lồng thông thoáng, cá ít bị bệnh vặt, mặc dù cá mú rất ít khi bệnh.
Theo dõi thức ăn hàng ngày dư thừa ra sao, để điều chỉnh liều lượng lại cho thích hợp, dọn dẹp thức ăn rơi xuống đáy và vệ sinh đáy lồng.
Hàng tháng phải kiểm tra, theo dõi để kịp thời lựa cá lớn trội tách ra nuôi riêng, để tránh trường hợp cá lớn ăn cá bé hoặc cá lớn cắn cá nhỏ hơn, làm sây sát và có thể chết. Ngoài ra, nếu có điều kiện ta dùng mái chèo khuấy nước trong lồng vào những ngày khí áp thấp để cá có đầy đủ không khí mà không bị ngộp, sinh ra kém ăn hoặc chết.
Thu hoạch: Nuôi trong lồng thì thu hoạch rất dễ dàng. Nuôi 6-8 tháng, cá đạt trung bình từ 0,5 – 0,8 kg/con là có thể thu hoạch. Tuy nhiên, cần lưu ý là canh thời gian nuôi sao cho trước mùa lạnh là thu hoạch xong, vì khi nhiệt độ Ê 18oC cá ngừng ăn, không lớn, đối với các vùng nuôi ở phía Bắc và miền Trung bộ, còn các nơi khác, ít lạnh, thì không quan trọng.
Hiện nay, nghề nuôi cá mú đang là nghề đạt hiệu quả cao và có xu hướng được ngư dân quan tâm nhiều. Hộ anh Lê Văn Thành ở Long Phước, thị xã Sông Cầu – Phú Yên, vừa qua nuôi 600 con, đầu tư tất cả 13.400.000đ bán 420kg x 75.000 đ/kg = 31.500.000đ, lãi 18.100.000đ.
KS. Huỳnh Văn Dũng (Web Binhthuan)
Nuôi cá mú trong lồng
Nghề nuôi cá mú lồng xuất khẩu hiện đang thu hút nhiều người dân ở huyện Sông Cầu (Phú Yên) tham gia. Dưới đây là những đúc kết kinh nghiệm trong quá trình nuôi cá mú bằng lồng của một số hộ dân ở đây.
Chọn vị trí đặt lồng
Chọn nơi vùng biển ven bờ, thường thông thoáng, kín gió, ít bị nhiễm bẩn bởi dầu mỡ và các nguồn nước thải khác. Độ sâu nơi đặt lồng khi triều kiệt tối thiểu là 2m, nhiệt độ nước từ 27- 320C, độ mặn thường từ 25-32%o.
Làm lồng
Vật liệu: Lồng được làm bằng gỗ liên kết thành khung và dùng lưới bao bên trong như sau: Gỗ cây tròn khoảng 48 cây, mỗi cây dài từ 4-4,5m. Lưới nilon khoảng 5kg, kích thước mắt lưới 2a = 2,5cm. Các loại dây giềng lưới, dây cước sươn và dây thép cột lưới.
Tiến hành ráp lồng: Mang cây ra địa điểm chọn nuôi, cắm các cọc có vót nhọn một đầu xuống đất để định kích thước lồng, cây cách cây từ 1-2m. Sau khi đóng cọc xong, tiến hành các cột cây ngang làm thành khung lồng (dạng hình vuông hoặc hình chữ nhật) vững chắc.
Tiếp theo, tiến hành giáp lưới theo kiểu sươn ghép, thành hình hộp chữ nhật, đáy gồm 2 lớp lưới (giống như một cái mùng).
Đem lưới ráp và định vị phía trong khung gỗ bởi các dây chằng ngang dọc, tạo thành một khung lưới. Phía trên có ghép một lớp lưới bảo vệ, kích thước mắt lưới lớn hơn, có một cửa ra vào để kiểm tra.
Thả giống
Giống thả đồng cỡ, đồng loại, cá khỏe, không bị sây sát, kích thước từ 9-12cm trở lên. Mật độ thả từ 20-30 con/m2. Thời vụ thả: từ tháng 2- 4 hàng năm. Giống phải được vận chuyển nhẹ nhàng, đến nơi rửa qua bằng nước ngọt để hạn chế mầm bệnh, sau đó mới thả bằng lồng nuôi.
Chăm sóc và bảo quản
Hàng ngày cho ăn 2 lần, buổi sáng từ 7- 9 giờ, buổi chiều từ 4- 6 giờ. Khi cho ăn thường xuyên lặn xuống kiểm tra để xác định lượng thức ăn còn thừa, qua đó điều chỉnh lượng thức ăn cho những lần sau. Thức ăn là cua, ghẹ, hàu, cá vụn… băm khúc vừa miệng cá. Trước khi cho ăn rửa qua bằng nước ngọt cho sạch. Cá đói, thường lao lên đớp mồi trên mặt nước, khi thời tiết thay đổi cá thường ít ăn. Những lúc mưa bão nên cho cá ăn vừa phải, thường một lần trong ngày vào lúc sáng. Thường xuyên lặn xuống kiểm tra lồng để phát hiện kịp thời các sự cố và tình trạng sức khỏe của cá cũng như độ bền của khung lồng để kịp thời xử lý.
Thu hoạch
Trước khi bắt cá, phải cắt bỏ các dây giềng định vị lưới, kéo nhẹ nhàng vào gần bờ, dùng vợt vớt cá ra. Nếu cá nhiều, nặng, ta nên lặn bắt một ít trước cắt dây định vị lồng. Sau 8 tháng nuôi, trừ chi phí, lãi ước tính đạt 18 triệu đồng/lồng.
NTNN – 3.11.2003
Kỹ thuật nuôi cá mú lồng trên biển
- Bảo quản, chăm sóc cá mú giống khai thác từ tự nhiên.
Cá mú con mới bắt ngoài biển được lưu giữ tạm thời trong bể hoặc trong thùng cao 30cm có sục khí. Dùng các hộc lưới có kích cỡ mắt lưới khác nhau để phân loại cá thành các cỡ như sau:
- Hậu ấu trùng có kích cỡ nhỏ hơn 2,5cm;
- Cá bột nhỏ: 2,5 – 5cm;
- Cá bột lớn: 5 – 7,5cm;
- Cá giống nhỏ 7,5 – 10cm;
- Cá giống trung bình: 10 – 12,5cm.
Cá sau khi phân loại được tắm bằng nước ngọt từ 15 – 30 phút để diệt các vi sinh vật có hại, sau đó được vận chuyển về lồng ương nuôi nếu ở cự ly gần. Những con cá bị thương cần được tách riêng thả trong bể hoặc lồng để chúng hồi phục lại mới chuyển đi.
Cách vận chuyển và đóng gói cá: Trước khi vận chuyển, cá cần dưỡng trong bể có chỗ trú ẩn và sục khí liên tục, không cho cá ăn 24 giờ trước khi vận chuyển. Bên cạnh đó, cần phòng bệnh cá bằng cách tắm cá trong nuớc ngọt sạch từ 10 – 15 phút hoặc tắm cá trong nước pha thuốc tím có nồng độ từ 10 – 15ppm. Dùng 2 bao nhựa Plastic vuông có đáy bằng để đóng cá. Đổ vào bao khoảng 8 lít nước biển sạch được làm lạnh ở nhiệt độ từ 20 – 22oC. Đóng cá với mật độ như sau: Cá khoảng 2,5cm, mật độ 100 – 150 con/lít nước; cá 5cm, mật độ 30 – 50 con/lít nước; cá 7cm, mật độ 10 – 15 con/lít nước. Cần bơm Oxy trước khi buộc chặt miệng túi. Sau đó cho túi cá giống vào thùng xốp và để các bao nuớc đá xung quanh làm mát cá. Dùng băng keo dán kín thùng và xếp thùng lên xe. Nên vận chuyển cá bằng xe có máy điều hòa nhiệt độ. Cá vận chuyển đến chỗ nuôi tốt nhất vào thời điểm lúc sáng sớm hoặc chiều tối. Đến nơi, đem thùng cá vào trong phòng có ánh sáng mờ, nhẹ nhàng mở thùng, tránh cá giật mình. Cân bằng nhiệt độ, độ mặn trong 10 – 15 phút trước khi thả cá. Nếu gặp chất lượng nước kém hoặc dòng chảy mạnh thì không thả cá vào lồng, cần lưu cá trong bể, khi gặp chất lượng nước tốt mới thả.
- Lồng nuôi cá mú:
Lồng nuôi cá mú nên đặt ở chỗ nước trong, sạch, kín, ít sóng gió, ít chịu ảnh hưởng do dao động của thủy triều, không bị ô nhiễm. Nơi đặt lồng nuôi có độ sâu tối thiểu 3m. Vùng nuôi nên gần cơ sở hậu cần trên đất liền. Có hai loại lồng nuôi:
- Lồng nuôi cố định trên khung cố định trên nền đáy (lồng găm): Lồng có thể có lớp lưới đáy lơ lửng. Dùng chì neo các góc khung lưới. Kích thước lồng 3x3x2m hoặc 5x5x2m.
- Lồng bè nổi: Khung lồng bè làm bằng những vật liệu chịu được độ mặn cao, chống hàu đục phá như tre, gỗ, xi măng, ống nhựa PVC. Phao nổi được gắn chặt vào khung lồng để giữ cho lồng nổi. Thùng phuy nhựa, thùng xốp, can nhựa thường được làm phao lồng. Dùng dây neo giữ lồng ở một vị trí nhất định. Lưới có mắt lưới tùy thuộc vào kích cỡ cá. Nên sử dụng loại lưới Polyethylen có ưu điểm bền chắc, đàn hồi và chống được các loài sinh vật bám lưới. Lưới không có gút và trơn để không làm cá bị thương do thường xuyên phải cọ sát lồng. Lồng có 4 – 8 ngăn.
- Nuôi cá mú thương phẩm:
Trước khi thả cá giống vào lồng cần kiểm tra lại tình hình sức khỏe của cá, tắm lại cá trong nuớc có pha kháng sinh từ 10 – 15 phút. Mật độ thả bình quân 25 con/m3 nước. Có thể tùy theo kích cỡ cá mà điều chỉnh mật độ thả cho phù hợp. Không nên thả cá ở mật độ cao vì sẽ dễ phát sinh dịch bệnh. Lượng chất thải nhiều sẽ làm giảm lượng Oxy và làm cá bị sốc.
Thức ăn chủ yếu cho cá mú là cá tươi tạp (tôm, cá, cua, ghẹ nhỏ…). Khẩu phần cho ăn hằng ngày bằng 3 – 10% trọng lượng cá. Cho cá ăn ngày 2 lần, vào lúc sáng sớm và chiều tối. Cho cá ăn nguyên con hay băm nhỏ còn tùy thuộc vào cỡ mồi và cỡ cá nuôi. Nên cho thức ăn từ từ vào trong lồng để cho cá lao lên đớp mồi. Cho thức ăn vào cho đến khi cá thôi lao lên thì dừng lại. Trước khi cho cá ăn cần bổ sung thêm 0,5% vitamin và khoáng premix vào cá mồi. Tuyệt đối không được dùng cá hư thối hoặc cá muối mặn.
Thường xuyên lặn kiểm tra lưới. Dùng bàn chải có cán dài chà rửa và vêï sinh lồng. Có thể thả 15 – 30 con cá dìa để cá ăn các loài rong tảo bám vào lưới. Định kỳ nên thay lưới lồng mới để diệt tảo, sò, hàu, rong… bám vào. Thường xuyên kiểm tra sức khỏe của cá, kiểm tra mức độ tiêu thụ thức ăn. Hàng tháng dùng vợt mềm phân kích cỡ cá nhằm cho cá lớn đều, tránh được tình trạng chúng ăn thịt lẫn nhau. Thời gian nuôi cá từ 4 – 7 tháng, tùy theo nhu cầu của thị trường. Thông thường, cá đạt kích cỡ 0,4kg/con trở lên thì có thể thu hoạch. Lồng nuôi cá cần chuyển sang địa điểm mới sau 2 – 3 năm nuôi, để môi trường nuôi có điều kiện phục hồi.
- Thu hoạch và bảo quản sản phẩm:
Không cho cá ăn 1 – 2 ngày trước khi thu hoạch. Kiểm tra lưới lồng. Nâng lưới chầm chậm để dồn cá về một góc. Dùng vợt có lưới mềm để bắt cá. Tránh làm trầy vảy hoặc tổn thương cá khi thu hoạch, vì cá bị thương sẽ không bán được. Cá bắt lên cần tiến hành cân trọng lượng, nhốt trong bể có chứa nước sạch để cá nhả bớt chất bẩn. Sau đó cho cá vào bể sục khí, dùng túi nước đá hạ nhiệt độ xuống còn 20oC, sau đó đóng cá vào túi có chứa nước biển đã bơm Oxy. Buộc miệng túi và để túi vào thùng xốp, xung quanh bỏ các túi nước đá. Dán kín thùng vận chuyển bằng ô tô hoặc máy bay. Thời gian vận chuyển không quá 8 giờ. Có thể dùng thùng nhựa có sục khí để vận chuyển cá hoặc dùng thuyền thông thủy có hệ thống nước tuần hoàn để vận chuyển cá sống đi nước ngoài.
TRUNG HÙNG, Báo Khánh Hoà, 29/8/2003 – Theo Trung tâm Khuyến ngư Khánh Hòa
Phòng trị bệnh cho cá mú, cá giò, cá hồng mỹ
Bệnh do virus
Đây là bệnh nguy hiểm nhất thường xảy ra đối với cá sông(cá mú) giai đoạn ấu trùng và chuyển biến thái.
Triệu chứng: cá bơi mất phương hướng, nổi lập lờ trên mặt và thường chết hàng loạt. Các cơ quan bị nhiễm thường gồm não bộ và mắt. Đối với bệnh do virus cá thường có tỷ lệ chết cao và nhanh.
Phòng trị: chưa có biện pháp chữa bệnh, chủ yếu là phòng bệnh.
Một số biện pháp phòng bệnh cần áp dụng là: kiểm tra virus cho đàn cá bố mẹ và cá giống để có giống sạch bệnh, hạn chế lây truyền theo chiều dọc. Đảm bảo môi trường nuôi trong sạch, tiệt trùng các bể và các dụng cụ khác trước khi sử dụng để hạn chế lây truyền theo chiều ngang. Cung cấp đầy đủ chất dinh dưỡng cho cá, tránh làm sốc cá khi vận chuyển và thả cá giống, nuôi với mật độ vừa phải, tránh thả cá quá dày tăng khả năng kháng bệnh cho cá.
Bệnh do vi khuẩn
Dấu hiệu thường gặp là: lở loét, vây bị rữa, xuất huyết dưới da, có khối u, màu sắc đậm, mắt đục, mắt lồi có xuất huyết hoặc không. Bệnh này thường xảy ra với cá Mú và có Hồng Mỹ, cá thường chết ở đáy.
Nguyên nhân: Do vi khuẩn tồn tại trong nước biển gây nên, khi nào điều kiện môi trường xấu làm suy giảm sức đề kháng, vi khuẩn sẽ xâm nhập vào cá và gây thành bệnh.
Phòng bệnh: Duy trì mật độ cá thích hợp trong hệ thống ương nuôi, thức ăn nuôi hoặc nhân tạo phải được bảo quản tốt. Định kỳ tắm nước ngọt khi có nguy cơ nhiễm bệnh cao.
Trị bệnh: Dùng kháng sinh Oxytetracyclin tắm với liều lượng 50-100gr/m3 nước trong 1 giờ. Dùng liên tục trong 7-10 ngày.
Bệnh do ký sinh trùng
Thường gặp ở cá giống của cả 3 loài. Các cơ quan bị nhiễm thường là mang và các bề mặt thân.
Biểu hiện: Mang có màu nhạt, cá yếu trong thời kỳ nhiễm bệnh. Ký sinh trùng sẽ phá huỷ các mô của ký chủ, tạo dịch nhầy bám trên mang gây khó khăn cho hô hấp của cá. Khi bị nặng cá có thể chết hàng loạt.
Nguyên nhân: Do loại vi trùng bánh xe Trichodia sp sống ký sinh trong mang và da cá.
Điều trị: Tắm cá với dung dịch Formalin 70-150ppm trong 30-60 phút, sục khí mạnh hoặc tắm cá với dung dịch formalin 25ppm trong 1-2 ngày kèm sục khí mạnh.
NTNN, 8/2006
Kỹ thuật sản xuất giống và nuôi cá mú
Cá mú là một trong những loài cá biển có giá trị kinh tế cao (4-68 USD/Kg). Chúng được nuôi ở nhiều nơi như: Trung Quốc (Đài Loan, Hồng Kông), Nhật Bản, Malaysia, Singapore, Thái Lan, Philippines, Brunei…
Nghề nuôi cq mú ở châu Á đã xuất hiện khá lâu, nhưng nguồn giống hoàn toàn dựa vào tự nhiên. Nghiên cứu sản xuất giống nhân tạo cá mú đã bắt đầu ở Nhật Bản vào thập niên 60, các nước Đông Nam á vào cuối thập niên 70. Đến nay, hơn 10 loài cá mú đã được nuôi và sản xuất giống nhân tạo như cá mú đen chấm đen (Epinephelus malabaricus), cá mú đen chấm nâu (E. coioides), cá mú ruồi (E. tauvina), cá mú đỏ (E. akaara), cá màu đỏ (E. awoara), cá mú cọp (E. fuscoguttatus), cá mú nghệ (E. lancelatus), E. aeneus, E. microdon, E. polyphekadion, E. tukula, cá mú chuột (Cromileptes altivelis)…
Đặc điểm sinh học
Trên thế giới, cá mú nằm trong họ phụ Epinephelinae có 159 loài thuộc 15 giống, phân bố ở vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới nơi có rạn san hô, đá ngầm, ở vùng biển nước ấm. Mùa hè sống ở vên bờ, mùa đông di cư ra vùng xa bờ. Chúng có tập tíh dinh dưỡng ăn thịt, thức ăn gồm cá con, mực, giáp xác, thường ăn thịt lẫn nhau ở giai đoạn cá con. Ở Việt Nam, chúng phân bố từ vịnh Bắc Bộ đến vịnh Thái Lan, tập trung nhiều ở ven biển miền Trung.
Tuổi thành thục lần đầu của cá mú lúc 3 tuổi. Trọng lượng thành thục lần đầu thay đổi tùy theo, kích thước nhỏ nhất là cá mú chuột (1kg), lớn nhất là cá mú nghệ (50-60kg). Mùa vụ sinh sản thay đổi theo từng loài và vùng địa lý, ở Đài Loan mùa sinh sản từ tháng 3 đến tháng 10, ở Trung Quốc từ tháng 4 đến tháng 10, ở Philippine và các tỉnh Nam Bộ cá có thể đẻ quanh năm.
Cá mú là loài cá tập tính chuyển giới tính, thông thường lúc còn nhỏ là cá cái khi lớn chuyển thành cá đực. Thời điểm chuyển giới tính thay đổi theo từng loài, loài cá mú đỏ (E. akaara) chuyển giới tính lúc có chiều dài 27-30cm, với trọng lượng 0,7-1kg, loài cá mú ruồi (E. tauvina) lúc có chiều dài 65-75cm, loài cá mú chuột lúc có trọng lượng trên 3kg.
Hệ số thành thục và sức sinh sản khác nhau ở các loài: ở cá mú đen chấm đen có hệ số thành thục cao nhất vào tháng 1 (5,2± 2,7%) và thấp nhất vào tháng 3. Sức sinh sản cao nhất vào tháng 12 là 3,18 ± 0,61 x 106 và thấp nhất vào tháng 8 là 0,13 x 106 trứng. Sức sinh sản của cá mú đỏ (E. akaara): 150.000 – 500.000 trứng, cá mú đen chấm nâu: 600.000 -1.900.000 trứng/kg.
Tốc độ tăng trưởng khác nhau giữa các loài: tốc độ tăng trưởng của một vài loài cá mú nuôi ở nước ta sau 1 năm: cá mú son (cephalopholis miniata) là 0,3-0,4kg, cá mú đen chấm đen: 0,8kg, cá mú đen chấm nâu 0,8kg, cá mú ruồi: 1-1,2kg, cá mú nghệ: 3-4kg.
Sinh sản nhân tạo
Thu thập và thuần dưỡng cá bố mẹ:
Cá bố mẹ được đánh bắt ngoài tự nhiên hoặc thu gôm từ ao, lồng nuôi thịt. Cá bố mẹ từ ao hay lồng nuôi dễ thích nghi với điều kiện nuôi nhốt. Không sử dụng cá đánh bắt bằng chất cyanide, nên dùng những cá bắt bằng bẫy tre để làm cá bố mẹ.
Cá bắt được nên vận chuyển ngay đến trại giống hay lồng nuôi. Không cần gây mê cá nếu vận chuyển trong các bồn chứa hay trong các dụng cụ có máy sục khí. Khi đến trại giống cá được xử lý bằng formol 25ppm và kháng sinh Oxytetracyline với nồng độ 2mg/l tắm cá trong 24 giờ, hoặc tiên 20mg/kg cá phòngchống nhiễm do vi khuẩn. Bể nuôi vỗ hình tròn có thể tích 100-150 m3. Sử dụng nguồn nước biển sạch có độ mặn 30-33 ‰ , nhiệt độ nước 28 – 30 độ C. Trước khi cấp vào bể nuôi, nên được lọc qua cát.
Mật độ nuôi vỗ 1kg cá / m3. Tỉ lệ đực cái từ 1/1 đến 1/2. Chế độ thay nước từ 50-100% mỗi ngày.
Nuôi vỗ:
Nuôi vỗ cá bố mẹ là khâu quan trọng, kỹ thuật nuôi hợp lý ảnh hưởng lớn đến tỷ lệ thành thục, tỷ lệ cá đẻ, tỷ lệ thụ tinh, tỷ lệ nở, và tỷ lệ sống của cá con. Sự thành thục có quan hệ chặt chẽ với chế độ dinh dưỡng, không chỉ phụ thuộc vào khối lượng thức ăn mà còn phụ thuộc vào chất lượng thức ăn.
Thức ăn nuôi vỗ là cá nục, cá bạc má, cá thu… khẩu phẩn 1-2% thể trọng/ngày. Thức ăn có hàm lượng prôtêin trên 40%, lipid 6-10%, bổ sung thêm vitamin E, C và dầu cá. Việc bổ sung nguồn chất béo giàu các acid béo không no (Hufa) có ảnh hưởng đến sự thành thục cá bố mẹ.
Kính thích thành thục
Tuổi thành thục của cá mú là 3-5 năm, cá rất dễ thành thục trong điều kiện nuôi nhốt. Ngoài ra có thể áp dụng kỹ thuật cấy hỗn hợp Cholestrerol, LHRH và 17 – a Methyltestosterone kích thích cá thành thục sớm và đồng loạt.
Thông thường cá mú lúc còn nhỏ là cái, khi lớn chuyển thành đực. Trong thực tế sản xuất thường rất khan hiếm cá đực, phương pháp tiêm hoặc cấy 17 – a Methyltestosterone được áp dụng để tăng số lượng cá đực.
Chọn cá cho đẻ:
Tiêuchuẩn chọn cá thành thục sinh dục như sau: một cá cái thành thục khi đường kính trứng đạt 0,4-0,5mm, đối với cá đực khi vuốt nhẹ vùng gần lỗ sinh dục xuất hiện sẹ (tinh dịch) màu trắng đục. Các đặc điểm trên chứng tỏ cá đã sẵn sàng tham gia sinh sản.
Sinh sản:
Chu kỳ trăng ảnh hưởng đến sự đẻ trứng của cá, cá thường đẻ vào thời điểm vài ngày trước hoặc sau kỳ trăng non hoặc trăng tròn. Cá có thể đẻ tự nhiên không cần tiêm thuốc kích thích. Vaà ngày trước hoặc sau trăng tròn hoặc trăng non, thay nườc, tạo dòng chảy liên tục. Nguồn nước mới, thay đổi nhiệt độ và dòng chảy là những tác nhân kích thích cá đẻ trứng và phóng tinh.
Ấp trứng:
Sau khi cá đẻ, trứng thụ tinh có đường kính 0,8-0,9mm, nổi lơ lửng gần mặt nước. Nước biển được bơm vào bể đẻ liên tục tạo thành dòng chảy tràn vào bể thu trứng bên trong đặt một giai thu trứng mắt lưới 0,2-0,3mm. Trứng thụ tinh được chuyển vào bể ấp ngay trong bể ương. Trứng nở sau 17-18 giờ ở nhiệt độ 28-30 độ C và độ mặn 30-33‰ .
Cá thường đẻ trứng vào ban đêm, trứng được thu gom vào sáng sớm ngày hôm sau. Trứng thu từ bể đẻ về thường có tảo và các chất bẩn, vì thế trước khi đưa vào ấp, trứng phải được lọc qua lưới có đường kính mắt lướt 1mm. Mật độ trứng ấp 4000 – 5000 trứng/ m3 . Sục khí vừa đủ tạo sự tuần hoàn nước trong bể ấp trong thời gian ấp. Ở nhiệt độ 28-30 độ C, trứng sẽ nở trong vòng 16-19 giờ.
Ương cá bột thành cá giống
Chuẩn bị để ương:
Cá bột có thể ương trong bể ximăng, bể composit, giai đặt trong bè hay ao đất. Bể ương có dạng hình chữ nhật hoặc tròn, thể tích từ 4 – 10m3 , sâu 1-1,5m. Nước biển dùng để ương cá bột cần phải lọc sạch, xử lý Chlorin 30ppm. Nước biển có độ mặn 30-34‰ , nhiệt độ nước 28-30 độ C.
Ương cá bột:
Có thể ấp trứng ngay trong bể ương hoặc ấp trứng trong bể khác sau khi nở cá bột được chuyển vào bể ương. Mật độ cá bột ương tùy thuộc hệ thống từ 4-5con/L hoặc ở mật độ cao 20-30con/L. Sau khi nở 60 giở, cá bột bắt đầu ăn thức ăn ngoài, thức ăn thích hợp là luân trùng – SS, mật độ 5-10 cá thể/ml. Tảo Chlorella được đưa vào bể ương duy trì ở mật độ 3×105/ml để giữ chất lượng nước tốt đồng thời cũng làm thức ăn cho luân trùng. Luân trùng trước khi cho cá bột ăn cần phải được làm giàu acid béo không no (Hufa).
Từ ngày tuổi thứ 6, đưa luân trùng L vào bể ương thay thế cho luân trùng SS. Từ ngày tuổi thứ 15-20, bổ sung ấu trùng Artemia 1-3 cá thể/ml. Từ ngày tuổi thứ 30-35, cá bột có thể ăn được Artemia trưởng thành, Moina hoặc các động vật phù du lớn hơn.
Chế độ thay nước: Từ ngày đầu đến ngày tuổi thứ 10 chỉ bổ sung thêm nước mới, không thay nước. Từ ngày tuổi thứ 10-20, thay nước 10-20% ngày và tăng lên 30%. Từ ngày tuổi thứ 30-45, thay nước 40%/ngày và tăng lên 50% cho đến giai đoạn cá giống.
TS. Nguyễn Tuần, Viện Nghiên cứu NTTS II – Đặc san Khoa Học Phổ thông
Ương thành công giống cá mú đen chấm đỏ
TS Nguyễn Tuần, Trưởng phòng Sinh học thực nghiệm (Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản II) vừa chính thức thông báo, nhóm nghiên cứu do ông phụ trách đã thành công trong việc ương giống cá mú đen chấm đỏ
Bắt đầu từ năm 1995, Bộ Thủy sản đã giao đề tài ương giống cá mú đen chấm đỏ cho một số đơn vị nghiên cứu hải sản phía Bắc tiến hành tạo giống vì đây là loài cá có giá trị kinh tế cao, phục vụ chiến lược xuất khẩu. Tuy nhiên, sau 4- 5 năm loay hoay rồi thuê cả chuyên gia Đài Loan sang trợ giúp nhằm khắc phục tình trạng nhập khẩu con giống với giá thành cao tại nhiều vùng nuôi trong nước, nhưng đều không có hy vọng. Sở dĩ, cá mú đen chấm đỏ thu hút được sự quan tâm của Bộ Thủy sản vì đây là loại cá có chất lượng thịt ngon, giá ổn định ở mức cao (ngay tại thị trường trong nước cũng đạt bình quân từ 250.000-300.000 đồng/kg), thị trường nước ngoài còn cao hơn do không phải ở quốc gia nào cũng có vùng nuôi và các điều kiện tự nhiên phù hợp như ở ta, trong khi nhu cầu tiêu thụ luôn mở. Tuy nhiên, cái khó hiện nay tại nhiều vùng nuôi cá nước mặn lớn ở VN vẫn là khâu giống, giá cá mú giống của Trung Quốc, Đài Loan được nhập về VN bán là 17.000 đồng/con. Kể từ khi chúng ta tạo được giống, tức là vào khoảng cuối năm 2001, nhưng số lượng không đáng kể vì tỷ lệ cá mới nở sống và phát triển được vào thời điểm này mới chỉ đạt trên dưới 1% (cả trạm nghiên cứu của Viện II mới có khoảng 10 cá bố mẹ vào cùng thời điểm.) Hiện tại, trạm đã có 20 cá bố mẹ, trọng lượng từ 8-25 kg/con và cho đẻ 1 tháng 2 lần, ước tính năm nay sẽ tạo ra khoảng trên 20 ngàn cá giống cung cấp cho ngư dân, giá giống trong nước đã giảm được rất nhiều so với giống nhập- 8.000 đồng/con, nhưng năng lực hiện mới chỉ đáp ứng được 1 phần tại khu vực phía Nam.
Theo các chuyên gia về cá nước mặn, cá mú đen chấm đỏ là loại cá tương đối dễ nuôi và phát triển tốt tại nhiều vùng nuôi nước mặn ở VN, phù hợp với nhiều mô hình như bè, lồng, ao. Về thức ăn, loài này cũng không kén ăn lắm, chủ yếu là các loài cá biển, lấy nguồn từ cá tạp của ngư dân đánh bắt xa bờ đưa về, thậm chí là cả thức ăn dạng viên nén. Trung bình 1m3 lồng trên biển có thể nuôi được từ 10-20 con, nuôi trên ao 1 ha là 5.000 con. Sau từ 6-8 tháng là có cá thương phẩm, đạt trọng lượng trên dưới 1 kg. Theo TS Nguyễn Tuần, nếu thời gian tới chúng ta đẩy mạnh được tốc độ sản xuất con giống thì trong thời gian 5 năm tới loại cá này sẽ là một mặt hàng xuất khẩu chiến lược của ngành thủy sản VN. Vì ngay như tại Đài Loan, một đối thủ cạnh tranh về phát triển cá mú đen chấm đỏ thì hiện nay họ cũng đã tính đến việc phải ra nước ngoài thuê địa điểm để nuôi phục vụ nhu cầu xuất khẩu… TS Nguyễn Tuần tiết lộ: “Sau khi thành công trong việc tạo giống cá chẽm, cá mú đen chấm đỏ thì mục tiêu tiếp theo của Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản II là 2 đối tượng cùng họ với cá mú đen chấm đỏ là mú chuột và mú đỏ chấm xanh (mú sao). Cả 2 loại cá mú này đều có giá trị cao hơn rất nhiều so với mú đen chấm đỏ: Theo thông tin từ nhiều nguồn, giá cá mú sao và mú chuột hiện đang bán ở Hồng Kông khoảng 100 USD/kg.”
NNVN, 5/5/2004
Nuôi cá mú khép kín ở Đài Loan
Hiện nay Ðài Loan có khả năng sản xuất giống cá mú ở quy mô thương mại lớn, cung cấp giống và trứng cá mú đã thụ tinh để xuất khẩu sang các thị trường khác. Các loài chính được nuôi trong các trại là E. coicoides, E. malabaricus, E. lanceolatus và E. fuscoguttatus. Hiện nay, có 15 loài cá mú đang được nuôi tại Ðài Loan. Các vấn đề như lượng cung cấp và nhu cầu tiêu thụ thường gây ảnh hưởng đến giá cả. Do vậy, các nhà nghiên cứu nuôi trồng thuỷ sản đang tiến hành thử nghiệm các loài khác nhau để tăng thêm tính cạnh tranh trong thị trường. Gần đây, một số loài mới đang được sử dụng để nuôi biển và cho thử nghiệm sinh sản trong môi trường lồng bè (kín) bao gồm E. Tukula, E. bruneus, E. multinotatus, E. flavocaeruleus, E. cyanoopdus, Plectropomus, laevis, Cromileptes altivelis và Cephalopholis sonnerati. Những loài này thường không có đủ để đáp ứng nhu cầu của thị trường cá rạn sống. Nuôi biển thâm canh hoặc trong môi trường lồng bè (kín) có thể cung cấp nguồn cá mú phù hợp và khi thu hoạch không làm ảnh hưởng tới môi trường san hô nhạy cảm.
Trong mấy thập kỷ qua, tại Ðông Nam Á, nhu cầu về cá mú tươi sống đã tăng một cách đáng kể. Hầu hết nhu cầu về cá mú được đáp ứng từ nguồn đánh bắt. Tuy nhiên, có một số vấn đề cấp thiết liên quan đến nguồn lợi cá mú cần được giải quyết nếu như muốn duy trì việc kinh doanh cá mú trong tương lai.
Số lượng cá mú rất dễ bị suy giảm bởi việc khai thác quá mức vì vòng đời của loài này dài và kích cỡ quần thể lại nhỏ. Việc khai thác cá mú quá mức đã xảy ra ở nhiều khu vực và việc sử dụng một số dụng cụ khai thác đã huỷ diệt môi trường sống của loài này. Do vậy, một nhu cầu cấp thiết là phải phát triển các nguồn cá mú khác để giảm áp lực khai thác đối với đàn cá tự nhiên. Giải pháp cho những vấn đề này là thiết lập một chu trình nuôi cá mú khép kín (sử dụng cá hương được nuôi trong trại giống) và mở rộng nuôi biển nói chung.
Ở Ðài Loan, việc nuôi cá mú đã bắt đầu vào năm 1972. Nguồn giống cả cá bột được đánh bắt từ tự nhiên nhưng nguồn này không đủ vì lượng giống trong tự nhiên đã bị giảm đi đáng kể. Do vậy, việc nghiên cứu để sản xuất giống nhân tạo đã được tiến hành và thành công vào giữa những năm giữa thập kỷ 80. Từ đó đến nay, Ðài Loan đã phát triển được một ngành công nghiệp nuôi cá mú biển theo công nghệ tiên tiến.
Với đặc tính tăng trưởng nhanh và lợi nhuận cao, cá mú đã sớm trở thành loài nuôi biển quan trọng nhất ở Ðài Loan. Năm 2001, có hơn 600 trại ương và nuôi tăng trưởng với diện tích sản xuất hơn 700ha. Sự hỗ trợ mạnh mẽ của chính phủ đã cho phép các trại giống và nuôi cá mú phát triển có hiệu quả, các rào cản về xuất nhập khẩu cá bột đã được bãi bỏ nhằm thúc đẩy nền công nghiệp này. Ở Ðài Loan sản lượng nuôi cá mú cỡ thương phẩm đã tăng từ khoảng 1000 tấn vào những năm đầu của thập kỷ 90 và lên đến 7000 tấn vào năm 2001. Ðể sản xuất nguồn giống cho nuôi đại trà, đàn cá bố mẹ được kích thích để sinh sản nhân tạo hoặc được sinh sản tự nhiên với số lượng 20 triệu cá bột hằng năm.
Các hoạt động nuôi biển
Khó khăn chính gặp phải trong việc phát triển nuôi cá mú là sản xuất giống cá phù hợp. Việc nuôi ấu trùng cá mú thường không chắc chắn vì với số lượng nuôi lớn nhưng tỷ lệ sống sót nhìn chung là thấp. Tuy nhiên, những người nông dân nuôi cá mú Ðài Loan đã vượt qua vấn đề này. Những lý do thành công của nền công nghiệp nuôi ấu trùng cá mú Ðài Loan bao gồm:
Sản xuất số lượng lớn trứng đã được thụ tinh :
Có ít nhất có 10 trại nuôi cá mú bố mẹ quy mô lớn ở miền Nam Ðài Loan. Thông thường, họ để cho loài cá này sinh sản tự nhiên trong các ao. Vào mùa sinh sản chính, mỗi ngày có tới 300 cá bố mẹ sản xuất trên 20kg trứng (30 triệu trứng) trong một ao diện tích 0,2 ha. Mỗi năm các trại nuôi cá bố mẹ có thể sản xuất ra 20 tỉ trứng cá mú đã được thụ tinh đáp ứng đủ nhu cầu cho hơn 1000 trại nuôi cá mú.
Hoóc môn được sử dụng để kích thích cá sinh sản sớm hơn vì những con giống này sẽ thu được giá cao hơn những cá giống sản xuất muộn hơn.
Tổ chức các trại giống kết hợp, người điều hành trại nuôI có kinh nghiệm và có các hệ thống nhỏ chuyên môn hoá cao nằm trong một hệ thống nuôi cá mú tiên tiến.
Hệ thống nuôi cá mú liên quan đến một loạt các trại nuôI chuyên nghiệp nằm trong những khu vực sản xuất. Các trại sản xuất trứng thụ tinh, đàn cá bố mẹ được giữ trong các ao ngoài trời và được kích thích để sinh sản nhân tạo hoặc cho sinh sản tự nhiên. Trứng được thụ tinh sẽ được chuyển tới trại nuôi cá bột, ở đó trứng được phát triển đến khi có đuôi dài 3cm. Người ta sử dụng cả hai phương pháp nuôi ấu trùng là nuôi trong nhà và ngoài trời và sử dụng kỹ thuật nước xanh hoặc nước sạch.
Sau đó, cá đươc đưa vào một trại nuôi cá giống và khi cá đạt chiều dài đuôi là 7 – 9cm, chúng được chuyển đến nuôi trong các ao ngoài trời hoặc các lồng lưới nổi. Cá được nuôi đến khi đạt cỡ thương phẩm là 600 – 700g.
Ở đảo Penghu, cá mú được nuôi trong các lồng lưới nổi. Ðịa phương này chiếm khoảng 70% các lồng nuôi ở Ðài Loan bởi vì có điều kiện cư trú và chất lượng nước tốt. Ở miền Nam Ðài Loan, cá mú được nuôi trong các ao ở những vùng quảng canh ven bờ biển.
Cá mú loài E. coioides có tỷ lệ tăng trưởng tốt hơn đối với hình thức nuôi lồng. Phải mất từ 8 – 10 tháng để nuôi cá thành cỡ thương phẩm từ 400 – 800g trong lồng còn nuôI trong ao thì mất từ 10 – 14 tháng.
Hiệu quả cao trong sản xuất thức ăn tươi sống.
Cung cấp thức ăn tươi sống cho ấu trùng cá mú là một trong những điều khó khăn làm hạn chế sự phát triển việc nuôi cá mú. Có một tỷ lệ cá chết lớn vì ấu trùng cá đòi hỏi phải có những loại thức ăn phù hợp
Ðộng vật phù du được xác định là thức ăn cho nhiều ấu trùng cá. Chúng có kích cỡ phù hợp và cung cấp lượng dinh dưỡng tốt. Việc thu hoạch và giữ cho chúng sống gặp rất nhiều khó khăn tại các trại nuôi trên đất liền.
Ở Ðài Loan, các chủ trại chuyên cung cấp nguồn thức ăn tươi sống đã phát triển một hệ thống thâm canh sản xuất động vật phù du và bảo đảm nguồn thức ăn tươi sống để nuôi các loài cá biển ở quy mô thương phẩm. Các trại cung cấp thức ăn tươi sống đã đóng một vai trò to lớn trong sự thành công của nghề sản xuất cá mú bột ở Ðài Loan.
Có sự hỗ trợ mạnh mẽ của chính phủ và một viện nghiên cứu hỗ trợ việc phát triển thị trường và kỹ thuật.
Hiệp hội Sản xuất cá giống của Ðài Loan đã được thành lập vào tháng 5 năm 1996 với mục đích thúc đẩy Ðài Loan thành một trung tâm cung cấp giống cá của châu Á – Thái Bình Dương, nhằm xuất khẩu giống cá có chất lượng cao tới các nước trong khu vực.
Một hệ thống mang tính hội nhập của các tổ chức liên quan đến thuỷ sản, một mạng lưới thông tin và dây chuyền các thị trường sẽ giúp cho việc thiết lập hệ thống giám sát chất lượng và là nguồn cung cấp các loại giống thuỷ sinh.
Chính phủ đã hỗ trợ tài chính, các nhà nghiên cứu từ Viện Nghiên cứu Thuỷ sản Ðài Loan và một số trường đại học tham gia tích cực vào việc phát triển kỹ thuật nuôi cá mú. Thông qua việc nghiên cứu và áp dụng công nghệ sinh học và sinh sản, các chuyên gia nuôi cá mú có thể nâng cao mức hoạt động và tăng cường sự cạnh tranh của họ trong nền công nghiệp này. Cũng có một số chính sách của chính phủ với mục đích sử dụng giống cá nuôI trong trại để táI tạo lại nguồn lợi cá mú tự nhiên đã bị khai thác quá mức.
Sự độc lập và sáng kiến của của các chuyên gia nuôi cá mú
Các chuyên gia nuôi cá mú có xu hướng chuyên môn hoá các bước khác nhau trong quy trình nuôi cá mú khép kín. Một điều được nhận thấy rất rõ ở Ðài Loan là các chuyên gia nuôi trồng thuỷ sản luôn cải tiến công nghệ và dẫn đầu trong thương trường. Mặc dù có một số bí mật về kỹ thuật nuôi do môi trường cạnh tranh cao, xong các chuyên gia đều tỏ ra có tính tổ chức cao và cạnh tranh lành mạnh, họ cùng nhau chia sẻ những kinh nghiệm quý báu của mình.
Những triển vọng trong tương lai
Việc thiếu nguồn lợi đất là hạn chế chính đối với nuôi trồng thuỷ sản, vì thế việc nuôi cá mú phải có những cải tiến để giảm bớt sự phụ thuộc vào nguồn lợi đất. Chính sách của Chính phủ là thúc đẩy việc sử dụng hiệu quả nguồn lợi đất bằng cách phát triển nuôi lồng biển thay cho nuôi trong các ao trong đất liền. Cần phải khắc phục một số thử thách khác như sự ô nhiễm từ việc nuôi cá mú, sản xuất quá mức sản phẩm cá mú và sự cạnh tranh của cá mú nhập khẩu. Ðài Loan hiện vẫn đang giữ lợi thế và phát triển nuôi cá mú. Những yếu tố này là do sự lao động cần cù của người nuôi cùng với sự giáo dục và những kinh nghiệm tốt hơn so với các đối tác của họ ở những nước Ðông Nam á khác. Theo báo cáo của Viện Nguồn lợi Thế giới thì có khoảng 70% giống cá biển trên thế giới đã hoặc đang bị khai thác quá mức.
Các rạn san hô ngày càng bị phá hoại, đây là một tiếng chuông cảnh báo về sự mất đi nơi cư trú của nhiều loài thuỷ sản. Sản xuất được nhiều cá nuôi hơn để bảo vệ các loàI cá quý hiếm và thúc đẩy nuôi thương mại trong lồng bè có thể là một kết quả có tính lôgíc để giảm áp lực đánh bắt ở những vùng san hô. Với tình hình này, quy trình nuôi cá mú khép kín ở Ðài Loan sẽ là một trong những giải pháp tối ưu để bảo vệ những vùng san hô mà vẫn đủ cá để cung cấp cho thị trường
KHCN TS, 6/2004 – D. L – Seafood International T3/04
Bảo quản tinh trùng cá mú cọp trong tủ lạnh
Nhóm nghiên cứu Lê Minh Hoàng, Phạm Quốc Hùng, Viện nuôi trồng thủy sản đã tìm hiểu ảnh hưởng của tỉ lệ pha loãng, chất bảo quản và nhiệt độ đến chất lượng tinh trùng cá mú cọp bảo quản trong tủ lạnh.
Bảo quản lạnh tinh trùng của động vật thủy sản ở nhiệt độ cận 0 độ C được yêu cầu đối với một số tình huống. Việc làm này có thể giúp không phải nuôi giữ động vật thủy sản đực trong thụ tinh nhân tạo. Trong quá trình sản xuất giống nhân tạo, việc bảo quản lạnh tinh giúp cho quá trình thụ tinh được chủ động hơn, đơn giản trong việc vận chuyển cá bố mẹ từ nơi này đến nơi khác, phục vụ lai tạo giống mới, khắc phục khó khăn trong sản xuất nhân tạo một số loài cá do sự lệch pha giữa cá đực và cá cái đồng thời bảo vệ được nguồn gen. Ngoài ra, bảo quản lạnh tinh trùng còn có vai trò quan trọng trong việc hạn chế tối đa việc lưu giữ cá đực, bảo tồn dòng thuần, hạn chế suy giảm do cận huyết trong quần đàn.
Cá mú cọp là loài cá biển có giá trị kinh tế, đã và đang nuôi rộng rãi trên thế giới. Là đối tượng được liệt kê vào danh mục cá loài cá biển có giá trị kinh tế. Đặc biệt, cá mú cọp là loài có đặc tính biến đổi giới tính từ lúc nhỏ cho đến lúc thành thục là con cái sau đó thì chuyển thành con đực. Ngoài ra, loài cá này không đồng pha trong sinh sản nhân tạo như thu được tinh trùng trong khi đó trứng lại chưa đạt mức độ thành thục. Đây là một trở ngại lớn trong công tác sinh sản nhân tạo khi không chủ động được sự đồng pha giữa con đực và con cái.
Chính vì vậy, việc nghiên cứu bảo quản và lưu trữ tế bào sinh dục thành thục nói chung và tinh trùng cá nói riêng trong tủ lạnh là giải pháp tốt cho việc chủ động sinh sản nhân tạo.
Trên thế giới cũng như Việt Nam, có rất nhiều công trình nghiên cứu bảo quản lạnh tinh trùng của một số loài cá đã được công bố như tinh trùng cá hồi bảo quản trong điều kiện có kháng sinh ở 0 độ C duy trì thời gian sống lên tới 34 ngày, tinh trùng cá tra có thể duy trì hoạt lực lên đến 21 ngày khi được bảo quản ở 4 độ C tương tự hoạt lực tinh trùng cá tầm kéo dài đến 28 ngày, tinh trùng cá đù vàng bảo quản trong dịch tương nhân tạo có bổ sung kháng sinh duy trì hoạt lực lên tới 26 ngày, tinh trùng cá chẽm mõm nhọn bảo quản trong dịch tương nhân tạo có thể duy trì hoạt lực đến ngày thứ 24 ở nhiệt độ 2 độ C…
Đa phần các công trình nghiên cứu này cho rằng chất lượng tinh trùng bảo quản trong tủ lạnh chịu sự ảnh hưởng của tỉ lệ pha loãng, chất bảo quản và nhiệt độ. Một vài nghiên cứu đã được công bố trên cá mú cọp như nghiên cứu đặc tính tinh dịch và ảnh hưởng của cation lên hoạt lực tinh trùng và nghiên cứu ảnh hưởng của tỉ lệ pha loãng, nhiệt độ, pH và áp suất thẩm thấu lên hoạt lực tinh trùng. Tuy nhiên, vẫn chưa có nghiên cứu nào về lĩnh vực này lên bảo quản tinh trùng cá mú cọp. Chính vì thế, nghiên cứu “Ảnh hưởng của tỉ lệ pha loãng, chất bảo quản và nhiệt độ lên chất lượng tinh trùng cá mú cọp Epinephelus fuscoguttatus bảo quản trong tủ lạnh” là việc làm hết sức có ý nghĩa nhằm xác định được tỉ lệ pha loãng, chất bảo quản và nhiệt độ tối ưu cho chất lượng tinh trùng cá mú cọp bảo quản trong tủ lạnh đạt chất lượng tốt.
Mỗi đợt thí nghiệm, nhóm nghiên cứu chọn cá đực từ 10 – 15 con. Cá được chọn ở tình trạng khỏe mạnh, không tổn thương, không dị tật,… Cá sau khi chọn đưa vào tiến hành vuốt tinh. Cá đực và cá cái nhốt riêng. Các con cá này được nuôi vỗ tại lồng nuôi – Vạn Ninh – Khánh Hòa. Cá bố mẹ được cho ăn bằng thức ăn cá tạp, lượng thức ăn bằng 5% khối lượng cá bố mẹ.
Những con cá mú cọp đực trưởng thành có màu sắc tươi sáng, hoạt động tốt, không xây sát dị tật và không bị bệnh được sử dụng để tiến hành vuốt lấy tinh dịch. Trước khi tiến hành vuốt tinh, cá đực được gây mê bằng 200 ppm Methyleneglycol monophenylether. Sau đó cá đực được xác định chiều dài và khối lượng bằng thước và cân. Trước khi vuốt tinh dùng khăn sạch lau xung quanh lỗ sinh dục tránh việc lẫn tạp chất nhằm thu được mẫu đạt chất lượng tốt. Sau đó, dùng tay vuốt nhẹ bụng cá cho tinh dịch chảy vào eppendorf tube 15 mL. Khi vuốt chú ý không để nước, máu, nước tiểu và phân cá lẫn vào làm ảnh hưởng đến chất lượng tinh trùng. Tinh trùng được lấy vào buổi sáng và ở chỗ mát để giúp tinh không bị biến chất. Mẫu tinh thu xong được lưu giữ trên đá lạnh và tiến hành các quan sát và phân tích ngay sau khi đưa mẫu về phòng thí nghiệm
Sau khi nghiên cứu, kết quả cho thấy tinh trùng dược bảo quản trong ASP cho thời gian hoạt lực và vận tốc tốt nhất duy trì đến ngày thứ 24 và ngắn nhất bảo quản trong BSA chỉ duy trì đến ngày thứ 15. Thời gian hoạt lực và vận tốc tinh trùng duy trì lâu nhất khi bảo quản trong ASP ở tỷ lệ pha loãng 1:3 lên đến 24 ngày, và ngắn nhất ở tỷ lệ 1:10 chỉ sống đến ngày thứ 9. Tinh trùng được pha loãng ở tỷ lệ 1:3 trong ASP và bảo quản ở 4 độ C cho thời gian hoạt lực và vận tốc cao nhất, kéo dài đến 24 ngày và thấp nhất ở 0 độ C và 2 độ C chỉ sống đến 21 ngày.
Quỳnh Hoa – Khoa Học Phổ Thông, 19/02/2017
Ương nuôi cá song chấm nâu
Cá song chấm nâu (có tên khoa học là Epinephelus coioides) có giá trị kinh tế cao, phân bố phổ biến dọc bờ biển nước ta.
Điều kiện ương nuôi
- Bể ương: Bể có thể tích 2-100m3 làm bằng xi măng hoặc composite có màu ghi sáng.
- Lồng nuôi: kích thước lồng 3x3x3m, với các kích cỡ mắt lưới 2a=1- 7cm.
- Bè nuôi đặt ở vùng biển sâu 6-10m, ít sóng gió và an toàn về mùa mưa bão, không bị ảnh hưởng bởi các nguồn nước ô nhiễm.
Chọn nuôi vỗ cá bố mẹ
- Cá bố mẹ được nuôi vỗ ở bè bằng cá tươi có hàm lượng dinh dưỡng cao và bổ sung thêm một chất bổ trong giai đoạn chuẩn bị cho đẻ.
- Cá bố mẹ được kiểm tra thường xuyên và chọn ra những cặp bố mẹ tốt nhất đưa lên cho đẻ ở bể.
Cho cá sinh sản
- Mùa sinh sản của cá song chấm nâu bắt đầu từ tháng 3 đến tháng 8 và chúng đẻ rải rác vào các ngày trong tuần.
- Trứng sau khi thụ tinh ở bể đẻ được thu lại và chỉ lọc lấy những trứng tốt (vì trứng nổi lên mặt nước). Sau đó, ấp trứng 18-24 giờ và nở thành ấu trùng.
- Ấu trùng trải qua các giai đoạn biến thái trong thời gian 40-45 ngày và chuyển sang giai đoạn cá hương.
Ương nuôi cá
Mật độ tuỳ thuộc vào từng giai đoạn phát triển của cá và cách thức ương nuôi. Nếu nuôi dày quá cá sẽ sinh trưởng chậm, dễ mắc dịch bệnh và tỉ lệ sống thấp.
Thức ăn
- Giai đoạn ấu trùng thức ăn là những loại động vật nguyên sinh như luân trùng, Artemia và thức ăn tổng hợp có cỡ viên phù hợp với cỡ miệng của ấu trùng.
- Giai đoạn cá hương cho ăn 3-4 lần/ngày bằng thức ăn tổng hợp có cỡ viên 1-2mm và bổ sung xen kẽ một số bữa cá tươi xay nhỏ.
- Giai đoạn cá giống cho ăn ngày hai lần bằng thức ăn tổng hợp có cỡ viên 2-4mm và bổ sung xen kẽ một số bữa cá tươi xay nhỏ.
- Giai đoạn cá thương phẩm: cho ăn cá tươi băm nhỏ 1 lần/ngày.
Cần chú ý quản lý tốt khâu cho ăn vì thức ăn thừa sẽ làm ô nhiễm môi trường.
Phân đàn và chọn lọc cỡ cá
Trong giai đoạn cá hương và cá giống dưới 10cm, cá được lọc bằng rổ lọc inox với các cỡ lọc đảm bảo sự đồng đều về cỡ cá, tránh hiện tượng cá lớn ăn cá bé. Còn đối với cá lớn hơn 10cm, thì việc phân lọc được thực hiện trên cơ sở cảm quang.
Phòng và chữa bệnh
Trong quá trình ương nuôi cá song chấm nâu thường gặp một số bệnh: bệnh do ký sinh trùng (đốm trắng, phồng mắt, dính tia mang), bệnh do vi khuẩn (loét gốc vây, gốc đuôi, loét da ở đầu và thân), bệnh do virus (VNN), ngoài ra còn một số bệnh khác mà nguyên nhân chưa xác định rõ ràng…
- Phòng bệnh: Phòng bệnh cho cá bằng cách thường xuyên hoán chuyển bể nuôi và lồng nuôi; xử lý thuốc sau mỗi lần chuyển và phân lọc cá; mọi dụng cụ làm việc liên quan đến ương nuôi cá đều phải được khử trùng trước và sau khi dùng. Ngoài ra, ương nuôi với mật độ thưa và quản lý chất lượng nước tốt là biện pháp phòng tránh dịch bệnh tốt nhất.
- Xử lý bệnh: Dùng thuốc xử lý ngay trong bể nuôi với khoảng thời gian tuỳ theo nồng độ thuốc cần xử lý (ứng dụng trong ương nuôi ở bể); tắm cho cá với nồng độ thuốc cao trong thời gian ngắn (ứng dụng cho cả trong ương nuôi ở bể và nuôi bằng lồng trên biển).
- Một số thuốc thường dùng trong phòng và trị bệnh là Formol, IDINE, CuSO4, Oxytetraciline, Cyprofloxaxine…
NTNN – 10.11.2003
Quy trình nuôi thương phẩm cá song chấm nâu trong ao sử dụng thức ăn công nghiệp
Quy trình này áp dụng cho các hộ dân và các cơ sở nuôi cá biển có điều kiện tự nhiên thích hợp với nuôi cá song chấm nâu/ cá mú chấm cam Epinephelus coioides (Hamilton, 1822) và phù hợp với quy hoạch nuôi biển của Việt Nam
- Chuẩn bị ao
a. Chọn và thiết kế ao nuôi
- Ao nuôi có diện tích từ 1.000 – 5.000 m2 (diện tích ao nuôi phù hợp nhất từ 1.500 – 3.000 m2), độ sâu ao nuôi từ 1,8 – 2,5m, độ sâu mực nước từ 1,5 – 2,0m.
- Ao nuôi có dạng hình vuông hoặc hình chữ nhật có bo tròn ở góc ao, đáy ao có độ dốc 5%, nghiêng về phía hố ga.
- Bờ ao được kè bê tông hoặc lót bạt, hệ số mái bờ từ 1,0 – 1,5. Nền đáy ao là đất sét pha cát hoặc đáy cát hoặc cát pha bùn (tốt nhất là đáy cát). Đáy ao không bị rò rỉ nước, thoát nước và bị xì phèn.
- Hố ga đặt ở giữa ao nuôi, có dạng hình vuông (kích thước 1,2m x 1,2m), đáy hố ga sâu hơn đáy ao từ 0,4 – 0,5m, gờ thành trên của hố ga cao hơn đáy ao 0,2m, mặt trên hố ga có lưới nilon hoặc lưới inox để chắn cá nhưng chất thải vẫn đi qua. Từ hố ga có 01 ống nhựa PVC đường kính 250 – 300 mm kéo dài đến mương thoát nước thải. Tại vị trí cuối đường ống nhựa PVC có khóa đóng mở khi cần thiết.
- Đáy ao nuôi đặt 4 cụm ống nhựa PVC hoặc HDPE (mỗi cụm có thể tích 1,5 – 2 m3) để tạo chỗ ẩn nấp cho cá. Ống nhựa được đặt cách bờ ao tối thiểu 1,5m và có đường kính phù hợp với từng giai đoạn phát triển của cá.
- Cống thoát: ngoài đường ống PVC để tháo chất thải đáy ao, mỗi ao nuôi được bố trí 01 cống thoát nước, được xây ở giữa bờ ao, nối giữa ao nuôi với mương thoát nước thải. Cống thoát có khẩu độ từ 0,8 – 1,0m, dùng để thoát nước mặt và để thu hoạch cá.
- Hệ thống cấp nước gồm 01 ống nhựa PVC hoặc HDPE nối từ ao chứa nước đến ao nuôi, đường kính ống tối thiểu 110mm, được đặt cùng với hướng dòng chảy khi quạt nước ao nuôi.
- Máy quạt nước cho ao nuôi gồm 2 bộ máy quạt nước được đặt ở 2 phía đối diện trong ao, mỗi bộ gồm 4 – 6 cánh quạt được kéo bởi mô tơ điện hoặc đầu máy dầu diezen.
b. Ao chứa
Thể tích nước trong ao chứa tối thiểu bằng 0,8 – 1,0 lần thể tích ao nuôi. Ao chứa nên có độ sâu lớn hơn ao nuôi để giảm diện tích ao chứa.
c. Cải tạo ao nuôi
Tháo cạn nước trong ao, loại bỏ các sinh vật không mong muốn còn ở trong ao (cá, tôm, cua tạp, rong, cỏ…), vét bỏ bùn thối, phơi khô đáy ao 1 – 2 tuần, khử trùng đáy ao và bờ ao bằng vôi bột. Lượng vôi sử dụng theo Bảng 1.
Bảng 1. Lượng vôi sử dụng theo pH của đáy ao
PH | Lượng Vôi Bột (Kg/1000 M2) |
6,0 – 7,0 | 30 – 60 |
4,5 – 6,0 | 60 – 100 |
3,0 – 4,5 | 100 – 180 |
d. Lấy nước và cấp nước
- Lấy nước vào ao chứa: chọn con nước tốt (thời điểm đầu kỳ con nước cường) để lấy nước. Nước được lấy trực tiếp qua mương dẫn hoặc dùng máy bơm và được lọc qua lưới lọc để ngăn địch hại. Khử trùng nước bằng Chlorine 10 ppm, sục khí hoặc quạt nước ít nhất 1 ngày cho hết dư lượng Chlorine. Sau 5 – 7 ngày, kiểm tra chất lượng nước ao chứa đạt yêu cầu quy định tại Bảng 2 thì cấp nước vào ao nuôi.
Bảng 2. Thông số chất lượng nước ao nuôi
Thông Số | Giá Trị Giới Hạn |
pH | 7,5 – 8,5 |
DO (mg/l) | > 4,0 |
Độ mặn (‰) | 10 – 30 |
Nhiệt độ (ºC) | 20 – 32 |
NH3 (mg/l) | < 0,02 |
H2S (mg/l) | < 0,05 |
Cấp nước vào ao nuôi: cấp nước vào ao nuôi đạt độ sâu 0,5 – 0,6m để gây màu nước trước khi thả cá giống.
e. Gây màu nước cho ao nuôi
Nếu độ trong > 60cm, bón phân ure với liều lượng từ 2 – 2,5 kg/1.000m2 và phân lân với liều lượng 4,0 – 5,0 kg/1.000m2 (chỉ cần gây màu cho ao nuôi 1 lần duy nhất vào đầu thời điểm nuôi.) Sau khi gây màu 3 – 5 ngày, sinh vật phù du trong ao phát triển, độ trong của ao đạt 30 – 40 cm hoặc nước ao có màu xanh, vàng thì tiến hành thả cá giống vào ao. Tiếp tục cấp nước và duy trì mực nước ao nuôi đến độ sâu 1,5-2,0m.
- Chọn và thả cá giống
- Mùa vụ thả cá giống
Miền Bắc (từ Huế trở ra) thả giống từ tháng 5 đến tháng 8, miền Nam (từ Đà Nẵng trở vào) thả giống quanh năm.
- Nguồn gốc và chất lượng cá giống
- Nguồn gốc cá giống: chọn mua cá giống được sản xuất từ những cơ sở sản xuất giống có uy tín, có nguồn gốc rõ ràng.
- Chất lượng cá giống: cá khỏe mạnh; không bị nhiễm VNN, ký sinh trùng; không dị hình, dị tật; không bị xây xát, mất nhớt; cỡ cá đồng đều, bơi lội nhanh nhẹn, bơi chìm trong nước theo đàn. Cá đã ăn hoàn toàn thức ăn công nghiệp.
- Thuần và luyện cá giống
- Thuần cá giống: trước khi nhận và thả cá giống 03 ngày, người nuôi nên thông báo cho cơ sở cung cấp giống độ mặn tại ao nuôi để điều chỉnh độ mặn ương cá giống. Độ mặn được điều chỉnh tốt nhất với mức tăng hoặc giảm tối đa 2- 3‰/ ngày.
- Luyện cá giống: trước khi thu cá để vận chuyển, ngừng cho cá ăn trước 12 giờ, dồn cá lại góc bể hoặc tháo bớt nước để tăng mật độ cá (lưu ý phải luôn đảm bảo dưỡng khí ô-xy cho cá). Việc thu cá phải nhẹ nhàng bằng vợt vải mềm, ca, chậu… lưu ý trong quá trình thao tác bắt cá hạn chế để cá rời khỏi mặt nước.
- Vận chuyển cá giống
- Vận chuyển kín (phương tiện là máy bay, ô tô, tàu thuyền): sử dụng các túi nilon đóng cá chuyên dụng (có nhiều kích cỡ tùy chọn), lồng hai túi vào với nhau, cấp nước sạch (có cùng độ mặn với nước thuần cá) vào 1/3 – 2/5 thể tích túi.
Cho cá vào túi theo mật độ quy định tại Bảng 3, bơm căng oxy, buộc chặt túi và đặt vào thùng xốp, duy trì nhiệt độ vận chuyển từ 20 – 22 độ C bằng túi đá lạnh đặt trong thùng xốp.
Bảng 3. Mật độ và kích cỡ cá vận chuyển kín
Cỡ Cá (Cm) | Mật Độ (Con/Lít Nước) | Thời Gian Vận Chuyển Kín Tối Đa (Giờ) |
8 – 10 | 10 – 12 | 15 |
Vận chuyển hở (ô tô, tàu thuyền): sử dụng thùng composit thể tích từ 0,5 – 1,0 m3, cấp 3/5 thể tích nước sạch (có cùng độ mặn với nước thuần cá). Cho cá vào thùng theo mật độ quy định tại Bảng 4, sục khí liên tục bằng máy thổi khí hoặc bình oxy nguyên chất. Duy trì nhiệt độ vận chuyển 22 – 24 độ C (tốt nhất sử dụng xe bảo ôn).
Bảng 4. Mật độ và kích cỡ cá vận chuyển hở
Cỡ Cá (Cm) | Mật Độ (Con/M3 Nước) | Thời Gian Vận ChuyểnHở Tối Đa (Giờ) |
8 – 10 | 4.000 – 5.000 | 24 – 36 |
Ghi chú: Thay 50% nước sau 12 giờ vận chuyển
- Thả cá giống
- Kích cỡ giống thả: cá giống có chiều dài từ 8 – 10 cm (tương ứng cá có khối lượng từ 8 – 9g/con).
- Mật độ thả: 2 con/m2.
- Thả cá vào thời điểm trời mát, sáng sớm hoặc chiều tối.
- Nếu thời gian vận chuyển cá giống ngắn (nhỏ hơn 5 giờ), tiến hành thả cá như sau: bổ sung từ từ nước ao nuôi vào dụng cụ chứa cá giống và thả từ từ cá từ trong dụng cụ chứa giống ra ao nuôi.
- Nếu thời gian vận chuyển cá giống lớn hơn 5 giờ, tiến hành thả cá như sau: tắm khử trùng cho cá giống bằng Formalin nồng độ 55ppm trong thời gian 20 – 30 phút để loại bỏ ký sinh trùng và cá yếu sau đó thả từ từ ra ao nuôi thương phẩm
Quy trình kỹ thuật này có thể ứng dụng ở các vùng biển đáp ứng yêu cầu về điều kiện tự nhiên phù hợp.
- Chăm sóc và quản lý
a. Thức ăn và cho cá ăn:
- Thức ăn:
- Giai đoạn từ khi thả cá (cỡ cá 8-9g/con) đến khi đạt khối lượng 200g/con: sử dụng thức ăn công nghiệp chuyên dụng cho cá song có hàm lượng protein từ 45 – 48%, hàm lượng lipid từ 8 – 14%, dạng viên tròn dẹt, có đặc tính chìm chậm để nuôi cá song chấm nâu.
- Giai đoạn cá có khối lượng >200g/con: sử dụng thức ăn công nghiệp theo quy định tại bảng 5
Bảng 5. Thành phần dinh dưỡng của thức ăn công nghiệp cho cá Song chấm nâu
Chỉ Tiêu Chất Lượng | Hàm Lượng Dinh Dưỡng |
Protein (%) | ≥45 |
Chất béo (%) | ≥9 |
Xơ thô (%) | ≤2,7 |
Tro (%) | ≤11 |
Ẩm (%) | ≤8,1 |
Chất dẫn dụ Taurine (%) | 0,5 |
- Khẩu phần ăn: căn cứ vào giai đoạn phát triển của cá mà sử dụng cỡ viên và lượng thức ăn công nghiệp cho phù hợp. Khẩu phần cho ăn hàng ngày đối với từng kích cỡ cá được trình bày ở Bảng 6.
Bảng 6. Khẩu phần thức ăn công nghiệp cho cá Song chấm nâu
Cỡ Cá (G/Con) | Đường Kính Viên Thức Ăn (Mm) | Khẩu Phần Ăn (% Khối Lượng Cá/Ngày) | Số Lần/Ngày | Giờ Cho Ăn |
8 – 9 | 1,5 – 5,0 | 1,5 – 4,0 | 2 | 7 – 8; 16 – 17 |
200-500 | 5,0 – 8,0 | 1,5 – 2,0 | 1 | 7 – 8 |
> 500 | 8,0 – 10,0 | 0,8 – 1,5 | 1 | 7 – 8 |
Chú ý: khi nhiệt độ nước trong lồng nuôi > 32ºC cần giảm lượng thức ăn trong ngày từ 30 – 50%. Trong điều kiện bất thường, hàm lượng oxy hòa tan trong nước giảm (< 4,0 mg/l), giảm lượng thức ăn từ 15 – 20% so với ngày thường.
- Cách cho ăn: cho ăn thủ công bằng tay và tuân thủ nguyên tắc “3 xem” (xem điều kiện thời tiết, xem chất lượng môi trường, xem tình trạng sức khỏe của cá) và nguyên tắc “4 định” (chất lượng thức ăn, khối lượng thức ăn, thời gian cho ăn, địa điểm cho ăn). Từ đó kiểm tra, giám sát thức ăn bằng việc quan sát cá ăn và khả năng sử dụng thức ăn hàng ngày của cá, tuyệt đối tránh dư thừa thức ăn.
b. Chăm sóc và quản lý lồng nuôi cá
- Định kỳ bảo dưỡng, vệ sinh hàu, hà bám vào dây neo, lưới lồng với tần suất 1 – 2 tháng/lần, tùy thuộc vào mức độ hà bám.
- Thay lồng và phân loại cá theo định kỳ 2 tháng/lần, mỗi lần thay lưới lồng có thể tắm cho cá bằng nước ngọt 30-60 phút hoặc bằng Formalin 55ppm trong 20-30 phút, khi tắm cho cá cần sục khí mạnh.
- Trước mùa mưa bão, lồng bè và nhà ở cần phải được gia cố, chằng chống, neo đậu vững chắc, khi có bão cần theo dõi diễn biến thực tế để có ứng phó kịp thời, nếu vùng nuôi ở các eo vịnh, thì có thể dùng tàu kéo lồng bè đến nơi kín gió.
c. Quản lý môi trường trong lồng nuôi
Biện pháp tổng hợp để quản lý các yếu tố môi trường trong khu vực lồng nuôi bao gồm: lựa chọn vị trí đặt lồng, kích thước mắt lưới, cách sắp xếp lồng nuôi phù hợp; thường xuyên bổ sung dưỡng chất trong thức ăn để tăng sức đề kháng cho cá. Trong quá trình nuôi, định kỳ kiểm tra 2 lần/ngày các yếu tố pH, DO, cụ thể:
- pH: pH thích hợp cho cá nuôi lồng từ 7,0 – 8,5. pH ở khu vực nuôi lồng bè trên biển rất khó kiểm soát. Cá biệt, giá trị pH vượt ngưỡng cho phép trong trường hợp khu vực nuôi lồng có hiện tượng tảo nở hoa, khi đó pH cao và oxy thấp cục bộ vào ban đêm. Biện pháp xử lý có hiệu quả là tăng cường cung cấp oxy cho cá nuôi bằng máy sục khí có đường dẫn khí đến các lồng nuôi đồng thời giảm lượng thức ăn, bổ sung vitamin và khoáng chất trong thức ăn cho cá vào giai đoạn này.
- Oxy hòa tan (DO): hàm lượng DO thích hợp từ 4 – 6 mg/l. Chạy máy sục khí vào các thời điểm bất thường khi hàm lượng Oxy hòa tan dưới 4 mg/l.
d. Phòng trừ dịch bệnh
* Phòng bệnh tổng hợp:
- Sử dụng cá giống có nguồn gốc rõ ràng, đảm bảo cá giống không bị nhiễm bệnh, đặc biệt là bệnh hoại tử thần kinh (VNN).
- Cho cá ăn đầy đủ với thức ăn đảm bảo chất lượng, định kỳ vệ sinh lưới lồng 1 tháng/lần, tạo môi trường nuôi thông thoáng.
- Vào mùa dịch bệnh (thường là thời điểm giao mùa), để phòng bệnh cần định kỳ tắm Formalin cho cá kết hợp với bổ sung vitamin C và khoáng chất vào thức ăn nhằm tăng sức đề kháng của đàn cá nuôi (bổ sung bằng cách, trộn đều một lượng thức ăn nhất định với vitamin C, men…, sau đó sử dụng dầu mực để bao bọc hỗn hợp thức ăn vừa trộn trước khi cho cá ăn).
Bảng 7. Phòng bệnh định kỳ cho cá nuôi lồng bằng Formalin, vitamin C và biện pháp tăng oxy hòa tan
* Phòng và trị bệnh
- Bệnh đốm trắng (Cryptocaryonosis) hay còn gọi bệnh trùng quả dưa
- Tác nhân và giai đoạn xuất hiện bệnh: bệnh đốm trắng do nhóm trùng quả dưa, cơ thể đơn bào (Cryptocaryon irritan) gây ra. Loài ký sinh trùng này gây bệnh nguy hiểm khi cá còn nhỏ, thời gian đầu khi mới thả giống.
- Dấu hiệu bệnh lý: khi cá bị bệnh, có thể dùng kính lúp quan sát được rất rõ các đốm trắng nhỏ trên thân cá. Ký sinh trùng sinh sản vô tính theo hình thức nhân đôi nên khi gặp điều kiện thuận lợi ký sinh trùng phát triển rất nhanh và có thể gây chết 80 – 90% cá trong vòng 1 tuần nếu không chữa trị kịp thời.
- Phương pháp phòng bệnh: nguyên nhân dẫn đến cá bị bệnh là do nguồn nước bị ô nhiễm và cá bị trầy xước trong quá trình vận chuyển, thả giống, chăm sóc. Vì vậy, quan tâm đến việc thuần cá trước khi vận chuyển, kỹ thuật vận chuyển, thả giống và chăm sóc, tránh stress cho cá trong quá trình nuôi sẽ hạn chế tác nhân gây bệnh đốm trắng.
- Phương pháp trị bệnh: bệnh đốm trắng được điều trị bằng cách tắm Formalin 55ppm trong thời gian 20-30 phút, tắm lặp lại trong 3 ngày liên tiếp.
Với phương pháp điều trị này, tỷ lệ khỏi bệnh có thể đạt 100%, trong quá trình tắm cần phải sục khí liên tục.
- Bệnh sán lá đơn chủ (Monogenean)
- Giai đoạn xuất hiện bệnh: sán lá đơn chủ là một trong những bệnh nguy hiểm thường xuất hiện trên giai đoạn cá giống và cá nuôi thương phẩm. Nhóm ký sinh trùng này ký sinh hầu hết trên tất cả các loài cá nuôi biển. Bệnh sán lá đơn chủ thường xảy ra vào giai đoạn mùa khô miền Nam hoặc mùa thu, mùa đông và mùa xuân ngoài miền Bắc khi độ mặn cao.
- Tác nhân gây bệnh: do nhiều loài sán lá đơn chủ gây ra như: Benedenia sp., Benedinia hoshinia, Neobenedenia spp., Diplectanum spp., Haliotrema spp., Pseudorhabdosynochus spp.
- Dấu hiệu bệnh lý: cơ quan cảm nhiễm chủ yếu của bệnh là da và mang.
Khi cá bị bệnh thường có rất nhiều nhớt trên da và mang cá. Cá có hiện tượng ngứa ngáy, thường bơi sát bờ. Khi bị bệnh sán lá đơn chủ, chúng thường bị các tác nhân gây bệnh thứ cấp là nấm và vi khuẩn tấn công. Khi cá bị bệnh này, tỷ lệ chết có thể lên đến 50% ở giai đoạn cá nuôi thương phẩm.
- Phương pháp phòng bệnh: phương pháp phòng bệnh chủ yếu đối với nhóm tác nhân gây bệnh sán lá đơn chủ là kiểm tra cá giống trước khi mua về.
Vào mùa dịch bệnh, định kỳ 15 ngày /lần, tắm cho cá nuôi bằng Formalin 55ppm trong thời gian 20-30 phút. Trong quá trình nuôi thường xuyên kiểm soát môi trường nuôi để có biện pháp xử lý kịp thời.
- Phương pháp trị bệnh: Điều trị giống như điều trị bệnh trùng quả dưa.
- Bệnh lở loét do vi khuẩn
- Giai đoạn xuất hiện bệnh: bệnh xuất hiện ở hầu hết các giai đoạn phát triển của cá từ cá giống đến cá thương phẩm. Bệnh vi khuẩn thường xảy ra vào giai đoạn giao mùa, chuyển mùa giữa mùa hè và mùa thu, giữa mùa thu và mùa đông hoặc mùa xuân và mùa hè.
- Tác nhân gây bệnh: do nhiều nhóm vi khuẩn gây bệnh khác nhau gây ra như Vibrio spp, Pseudomonas spp, Streptococcus sp, và Flexibacter spp.
- Dấu hiệu bệnh lý: cá bỏ ăn, bơi lờ đờ hoặc tách đàn. Trên thân cá có các vết loét, đốm đỏ, tuột vẩy và xuất huyết, mòn vây, mòn mang. Khi cá bị bệnh nếu không chữa trị kịp thời có thể gây chết lên đến 80%.
- Phương pháp phòng bệnh: tắm khử trùng cho cá trước khi thả giống, không làm cá bị xây xát hay trầy xước do thao tác hoặc chăm sóc.
- Phương pháp trị bệnh: đối với cá song nuôi lồng khi bị bệnh này việc chữa trị không hiệu quả do vậy phòng bệnh là chính.
- Bệnh đục mắt do vi khuẩn Streptococcus spp.
- Giai đoạn xuất hiện bệnh: bệnh thường xuất hiện chủ yếu vào giai đoạn cá giống và cá nuôi thương phẩm. Mùa xuất hiện bệnh như mùa hè và thời gian giao mùa.
- Dấu hiệu bệnh lý: cá bị bệnh có dấu hiệu đặc trưng đó là cá bị đục mắt.
Ban đầu cá vẫn sinh trưởng và phát triển bình thường, khi bị bệnh nặng thì mắt cá có thể bị hỏng nhưng cá vẫn sống. Tuy nhiên tốc độ sinh trưởng giảm do khả năng bắt mồi kém. Cá thường bị chết do các tác nhân gây bệnh khác như nấm, vi khuẩn hoặc vi rút gây ra.
- Phương pháp phòng bệnh và trị bệnh: tương tự với phương pháp phòng bệnh và trị bệnh lở loét do vi khuẩn.
- Thu hoạch cá thương phẩm
- Sau thời gian nuôi 12 – 15 tháng, cá đạt kích cỡ 800 – 1.200 g/con là có thể thu hoạch.
- Luyện cá: trước khi vận chuyển 1 – 2 ngày, cần kéo lưới lồng để cá quen dần với thao tác khi thu hoạch. Trước khi vận chuyển cần cho cá nhịn đói ít nhất 1 ngày để giảm chất bài tiết và giảm stress trong quá trình vận chuyển.
- Cá được vận chuyển sống trong thùng, bể chuyên dụng có thể tích 1,0 m3. Trong khi vận chuyển cần hạ thấp nhiệt độ xuống khoảng 22 – 24 độ C, có thể sử dụng đá lạnh và cho vào túi nilon kín rồi thả vào bể vận chuyển để độ mặn trong bể không bị thay đổi làm cá sốc. Cần sục khí mạnh đảm bảo đủ oxy trong suốt quá trình vận chuyển.
BBT (gt) – Khuyến Nông VN, T2, T3/2023
Kinh nghiệm từ mô hình nuôi cá mú chấm đen thương phẩm trong lồng ở Quảng Ngãi
Cá mú chấm đen có tên khoa học là: Epinephelus malabaricus. Đây là một trong những loài cá mú có giá trị kinh tế cao do thịt cá ngon, chứa nhiều hàm lượng dinh dưỡng nên thị trường rất ưa chuộng. Cá lớn tương đối nhanh, kỹ thuật nuôi cũng không phức tạp, khâu quản lý, chăm sóc dễ dàng, giá trị kinh tế mang lại rất cao và sản phẩm dễ tiêu thụ. Nghề này đang thu hút sự quan tâm của nhiều ngư dân trong và ngoài nước.
Trong những năm qua, nhằm phát huy tiềm năng sẵn có và góp phần tăng thu nhập cho bà con nông ngư dân, thúc đẩy nghề nuôi hải sản biển ngày càng phong phú và đa dạng hơn, Trung tâm Khuyến nông – Khuyến ngư Quảng Ngãi đã xây dựng và triển khai các mô hình nuôi cá mú chấm đen trong lồng tại một số địa phương như: Sơn Tịnh, Bình Sơn, Đức Phổ… Đa phần các mô hình đều mang lại hiệu quả kinh tế đáng khích lệ.
Năm 2012, Trung tâm đã xây dựng và triển khai mô hình nuôi cá mú chấm đen thương phẩm trong lồng tại xã Bình Thuận, huyện Bình Sơn. Qui mô thực hiện là 40 m3 với số lượng cá giống thả nuôi là 1.000 con, nguồn cá giống được đánh bắt tại địa phương. Sau 8 tháng nuôi, do thực hiện đúng yêu cầu kỹ thuật nên cá phát triển rất tốt và đã đạt trọng lượng thương phẩm bình quân 800 – 850 g/con, tỷ lệ sống đạt trên 75%, sản lượng thu được trên 600 kg. Với giá bán 250.000-300.000 đồng/kg, mô hình thu lãi hơn 40 triệu đồng. Đây là một trong số các mô hình nuôi cá mú chấm đen thành công và đạt hiệu quả kinh tế trong những năm gần đây.
Mặc dù tiềm năng diện tích vùng nuôi biển tại Quảng Ngãi không nhiều so với một số tỉnh khác, nhưng điều kiện tự nhiên tại Quảng Ngãi rất thuận lợi để phát triển nuôi các đối tượng thủy hải sản có giá trị kinh tế. Đây cũng là hướng đi tích cực và phù hợp với định hướng phát triển kinh tế biển của ngành từ nay đến năm 2020.
Tuy nhiên, để nghề nuôi cá mú chấm đen trong lồng được phát triển bền vững và đạt hiệu quả cao thì người nuôi cần phải lưu ý các vấn đề sau đây:
- Vị trí nuôi phải thuận lợi
Chọn vị trí đặt lồng nuôi ở vùng nước trong sạch, chất đáy cát hoặc cát san hô, ít bùn. Có độ mặn từ 10-30‰ và luôn ổn định. Nguồn nước không bị ảnh hưởng của nguồn nước ngọt do tác động của nước sông vào mùa mưa. Lồng được làm chắc chắn, có lưới bảo vệ bên ngoài. Ðộ sâu đặt lồng từ 1,5 mét nước trở lên. Chọn lồng nuôi cá mú là loại nổi hoặc lồng kín đặt dưới đáy biển, khi thời tiết thuận lợi người nuôi có thể nuôi bằng lồng nổi để dễ quản lý và chăm sóc, vào những mùa mưa gió thì có thể chuyển cá sang nuôi trong lồng kín.
- Áp dụng đúng qui trình kỹ thuật trong suốt quá trình nuôi, cho cá ăn vừa đủ về mặt số lượng cũng như về mặt chất lượng; quản lý và chăm sóc theo đúng yêu cầu kỹ thuật để cá phát triển rất tốt, khoẻ mạnh, chóng lớn. Đưa công tác phòng bệnh lên vị trí hàng đầu với phương châm: ” Phòng bệnh hơn chữa bệnh”. Lồng nuôi cá phải được chuyển đến chỗ mới sau 2-3 năm nuôi, để đáy nơi đặt lồng có điều kiện phục hồi trở lại.
- Chọn giống và thả giống
Một trong những yếu tố rất quan trọng quyết định sự thành công của suốt quá trình nuôi là chất lượng con giống, cần phải tuyển chọn con giống hình dáng cân đối, khoẻ mạnh, không xây xát, các bộ phận không bị tổn thương và không có dấu hiệu nhiễm bệnh để thả nuôi. Vì loài cá mú chấm đen (Epinephelus malabaricus) có tính ưu việt là tốc độ tăng trưởng rất nhanh và có khả năng chịu độ mặn thấp xuống đến 5‰ trong thời gian ngắn. Do vậy khi chọn giống, người nuôi cần phải chọn đúng đối tượng, tránh nhầm lẫn với một số loài cá mú khác. Hiện nay, nguồn giống tự nhiên tại Quảng Ngãi rất dồi dào. Cá giống tự nhiên thu gom tại đại phương có nhiều ưu thế là giá thành vừa rẻ ,vừa có khả năng thích nghi với môi trường rất cao, nhưng do hình thức khai thác và chăm sóc con giống sau khi đánh bắt cũng chưa đảm bảo nên dễ bị ảnh hưởng không tốt đến chất lượng đàn cá giống. Do vậy công tác tuyển chọn đàn cá giống tốt để nuôi và chế độ dinh dưỡng cho cá con sau khi thả là vấn đề luôn phải đặt lên hàng đầu. Kích cỡ giống thả nuôi trong lồng phải trên 12 cm/con và mật độ thả nuôi không quá 25 con/m3.
- Thời vụ thả nuôi: Cần phải thả nuôi sớm, tránh các mùa mưa, bão. Thời điểm thả nuôi thích hợp nhất phải trước tháng 3 dương lịch hàng năm, vào những mùa mưa gió thì nên chuyển cá sang nuôi trong lồng kín.
Nguyễn Ngọc Tài – Trưởng phòng Kỹ thuật ngư nghiệp, Trung tâm Khuyến nông – Khuyến ngư Quảng Ngãi – Khuyến ngư quốc gia, 18/03/2013