Cá hồng mỹ (Sciaenops ocellatus) là loài cá sống rộng muối, rộng nhiệt, phân bố ở vịnh Mexicô và vùng duyên hải Tây Nam nước Mỹ, phạm vi phân bố rộng, khi trưỏng thành thường di cư đến vùng cửa sông và vùng biển nông để sinh sản. Cá có thể sống trong nước ngọt, nuớc lợ, nước mặn, nhưng thích hợp nhất vẫn là nước lợ và nước mặn, kích thước cá thể lớn, tốc độ sinh trưởng nhanh.
Cá hồng mỹ mới năm 1999 lần đầu tiên được nhập vào Việt Nam, nhưng sau 4 năm đã có thể cho sinh sản thành công đối tượng này và đã đáp ứng đuợc phần lớn nhu cầu con giống phục vụ nuôi nội địa. Cá hồng Mỹ đã được nuôi phổ biến trong lồng bè ở vùng biển các địa phương Hải Phòng, Quảng Ninh, Nghệ An. Năm 2003, Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thuỷ sản I thực hiện đề tài “Xây dựng quy trình sinh sản nhân tạo cá hồng Mỹ” đã đạt được những kết quả tốt, đồng thời tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện quy trình và tiến tới chuyển giao Công nghệ tại các địa phương.
Quy trình sản xuất giống cá Hồng Mỹ
Nuôi vỗ cá bố mẹ
Cá bố mẹ được nuôi vỗ trong lồng lưới. Trong điều kiện nuôi vỗ, cá hồng Mỹ ở tuổi thứ 4 có thể thành thục tuyến sinh dục.
Cho đẻ
Cho cá đẻ trong bể xi măng có thể tích 40m3, cá thường đẻ vào 19-20 giờ hàng ngày. Trứng được thu ngay sau khi đẻ, tách và ấp ở nhiệt độ 28- 300C, độ mặn 30-32‰. Trứng được ấp trong bể 0,5m3. Sau 18-20 giờ, trứng sẽ nở thành cá bột.
Điều kiện ương tại vùng nước lợ
Độ mặn khi cá nở là 30-32‰, do đó khi chuyển vào vùng nước lợ ương phải tiến hành hạ độ mặn, sau 2 ngày hạ dần độ mặn xuống cho tới khi ngang bằng với độ mặn tại khu vực ương nuôi: 15-20‰; pH 7,5-8,2, oxy hoà tan > 5.5 mg/l; NH4+ < 0,1 mg/l.
Thức ăn cho ấu trùng cá
Ở ngày tuổi thứ 3, cá bắt đầu mở miệng và ăn luân trùng có cỡ nhỏ, naupli của Copepoda; tiếp đến là loại cỡ lớn như Copepoda trưởng thành, Artemia ấu trùng và trưởng thành sau đó có thể luyện chúng ăn thức ăn hỗn hợp.
Giải quyết thức ăn tươi sống cho ấu trùng cá: nuôi tảo thuần trên túi nylon; nuôi luân trùng thâm canh trên bể nhỏ; gây nuôi sinh vật phù du trên ao đất vùng nước lợ.
Kết quả
Tỷ lệ cá giống tính từ khi nở cỡ 3-5cm đạt 15-20%, thời gian ương từ 50-60 ngày. Năm 2003 chúng tôi đã sản xuất và cung cấp cho người nuôi trên 30 vạn cá giống. Nhằm đáp ứng hơn nữa nhu cầu giống cho người nuôi, năm 2004, chúng tôi đang tiến hành thử nghiệm ương trên ao đất với mong muốn hạ giá thành hơn nữa để phục vụ người nuôi ngày một tốt hơn.
Vacvina, 02/10/2010
Phòng trị bệnh cho cá mú, cá giò, cá hồng mỹ
Bệnh do virus
Đây là bệnh nguy hiểm nhất thường xảy ra đối với cá sông(cá mú) giai đoạn ấu trùng và chuyển biến thái.
Triệu chứng: cá bơi mất phương hướng, nổi lập lờ trên mặt và thường chết hàng loạt. Các cơ quan bị nhiễm thường gồm não bộ và mắt. Đối với bệnh do virus cá thường có tỷ lệ chết cao và nhanh.
Phòng trị: chưa có biện pháp chữa bệnh, chủ yếu là phòng bệnh.
Một số biện pháp phòng bệnh cần áp dụng là: kiểm tra virus cho đàn cá bố mẹ và cá giống để có giống sạch bệnh, hạn chế lây truyền theo chiều dọc. Đảm bảo môi trường nuôi trong sạch, tiệt trùng các bể và các dụng cụ khác trước khi sử dụng để hạn chế lây truyền theo chiều ngang. Cung cấp đầy đủ chất dinh dưỡng cho cá, tránh làm sốc cá khi vận chuyển và thả cá giống, nuôi với mật độ vừa phải, tránh thả cá quá dày tăng khả năng kháng bệnh cho cá.
Bệnh do vi khuẩn
Dấu hiệu thường gặp là: lở loét, vây bị rữa, xuất huyết dưới da, có khối u, màu sắc đậm, mắt đục, mắt lồi có xuất huyết hoặc không. Bệnh này thường xảy ra với cá Mú và có Hồng Mỹ, cá thường chết ở đáy.
Nguyên nhân: Do vi khuẩn tồn tại trong nước biển gây nên, khi nào điều kiện môi trường xấu làm suy giảm sức đề kháng, vi khuẩn sẽ xâm nhập vào cá và gây thành bệnh.
Phòng bệnh: Duy trì mật độ cá thích hợp trong hệ thống ương nuôi, thức ăn nuôi hoặc nhân tạo phải được bảo quản tốt. Định kỳ tắm nước ngọt khi có nguy cơ nhiễm bệnh cao.
Trị bệnh: Dùng kháng sinh Oxytetracyclin tắm với liều lượng 50-100gr/m3 nước trong 1 giờ. Dùng liên tục trong 7-10 ngày.
Bệnh do ký sinh trùng
Thường gặp ở cá giống của cả 3 loài. Các cơ quan bị nhiễm thường là mang và các bề mặt thân.
Biểu hiện: Mang có màu nhạt, cá yếu trong thời kỳ nhiễm bệnh. Ký sinh trùng sẽ phá huỷ các mô của ký chủ, tạo dịch nhầy bám trên mang gây khó khăn cho hô hấp của cá. Khi bị nặng cá có thể chết hàng loạt.
Nguyên nhân: Do loại vi trùng bánh xe Trichodia sp sống ký sinh trong mang và da cá.
Điều trị: Tắm cá với dung dịch Formalin 70-150ppm trong 30-60 phút, sục khí mạnh hoặc tắm cá với dung dịch formalin 25ppm trong 1-2 ngày kèm sục khí mạnh.
NTNN, 8/2006