Kỹ thuật nuôi cá đối, cá đối mục

Nuôi cá đối 

1. Giới thiệu

Cá đối là loài rộng muối và phân bố rộng rãi ở các thuỷ vực nước ven biển vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới trên toàn thế giới, nó được biết đến như là một loài  cá  đại  chúng bởi vì chất lượng thịt và giá cả phải chăng so với các loài cá đắt tiền khác như cá mú, cá chẽm. Cá đối còn được coi là đối tượng nuôi có giá trị kinh tế ở các nước thuộc vùng Địa trung hải, Isael, Tuynisia, HongKong, Đài loan…do lớn nhanh và dễ nuôi ghép với các loài khác. Ngoài ra trứng cá đối còn là một món ăn quý được ưa thích của người Trung quốc, v ì vậy chúng đã được xem như đối tượng nghiên cứu trên nhiều lãnh vực từ thập niên 60 trở  lại đây. Tuy nhiên ở Việt nam đối tượng này rất it được chú ý đến như là một đối tượng nuôi, chúng chủ yếu được khai thác tự nhiên ở các vùng biển và nước lợ do đó có rất it nghiên cứu về đối tượng này.   

2. Sơ lược về đặc điểm sinh học của cá đối

Họ cá đối là một họ rất lớn trong đó có khoảng 13 loài được coi là đối tượng trong nuôi trồng thuỷ sản, tuy nhiên được chú ý nhất là loài Mugil cephalus bởi vì chúng có phân bố rất rộng, lớn nhanh và kích thước lớn khi đạt đến trưởng thành (Pillay, 1990).  

Theo Nguyễn Khắc Hường (1993), nước ta có 13 loài cá đối, trong đó ở Nam bộ có ít nhất 5 loài: M. cephalusM dussumieri (tên mới Liza subviridsis), Liza macrolepisLiza vaigiensis và Valamugil cunnesius.  Theo báo cáo của Bộ Thuỷ sản (1996) ở vùng cửa sông nước ta thường gặp từ 5-7 loài có giá trị.  

Cá đối là loài rộng muối chúng có thể sống và sinh trưởng tốt trong môi trường nước lợ, lợ mặn và nước mặn. Ở các vùng cận nhiệt đới, trong một nghiên cứu (Cardona, 2000) cho thấy cá giống nhỏ (<200mm) và cá giống (201-300mm chiều dài) thường tập trung quanh năm trong môi trường nước ngọt hoặc lợ nhạt. Đối với cá trưởng thành, môi trường sống của chúng thay đổi tuỳ theo mùa và nó liên quan tới quá trình di cư sinh sản, khi chúng bắt đầu sinh sản thì thường có khuynh hướng tránh các dòng nước ngọt. Tuy nhiên nghiên cứu này cũng cho thấy có sự khác biệt đối với các quần thể cá đối ở vùng nhiệt đới, đặc biệt là vùng Ấn độ -Thái bình dương. Cá sinh trưởng kém ở vùng nước ngọt và độ mặn thấp trong khi sinh trưởng tốt ở các vùng nước lợ, lợ mặn và nước mặn (có thể lên tới trên 70ppt) và chúng chịu sốc độ mặn kém nhất là trong điều kiện nhiệt độ thấp.  Hotos và ctv (1998) trong một thí nghiệm gây sốc độ mặn đối với cá giống (2.6cm chiều dài thân) từ nồng độ muối ban đầu 20ppt lên các độ mặn 35-80ppt (5ppt cho mỗi khoảng cách) cho thấy  cá bắt đầu bị chết ở nồng độ muối trên 45ppt và chết 100% ở 70ppt.

Cá đối có thể chịu đựng được nhiệt độ dưới 10oC, có rất ít tài liệu đề cập đến ảnh hưởng của nhiệt độ lên sinh trưởng và sinh sản của cá đối. Đa số các nghiên cứu trên cá đối được bố trí ở nhiệt độ 20-30oC.

Cá đối ở giai đoạn ấu trùng tới cá giống là loài ăn động vật phù du, khi trưởng thành chúng chuyển phổ thức ăn sang thực vật phiêu sinh, mùn bã hữa cơ lơ lửng và các thảm thực vật đáy (lab-lab: cộng sinh giữa tảo đáy và vi sinh vật). Trong điều kiện nuôi ngoài việc bón phân kích thích sự phát triển của tảo làm thức ăn tự nhiên cho cá đối, chúng còn có thể được cho ăn bổ sung với cám gạo, bánh dầu đậu phộng, đậu nành hoặc bột đậu phộng (Pillay, 1990).

Cá đối đất  M dussumieri khai thác ở vùng đầm nước lợ thuộc hệ thống sông Hồng đạt kích thước từ 135-195 cm (tương ứng 113-167g), Cá đối nhồng Liza soiny đạt 280-370cm, đối mục đạt 295-360 cm (Vũ Trung Tạng, 1994). Khu vực đầm phá Tam giang (Huế) cá đối mục có kích thước đạt 501 cm (1.120 g). Cá đối đất thành thục khi đạt 2 năm tuổi, ở đầm nước lợ gặp cá có tuyến sinh dục đến giai đoạn IV, cá đối đẻ ngay trong đầm. Sức sinh sản tuyệt đối đạt 7500-27.000 trứng. Riêng cá đối mục chỉ gặp cá có tuyến sinh dục ở giai đoạn thấp (dưới giai đoạn III) (Võ Văn Phú, 1995).  Cá đối, Mugil cephalus lớn nhanh so với các loài cá đối khác trong họ cá đối. Cá cái thường lớn nhanh hơn cá đực và cũng đạt được kích thước lớn hơn. Trong điều kiện nuôi,  sau một năm chúng có thể đạt kích thước 300g, 1.2kg sau hai năm và trên 2kg nếu nuôi sau 3 năm (Pillay, 1990).  

Cá đối có tập tính sống quần đàn, và tập tính này thể hiện mạnh nhất vào mùa sinh sản, cá thường tập trung thành từng bầy lớn di cư ra các vùng nước sâu ngoài biển để sinh sản. Cá đối là loài sinh sản theo mùa và mùa sinh sản của cá kéo dài từ tháng 10 tới tháng 4 năm sau, tuy nhiên ở các thủy vực nước vùng cận nhiệt đới mùa sinh sản có thể ngắn hơn (tới tháng 1-tháng 2 năm sau). Cá đối đạt tới thành thục sinh sản vào 3 năm tuổi với chiều dài thân trung bình khoảng 33cm ở cá đực và 35 cm ở cá cái. Sức sinh sản của cá thông thường tỷ lệ thuận với trọng lượng và chiều dài thân cá, cá càng lớn sức sinh sản càng cao. Con cái có trọng lượng khoảng1.5kg có sức sinh sản từ 1-1.5 triệu trứng (Pillay, 1990). Trứng cá đối có kích thước đường kính từ 0.9-1mm. Trứng đã thụ tinh nở ra ấu trùng trong khoảng 16-30h ở nhiệt độ 20-24oC. Ấu trùng cá đối rất nhỏ (2.5-3.5mm) và thường có khuynh hướng tránh ánh sáng mạnh. Trứng cá và ấu trùng mới nở thường trôi dạt ngoài khơi vào một thời gian nào đó trong năm (các tháng thuộc mùa sinh sản) và cá bột  xuất hiện theo mùa ở vùng cửa sông nơi được coi như các bãi ương cho cá giống.   

3. Nuôi cá đối

Thông thường trong thực tiễn người ta không nuôi đơn cá đối mà chúng được nuôi ghép với các đối tượng khác như cá măng, cá chẻm và năng suất có thể đạt bình quân 400 kg/ha ở Ấn độ. Ở Hong kong, Đài loan và Isael, cá đối được nuôi ghép với cá chép Trung quốc và cá đối là đối tượng chính. Mật độ thả nuôi lên tới 10,000-15,000/ha (cá có kích thước 7.5cm) với 1000-2000 cá chép Trung quốc. Khi đã lớn. hơn (12cm) cá đối được thu tỉa còn lại khoảng 3500con/ha. Thức ăn dược cung cấp gồm: cám gạo (2 tháng đầu) và sau đó là bánh dầu đậu phộng, cám gạo. Ngoài ra ao cũng được bón phân hữu cơ để tăng cường nguồn thức ăn tự nhiên. Năng suất thu được từ 2500-3500kg/ha.   

Ở Đài Loan cá đối được nuôi ghép với cá măng (2000con/ha), cá chép trung quốc (3250 con/ha) và cá chép (500 con/ha) ở mật độ 3000con/ha. Cá đạt 300g sau 1 năm và 1.2 sau 2 năm. Ngoài ra cá đối còn được nuôi ghép với cá rô phi, cá chép và cá mè với mật độ tổng cộng khoảng 12,300 con/ha. Sau 4 tháng nuôi cá đối đạt 100g. Trong nuôi thịt cá cái cá đối thường lớn nhanh hơn cá đực và trứng của chúng được dùng trong chế biến thức ăn đặc sản nên steroid (17a-Methyltestosterone và Ethynyloestradiol) cũng đã được sử dụng thông qua đường thức ăn để kiểm soát sự biệt hoá giới tính của cá đối (Chang và ctv, 1999).

Nguyễn Thị Hồng Vân, Trần Thị Thanh Hiền – Bộ môn Sinh học Nghề cá – Khoa Thuỷ sản ĐH Cần Thơ

Hiệu quả từ mô hình nuôi cá đối mục 

Năm 2013, Trung tâm Khuyến nông- Khuyến ngư (KNKN) đã triển khai thực hiện mô hình “Nuôi cá đối mục trong ao nuôi tôm suy thoái” tại khu thực nghiệm nuôi trồng thủy sản thuộc Khu sinh thái Cồn Chim- đầm Thị Nại (thuộc địa bàn thôn Huỳnh Giản Nam, xã Phước Hòa, huyện Tuy Phước). Mô hình có quy mô mặt nước 5.000 m2 và 1 hộ nuôi, số lượng cá giống được thả nuôi 5.000 con. Ngoài ra, Trung tâm cũng phối hợp với Trạm Khuyến nông Tuy Phước triển khai 1 điểm mô hình tương tự tại xã Phước Sơn.

Chủ hộ tham gia thực hiện mô hình được Nhà nước hỗ trợ 100% kinh phí mua cá giống, 50% kinh phí vật tư thức ăn. Kết quả sau 7 tháng nuôi, tỉ lệ cá sống đạt 90%, tăng trọng nhanh, đạt trọng lượng bình quân 0,4 – 0,5 kg/con. Với sản lượng cá tại mỗi mô hình ước đạt 1.800 kg, với giá bán thời điểm hiện nay là 80.000 đồng/kg, tổng thu 144 triệu đồng, sau khi trừ chi phí người nuôi lãi ròng hơn 55 triệu đồng.

Cá đối mục là đối tượng nuôi mới, có giá trị kinh tế cao, dễ nuôi, thích nghi tốt với các biến động của môi trường, đồng thời có khả năng làm sạch môi trường, phù hợp với các ao nuôi tôm suy thoái không thể nuôi tôm. Năm 2012, Trung tâm KNKN đã nuôi thử nghiệm tại Phù Cát, bước đầu đạt kết quả khá tốt. Vừa qua, Trung tâm KNKN cũng đã triển khai 2 điểm mô hình tại xã Phước Thuận với quy mô 5.000 m2/điểm, cá đang sinh trưởng và phát triển tốt, tỉ lệ cá nuôi sống đạt hơn 90%, cá phát triển tăng trọng nhanh và hiện nay chưa thấy phát sinh dịch bệnh.

Việc thực hiện thành công mô hình “Nuôi cá đối mục trong ao nuôi tôm suy thoái” mở ra hướng phát triển đối tượng nuôi mới có hiệu quả kinh tế cao trong nuôi trồng thủy sản, góp phần cải thiện môi trường ao nuôi tôm bị suy thoái; đồng thời có thể xem như có thêm đối tượng nuôi mới bổ sung cho mô hình nuôi tổng hợp tôm-cua-cá, góp phần tăng hiệu quả kinh tế, đảm bảo tính bền vững trong nuôi trồng thủy sản ở các vùng nuôi tại Bình Định.

Tuy nhiên, theo bà con nông dân, vấn đề bà con băn khoăn nhất là hiện tại nguồn cá giống phải mua từ các tỉnh phía Bắc, không chủ động, thời gian nuôi kéo dài, vào mùa mưa (tháng 9-12 hàng năm) môi trường nước không ổn định, cá thường mắc bệnh lở loét gây thiệt hại, cần có biện pháp khắc phục có hiệu quả. Mặt khác, đây là đối tượng nuôi mới, đầu ra chưa ổn định, nên bà con vẫn còn e ngại khi phát triển nuôi cá đối mục.

PHAN THANH SƠN  – Báo Bình Định, 06/10/2013

Kỹ thuật nuôi cá đối mục thương phẩm trong ao đất 

Có hai hình thức nuôi cá đối mục (Mugil cephalus Linnaeus, 1758) trong ao đất, đó là: Nuôi đơn: cá đối mục được nuôi bán thâm canh và thâm canh trong các ao nuôi chuyên canh; Nuôi ghép: cá đối mục thường được nuôi ghép với các loài cá khác như cá chép thường, cá trắm cỏ, cá chép bạc, cá rô phi và cá măng biển; có thể nuôi được trong vùng nước lợ, nước ngọt và nước mặn.

1. Chọn địa điểm ao nuôi

Nguồn nước dùng để nuôi cá đối mục thương phẩm phải sạch không bị ô nhiễm, xa khu dân cư, xa nguồn nước thải công nghiệp, đảm bảo các yếu tố môi trường ổn định. Đồng thời, gần đường giao thông, gần nguồn cá giống (cá tự nhiên và nhân tạo), gần nguồn điện,…

Chọn vị trí xây dựng ao nuôi ở vùng trung triều, biên độ thủy triều khoảng 2-3 m để tiện cho việc cải tạo ao, tháo và lấy nước trong quá trình nuôi, các yếu tố môi trường phải đảm bảo các chỉ tiêu sau: Độ mặn 0-30 ‰, nhiệt độ 26- 32 độ C, hàm lượng oxy 3-5 mg/l, pH 7,5-8,5, NH3 < 1mg/l, H2S< 0,3mg/l, Chất đáy ao là cát bùn, bùn cát, bùn pha sét.

2. Thiết kế, xây dựng và chuẩn bị ao nuôi

Ao nuôi có diện tích 1.000 – 20.000 m2, tốt nhất là từ 2.000 – 5.000m2; Độ sâu mực nước từ 1,2 –1,5 m, có cống cấp và thoát nước riêng, đáy cát hoặc cát bùn hơi dốc về phía cống thoát.

Cải tạo ao tốt, triệt để nhằm diệt trừ địch hại, mầm bệnh và các sinh vật cạnh tranh gây nguy hiểm cho cá giống. Các biện pháp cải tạo ao, chuẩn bị ao nuôi tiến hành như sau:

Ao nuôi phải được tháo cạn nước, vét bùn, rửa sạch đáy ao, rải vôi với liều lượng 10-20 kg/100 m2 với những ao có pH ≥ 6,5. Nếu ao có pH ≤ 6, phải tăng liều lượng bón vôi cho ao khoảng 30-50 kg/100 m2, kết hợp phơi đáy ao 3-5 ngày.

Trước khi thả giống, ao nuôi phải được cày bừa kỹ và bón lót bằng phân bò ủ hoai với liều lượng 2,5 – 5 tấn/ha. Sau đó lấy nước vào ao khoảng 25-30 cm và giữ nguyên mực nước đó trong vòng 7-10 ngày để sinh vật phù du phát triển tạo nguồn thức ăn tự nhiên cho cá. Mực nước trong ao sau đó được nâng 1,5-1,8 m và thả cá giống. Độ trong của ao nuôi được duy trì ở mức độ cần thiết (khoảng 20-30cm) bằng cách hàng tuần bón bổ sung thêm phân gà hoặc phân hóa học.

3. Kỹ thuật chọn và thả cá

Cá giống thả vào ao nuôi cá thương phẩm phải đồng đều về kích thước, chiều dài toàn thân đạt 6-8 cm. Cá không bị bệnh, không xây sát, bơi lội hoạt bát, có màu trắng sáng.

Thả cá giống: Tùy vào việc nuôi đơn hay nuôi ghép mà hình thức thả giống khác nhau.

– Nuôi đơn:

Sau khi cải tạo ao, lấy nước vào có thể thả cá giống nuôi ngay với mật độ 2-3 con/m2, cá giống có trọng lượng 10-15gam/con, mật độ thả từ 6.500-7.500 con/ha.

– Nuôi ghép:

Nuôi ghép cá đối mục với cá rô phi và cá chép trong các ao nuôi bán thâm canh, cá đối giống được thả với mật độ 3.000- 4.000 con/ha, cá chép thường có trọng lượng 100 g/con được thả với mật độ 2000-3000 con/ha và cá rô phi giống có trọng lượng 10-15 gam/con được thả với mật độ 60.000-75.000 con/ha. Mục đích của việc nuôi ghép là để cá đối mục ăn bớt tảo và thức ăn thừa, hạn chế ô nhiễm môi trường, giảm chi phí…

4. Chăm sóc và quản lý

a. Thức ăn và cách cho ăn

Trong thời gian nuôi kéo dài khoảng 7-8 tháng, nếu cá đối được nuôi chuyên canh, với chế độ bón phân hợp lý có thể cung cấp đủ lượng thức ăn tự nhiên cần thiết. Trong nhiều trường hợp, cá đối có thể ăn trực tiếp thức ăn là phân gà và vẫn sinh trưởng tốt. Kiểm tra sự tăng trưởng của cá bằng cách lấy mẫu để đo chiều dài và cân trọng lượng cá, nếu tốc độ tăng trưởng không như mong đợi, có thể bổ sung thêm cám gạo hoặc cám lúa mì hoặc thức ăn tổng hợp với khối lượng khoảng 0,5-1% khối lượng cá trong ao nuôi. Hàng ngày kiểm tra môi trường ao nuôi, hoạt động bắt mồi của cá, và 7-10 ngày kiểm tra tốc độ tăng trưởng để điều chỉnh lượng thức ăn.

Sử dụng các loại máy đảo nước, máy sục khí để duy trì hàm lượng oxy hòa tan tối ưu, đặc biệt là sau khi mặt trời lặn. Trong thời gian đầu của quá trình nuôi chỉ chạy máy quạt nước vào buổi tối, khi cá lớn tùy theo tổng khối lượng cá trong ao mà điều chỉnh thời gian chạy máy quạt nước cho phù hợp.

Mực nước trong ao luôn duy trì trên 1,2 m, lượng nước thay đối với ao nuôi đơn từ 20–30%/ 1 lần thay nước, thời gian thay nước tùy theo mức độ ô nhiễm trong ao.

Khi cá đối được nuôi ghép với cá rô phi, cá chép thường và cá chép bạc. Trong trường hợp này, khi cho cá ăn người ta thường nhắm vào mục tiêu các loài cá nuôi khác và thức ăn của cá đối chỉ là các mảnh vụn của thức ăn vỡ ra, thức ăn thừa và thức ăn tự nhiên.

Sau 7-8 tháng nuôi ở khu vực cận nhiệt đới, cá đối mục có thể đạt trọng lượng 0,75-1 kg/con, nếu nuôi hai năm, cá đối mục có thể đạt 1,5-1,75 kg/con. 

Trong nuôi chuyên canh, cá đối ăn thức ăn tự nhiên là chủ yếu và có bổ sung thêm thức ăn là các sản phẩm của các nhà máy xay và các nhà máy chế biến ngũ cốc. Trong nuôi kết hợp, thức ăn viên được sản xuất trong các nhà máy chuyên sản xuất thức ăn cá hoặc trong nhiều trường hợp các nhà máy chế biến thức ăn cho gia súc, gia cầm có một quy trình công nghệ sản xuất thức ăn cá. Thức ăn được chế biến dựa vào nhu cầu dinh dưỡng của các đối tượng nuôi chủ yếu (ví dụ như cá rô phi và cá chép thường).

Thức ăn hiện nay dùng để nuôi cá đối mục là vấn đề không lớn, các nguồn nguyên liệu như cám gạo, bột ngũ cốc, bột cá, bột đậu lành… đều là nguồn thức ăn rất tốt dùng cho nuôi cá đối mục.

b. Quản lý các yếu tố môi trường

Trong quá trình nuôi, thường xuyên theo dõi màu nước, xác định các yếu tố môi trường, theo dõi các yếu tố môi trường và tốc độ tăng trưởng của cá để điều chỉnh thức ăn cho phù hợp. Theo dõi tình trạng sức khỏe, các bệnh lý để có biện pháp xử lý kịp thời.

c. Thay nước

Đối với ao nuôi đơn thường xuyên thay nước và cấp nước thêm cho ao, lượng nước thay từ 20-30%.

Đối với ao nuôi ghép, do phải duy trì màu nước, thức ăn tự nhiên cho nên hạn chế thay nước, khoảng 3-5 ngày thay một lần.

Trong ao nuôi cá đối mục thương phẩm, mực nước phải đảm bảo độ sâu trên 1,2 m, độ trong 20-30 cm.

d. Phòng bệnh

Hệ thống ao nuôi, trang thiết bị và dụng cụ trong trại sản xuất giống phải được thường xuyên vệ sinh, xử lý mầm bệnh và tiệt trùng.

Giống cá trước khi thả nuôi cần phải xử lý bệnh, tắm trong dung dịch Oxytetracylin 5 ppm. Thời gian khoảng 30-60 phút.

Thức ăn cho cá nên sử dụng thức ăn tươi sống gây nuôi trong ao, thức ăn là bột cám gạo, cám ngũ cốc, thức ăn tổng hợp phải mới, còn niên hạn sử dụng không nên sử dụng các loại thức ăn đã cũ hoặc ẩm mốc.

Cho cá ăn đúng liều lượng và đảm bảo đủ chất dinh dưỡng cho cá. Định kỳ thay nước để cải thiện điều kiện môi trường ao nuôi.

Trung tâm khuyến ngư VN, 05/02/2013

Nuôi tôm sú xen cá đối mục 

Lợi ích kép từ nuôi cá đối mục

Ông Lộc Cá Pắn, thôn Thống Nhất, xã Hải Lạng (Tiên Yên) vừa kết thúc đợt thu hoạch cá đối mục theo mô hình nuôi ghép 2ha cá đối mục và tôm sú. Ở mô hình này, cá đối mục không phải đối tượng nuôi chính song cũng đã cho sản lượng và giá trị tương đối lớn. Cụ thể, mỗi ha cho thu gần 9 tấn cá thương phẩm, với giá bán tại ao hiện ở mức 60.000 đồng/kg ước đạt tổng giá trị trên 500 triệu đồng, trừ chi phí còn lãi 150 triệu đồng/ha.

Ông Lộc Cá Pắn cho biết: Thời gian tôi nuôi trong khoảng 1 năm, con cá đạt trọng lượng trên 0,5kg, như vậy là phát triển rất tốt, hơn dự đoán của đơn vị cung cấp giống, nhờ đó đạt hiệu quả kinh tế cao. Tuy nhiên, đây chưa phải là lợi ích cao nhất của con cá đối mục mà hơn nữa chính là đối tượng nuôi này có thể giúp cân bằng hệ sinh thái ao nuôi, hạn chế dịch bệnh cũng như nâng cao sản lượng và giá trị cho đối tượng nuôi chính là con tôm sú. Điều này rất quan trọng, nhất là đối với địa bàn nuôi tôm Hải Lạng từ 2 năm nay liên tục xảy ra dịch bệnh, làm tôm chết hàng loạt do môi trường nuôi không đảm bảo. Cũng chính vì vậy nên mới đây ông Lộc Cá Pắn đã nhân rộng mô hình nuôi ghép cá đối mục và tôm sú trên diện tích 7ha, nâng tổng diện tích nuôi cá đối mục lên 9ha, chiếm 100% diện tích nuôi trồng thuỷ sản của gia đình ông.

Có chung nhận định như ông Lộc Cá Pắn, ông Nguyễn Văn Khang, một hộ nuôi cá đối mục ở khu 2, phường Hà An (TX Quảng Yên) cho biết: Phải nói là hiếm có đối tượng nuôi nào lại có lợi ích kép như con cá đối mục, vừa có thể mang lại giá trị kinh tế vừa tác động rất tích cực đến môi trường nuôi nói chung.

Cá đối mục là đối tượng nuôi khá mới, chính thức được đưa vào thử nghiệm tại Quảng Ninh từ gần 2 năm nay, và đã đưa vào nuôi rộng rãi tại Tiên Yên, Móng Cái, Quảng Yên. Đến thời điểm này đạt trên 60ha, trong đó vùng Hải Lạng (Tiên Yên) chiếm đến 30ha. Hiện tất cả diện tích trên đều đã và đang cho kết quả tốt, mang lại lợi ích lớn cho người nuôi.  

Thực tế cá đối mục là loài cá có sức sống rất tốt, sinh trưởng và phát triển nhanh, trọng lượng lớn và chất lượng thịt ngon. Thông thường cá nuôi trong vòng 1,5 năm sẽ đạt tiêu chuẩn cá thương phẩm với trọng lượng 0,6-0,8kg, trọng lượng tối đa của loài này có thể lên đến 8kg. Đây là loại cá rộng muối, rộng nhiệt, có thể sống và sinh trưởng tốt ở cả môi trường nước lợ, mặn và nước ngọt. Trong đó cá có thể chịu đựng được nhiệt độ từ 3-35oC và độ mặn 0-40 phần nghìn, trong khi ở các đối tượng nuôi khác, ở nhiệt độ dưới 9oC; độ mặn xấp xỉ 40 phần nghìn là có thể chết. Như vậy có thể nói đây là ưu thế vượt trội của con cá đối mục. Đặc biệt thức ăn chủ yếu của loại cá đối mục là mùn bã hữu cơ, sinh vật sống trên mùn bã hữu cơ như các loài tảo sợi, tảo lam, tảo khuê, đa mao trùng, ấu trùng tôm và nhuyễn thể… những tác nhân gây ô nhiễm môi trường nuôi cũng như nuôi dưỡng mầm bệnh hại các loài thuỷ sản. Chính vì vậy, việc nuôi cá đối mục sẽ góp phần cân bằng sinh thái môi trường nuôi, tạo cho tất cả các đối tượng nuôi khác một môi trường sống thuận lợi, an toàn nhất để sinh trưởng và phát triển. Riêng đối với môi trường nuôi tôm đã bị suy thoái, việc nuôi ghép cá đối mục sẽ tránh được bệnh hội chứng gan tụy, dịch bệnh gây thiệt hại lớn trên con tôm. Thực tế kết quả trên hơn 30ha diện tích nuôi ghép cá đối mục và tôm tại xã Hải Lạng đã cho thấy môi trường nuôi ở đây đã được cải thiện hơn, giảm hẳn tình trạng tôm chết do hội chứng gan tụy. Đây có thể nói là tác dụng quan trọng của đối tượng nuôi này, nhất là trong tình hình hiện có quá nhiều vùng nuôi trồng thuỷ sản đang rơi vào tình trạng bị ô nhiễm như vùng nuôi tôm Hải Lạng. Thực tế hiện toàn tỉnh đang có gần 10.000ha  ao đầm nuôi tôm với hình thức nuôi chủ yếu là quảng canh cải tiến, bán thâm canh hoặc thâm canh. Điều đáng nói cơ sở hạ tầng cho các vùng nuôi này còn nhiều bất cập như hệ thống cấp thoát nước, hệ thống ao chứa và xử lý nước, hệ thống ao nuôi chưa được đầu tư hoặc đầu tư thiếu đồng bộ dẫn đến môi trường nuôi bị suy thoái nghiêm trọng, dịch bệnh thường xuyên xảy ra gây thiệt hại cho các cá nhân, đơn vị nuôi tôm.

Hiện Trung tâm Khoa học và Sản xuất giống thuỷ sản Quảng Ninh đã làm chủ hoàn toàn được các quy trình gây giống và công nghệ nuôi thương phẩm cá đối mục; đủ khả năng cung cấp giống cá đối mục với số lượng lớn và chất lượng đảm bảo. Chỉ tính từ đầu năm đến nay đơn vị này đã xuất trên 800.000 giống cá đối mục… Đây là cơ sở, điều kiện để nhân rộng và phát triển một cách bền vững, mạnh mẽ mô hình nuôi cá đối mục trên địa bàn tỉnh.

Việt Hoa – Báo Quảng Ninh, 22/08/2014

Mô hình nuôi tôm sú xen cá đối mục tại Nghệ An

Cá đối mục là loài cá có tính chất ăn tạp của chuỗi thức ăn ngắn có dinh dưỡng cấp thấp. Trong ruột cá lớn thường thấy các loại tảo lam, tảo lục, tảo khuê, các mảnh vụn xác thực vật, giáp xác chân mái chèo, giun nhiều tơ, ấu trùng muỗi, tôm moi và ấu trùng giai đoạn đầu của các loại động vật 2 mảnh vỏ, cát bùn…

Nuôi cá đối mục để cải thiện chất lượng môi trường ao nuôi tôm: cá đối mục sử dụng các loại tảo có trong ao làm thức ăn hạn chế sự phát triển mạnh của tảo, sử dụng thức ăn thừa, chất lắng đọng hay xác chết của một số động thực vật khi tảo tàn hay trong trường hợp sử dụng thuốc, hóa chất xử lý môi trường..

1. Chuẩn bị ao nuôi

1.1. Địa điểm

– Diện tích ao từ 3.000 – 5.000m2

– Ao có cống cấp thoát riêng biệt, bờ đê chắc chắn, không bị rò rỉ.

– Ao có độ sâu 1-1,5m (lúc cạn nhất mức nước phải đạt ít nhất 0,5-0,6m).

– Về địa điểm: Vùng nuôi thường ở vùng trung triều (tiếp vùng cao triều) để dễ tháo cạn ao, đầm để phơi đáy ao khi cải tạo. Vùng hạ triều rất khó khăn cho việc thay nước, quản lý chất lượng nước ao nuôi.

– Đất xây dựng ao thường phải là đất thịt, thịt pha cát, ít mùn bã hữu cơ.

– Nguồn nước cung cấp cho ao nuôi phải chủ dộng, không bị ô nhiễm công nghiệp, nông nghiệp và sinh hoạt, các yếu tố cơ bản phải đảm bảo:

+ pH: 7,5-8,5

+ S%o: 15-35%o

+ NH3: <0,1 mg/l

+ H2S: <0,03 mg/l

– Thuận lợi về giao thông, thuận tiện cho việc dịch vụ giống, thức ăn, tiêu thụ sản phẩm khi thu hoạch.

1.2. Cải tạo ao mới xây dựng

Sau khi xây dựng xong ao, cho nước vào ao ngâm 2-3 ngày, sau đó xả hết để rửa ao. Tốt nhất nên thau rửa 2-3 lần như trên. Bón vôi để cải tạo đáy. Lượng vôi tuỳ thuộc vào độ pH của đất:

– Nếu pH 6-7: dùng 300-600 kg/ha (10-20 kg/sào)

– Nếu pH 4,5-6: dùng 600-1.000 kg/ha (20-35 kg/sào)

Vôi thường dùng để cải tạo: Vôi bột ( CaCO3), vôi tôi Ca(OH)2 có tác dụng diệt khuẩn cao. Trong quá trình nuôi để điều chỉnh pH của nước nên dùng Donomite (vôi đen), bột đá.

Sau khi rải vôi phơi ao 7-10 ngày rồi đưa nước vào ao qua lưới lọc hoặc có thể cày lật úp mặt đáy sau khi rải vôi, để vôi có điều kiện tiếp xúc nhiều hơn với đất đáy ao tăng tác dụng khử chua đối với đáy ao.

1.3. Đối với ao cũ

– Sau khi thu hoạch tôm, xả hết nước cũ với những ao tháo được kiệt nước thì tiến hành nạo vét đưa hết chất lắng đọng hữu cơ ở đáy ra khỏi ao, tiến hành bón vôi, cày lật (nếu có điều kiện) phơi đáy 10-15 ngày cho phân huỷ hết chất hữu cơ, chất độc và những sinh vật gây bệnh cho tôm.

– Với ao không tháo kiệt được nước phơi đáy thì dùng phương pháp cải tạo ướt. Dùng bơm sục đáy ao và tháo tẩy rửa chất thải sau đó bón vôi. Sau khi cải tạo ao đưa nước vào để gây màu.

Tất cả các ao lắng, ao xử lý, ao ương đều cải tạo đúng như ao nuôi. Đồng thời lưu ý với ao có độ phèn cao thì không phơi nắng khi cải tạo để tránh xì phèn.

1.4. Diệt tạp

Sau khi cải tạo đáy ao, lấy nước vào ao qua lưới lọc. Với những ao không lấy nước từ ao lắng mà lấy từ ngoài vào để 2-3 ngày cho các loại trứng theo nước vào ao nở thành ấu trùng hoặc địch hại của tôm

– Diệt tạp bằng Saponin: Lượng dùng: 15-20 kg/1000m3 tác dụng diệt tạp, diệt các loại ký sinh hay gây bệnh, làm sạch môi trường trong nước, chỉ thả tôm sau khi sử dụng Saponin 4 ngày (Saponin có thể sử dụng cho ao nuôi đang có tôm nhưng tôm phải lớn hơn 2 g/con).

– Diệt tạp bằng Thuốc tím (KMnO4):

Liều dùng 4-5 g/m3 nước. Cách xử lý: hoà tan 1 g thuốc tím với 10 lít nước tạt đều trên mặt ao, quạt nước kết hợp với phơi nắng sau 24 giờ cho bay hết thuốc tím là có thể sử dụng được. Thuốc có tác dụng khử trùng nguồn nước cực nhanh, tiêu diệt nấm, ký sinh trùng.

– Diệt tạp bằng Formalin: 10ppm (1 lít Formalin /100m3 nước) quạt nước kết hợp với phơi nắng, khoảng 3 ngày có thể sử dụng được.

– Diệt tạp bằng Chlorin (CaCOCl):

10-15g/100 m3 nước, quạt nước kết hợp với phơi nắng tối thiểu 3 ngày mới sử dụng được.

Việc dùng hoá chất để xử lý ao nuôi dễ gây thoái hoá đất, làm nghèo dinh dưỡng môi trường đáy ao và môi trường nước, có thể nên sử dụng hoá chất ở ao chứa nước. Tuy nhiên xử lý bằng hoá chất có thể tiêu diệt được mầm bệnh, các loại địch hại của tôm như: cua, cá, còng, ốc …

1.5. Bón phân gây màu

– Ao nuôi cần được bón phân gây màu nước để động, thực vật phù du phát triển là nguồn thức ăn tự nhiên của tôm, đồng thời hạn chế sự phát triển của các loại tảo đáy, tạo oxy, hấp thụ các chất độc sinh ra từ thức ăn dư thừa, chất thải của tôm trong quá trình nuôi.

– Các loại phân dùng để gây màu:

+ Phân hữu cơ gồm: phân chuồng, gà, trâu, bò, khi bón phân phải được ủ mục.

+ Phân vô cơ: NPK 0,2 kg/100m2 + urê 0,2 kg/100m2. Nên bón phân vào 9-10 giờ sáng. Lượng phân bón trên có thể chia ra 2-3 ngày bón.

* Sau khi bón phân 2-3 ngày, sinh vật phù du phát triển,độ trong đạt 40-50 cm nước có màu xanh nõn chuối hoặc vàng nâu là tốt nhất cho việc thả tôm.

3. Chọn và thả giống

3.1 Chọn giống:

–  Yêu cầu tôm giống:

– Con giống thả nuôi phải đảm bảo chất lượng, có nguồn gốc, xuất xứ rõ ràng được mua từ các cơ sở cung cấp giống đã được các cơ quan có thẩm quyền chứng nhận.

* Kiểm tra cảm quan:

– Cấu tạo ngoài hoàn chỉnh, không dị hình; các phần phụ nguyên vẹn, râu thẳng, đuôi xòe; thân có màu sáng, vỏ bóng mượt; bơi lội sát thành bể với tốc độ chậm và phản ứng nhanh khi có tác động đột ngột về tiếng động hoặc ánh sáng.

– Tôm có phản ứng nhạy với kích thích bên ngoài, bơi thẳng và có khuynh hướng bơi ngược dòng.

– Thức ăn trong ruột đầy liên tục.

* Kiểm tra sức khỏe tôm giống bằng cách gây sốc:

+ Sốc độ mặn: Lấy 40-50 con tôm giống cho vào cốc thủy tinh chứa 300 ml nước lấy từ bao vận chuyển giống. Hạ độ mặn đột ngột xuống còn 15‰ và theo dõi trong 30 phút, nếu tỷ lệ sống 100% là đạt yêu cầu.

+ Sốc bằng formol: Thả 40-50 con tôm giống vào chén, cốc thủy tinh đựng dung dịch formalin nồng độ 100 ppm và theo dõi trong 30 phút, nếu tỷ lệ sống 100% là đạt yêu cầu.

Xét nghiệm các mầm bệnh: Đốm trắng, đầu vàng, Taura, bệnh phát sáng…. Kết quả âm tính đối với các loại bệnh trên.

– Đối với cá giống

Cá to khoẻ, hoạt động nhanh, nhìn ngoài màu sắc sáng đầy đủ bộ phận, không bị xây xước.

Cá giống trước khi thả vao ao nuôi cần phải được tắm cho cá bằng nước ngọt hoặc tắm bằng dung dịch formol nồng độ 50 – 100 ppm, trong thời gian từ 15 – 25 phút có kết hợp sục khí.

– Thời vụ, mật độ thả:

Theo lịch thời vụ hàng năm của Sở Nông nghiệp & PTNT Nghệ An

– Tôm sú: mật độ là 15-20 con/m2

– Sau khi nuôi tôm được 1 tháng thì mới tiến hành thả cá đối mục với mật độ:  10 m2 /con, kích cở 4 – 6 cm/con (15-20g/con)

3.2. Phương pháp thả giống

– Thả tôm, cá vào lúc sáng sớm hoặc chiều mát, thả đầu hướg gió tạo điều kiện cho tôm cá phân bổ đều khắp ao.

– Cân bằng nhiệt độ nước giữa bao giống và nước ao nuôi bằng cách thả nổi bao giống trên mặt hồ vài phút. Sau đó, cho nước từ từ vào đầy bao.

4. Chăm sóc và quản lý

4.1.Chế độ cho ăn

Chỉ cho ăn đối tượng chính là tôm sú, cho ăn 2-4 lần/ngày tùy theo mật độ thả. Khẩu phần cho ăn từ 2-5% trọng lượng thân , sử dụng thức ăn viên theo giai đoạn phát triển của tôm

Một số điều cần lưu ý khi cho tôm ăn:

 – Rải đều thức ăn xung quanh bờ. Nếu ao có diện tích lớn thì nên dùng xuồng để rải thức ăn đều trong ao hồ.

– Vó kiểm tra thức ăn luôn giữ gìn vệ sinh sạch sẽ, thời gian hết thức ăn mang vó lên phơi nắng để diệt trùng.

– Điểm bố trí vó thức ăn không nên bố trí xung quanh vùng lấy nước vào và tháo nước ra, hoặc xung quanh máy đạp nước, nhằm kiểm tra chính xác lượng thức ăn còn dư trong vó.        

– Cho tôm ăn không theo đúng thời gian qui định trong ngày, nhằm kích thích sự tăng trưởng của tôm với nguyên tắc là một tuần có thể cho thức ăn không đúng theo thời gian quy định 01-02 lần.

– Vào những ngày khí hậu nóng bức, ban ngày tôm ăn mồi giảm, vậy nên giảm lượng thức ăn xuống.

Hằng ngày vào sáng sớm, kiểm tra sức khỏe tôm. Thường xuyên kiểm tra môi trường nước, tốc độ phát triển của tôm, cá để có những biện pháp tích cực kịp thời nhằm đem lại hiệu quả cao cho vụ nuôi.

4.2. Quản lý

– Kiểm tra lượng thức ăn hàng ngày từ đó điều chỉnh, tránh để dư thừa thức ăn làm hỏng chất lượng nước ao nuôi.

– Duy trì độ sâu của nước trong ao thường xuyên ở mức từ 1-1,5m. 

– Tăng số giờ quạt nước theo giai đoạn phát triển của tôm

– Thay nước mới theo định kỳ (1 tháng/lần), mỗi lần thay không quá 30%

– Quan sát, đo các chỉ tiêu hóa lý theo định kỳ.

– Kiểm tra dịch bệnh và tình trạng sức khỏe của tôm,cá theo định kỳ.

   – Bổ sung chế phẩm sinh học định kỳ và sau những trận mưa kéo dài

5. Phòng bệnh

 Phòng bệnh tức là áp dụng các biện pháp cần thiết để nâng cao sức đề kháng của tôm nuôi, tránh đưa mầm bệnh từ bên ngoài vào ao nuôi, ngăn ngừa mầm bệnh đã có ở tôm phát triển và lây lan. Phòng bệnh cho tôm gồm các biện pháp sau:

+ Cải tạo ao đầm nuôi đúng kỹ thuật

+ Chọn tôm giống có chất lượng, nuôi tôm ở mật độ phù hợp với điều kiện môi trường địa phương, trình độ kỹ thuật của các hộ nuôi, thả giống đúng kỹ thuật, đúng mùa vụ.

+ Cho tôm ăn với loại thức ăn có chất lượng hạn chế tối đa thức ăn tươi sống, cho ăn đúng lượng không thiếu, thừa.

+ Quản lý môi trường ao nuôi tốt, nước vùng nuôi phải sạch, không ảnh hưởng nước thải công nghiệp, nước có mầm bệnh, hạn chế sử dụng nước từ vùng sản xuất nông nghiệp đổ ra biển khi thời gian phun thuốc trừ sâu bệnh hại lúa.

Đối với ao chưa nhiễm bệnh, mà bên ngoài vùng ao đó đã có dấu hiệu nhiễm bệnh thì tuyệt đối không được cấp nước từ ngoài vào.

5.1. Các dấu hiệu bên ngoài khi tôm bị bệnh

* Dấu hiệu về ban ngày:

+ Sáng sớm nằm rải rác ven bờ, chậm chạp dễ bắt

+ Kiểm tra ruột tôm thấy không có thức ăn

+ Tôm bơi lừ lừ đuôi không xoè rộng

+ Màu sắc của tôm mất đi vẻ tươi sáng, mô cơ trở lên trắng đục

* Dấu hiệu về ban đêm:

+ Tối chiếu đèn quanh ao thấy tôm có triệu chứng bệnh sẽ bơi lơ lửng quanh bờ, khi rọi đèn vào mắt tôm thì mắt đỏ không bình thường mà có màu trắng nhợt, tôm bơi khỏi vùng chiếu sáng chậm chạp.

5.2. Một số bệnh thường gặp trên tôm nuôi và cách trị bệnh

a. Bệnh do vi rút gây ra: 

* Bệnh thân đỏ đốm trắng :

Bệnh thường xảy ra ở giai đoạn tôm từ 40 – 50 ngày tuổi.

– Dấu hiệu bệnh lý: Tôm bỏ ăn, lờ đờ, trên thân xuất hiện nhiều đốm trắng nhỏ đường kính 1mm nằm dưới lớp ki tin phần đầu ngực và các đốt bụng. Màu sắc của tôm khi mắc bệnh dần biến từ màu hồng sang màu đỏ nâu, đuôi và chân bơi tôm bị cụt, mang đổi màu.

– Tác hại: Các vi rút xâm nhập vào các cơ quan và phá huỷ mang, gan, tuỵ, thần kinh, dạ dày làm tôm chết hàng loạt sau 5 – 7 ngày.

– Phương pháp xử lý tôm bị chết trên không có biện pháp xử lý bệnh nếu tôm đạt kích cỡ có thể bán được nên tranh thủ thu hoạch nhanh. Ao tôm sau khi thu hoạch phải xử lý tốt trước khi tháo nước ao ra ngoài bằng Clorin (30mg/m2 nước) trong vòng 3-5 ngày trước khi tháo ra.

* Bệnh đầu vàng (YHD)

Bệnh xuất hiện khi môi trường nuôi xấu. Vi rút gây bệnh trên có từ nguồn nước và các loại giống: còng, cua, cáy, ghẹ… bệnh thường xuất hiện sau khi thả giống đến trưởng thành.

– Dấu hiệu bệnh lý: Tôm khi mắc bệnh thấy sức ăn giảm đáng kể, tôm bơi chậm chạp trên bờ mặt sát bờ ao nuôi và dừng lại ở trạng thái bất động. Tôm bị bệnh lần đầu đặc trưng là mang có màu nhợt nhạt, (đầu vàng do gan tuỵ có màu vàng nhạt bị vi rút phá huỷ).

– Tác hại: Bệnh gây chết nghiêm trọng 100% trong vòng 3-5 ngày kể từ khi xuất hiện đầu tiên.

– Phòng bệnh: Áp dụng các phương pháp đã nói ở phần đầu.

– Trị bệnh: Hiện chưa có biện pháp xử lý bệnh tốt, cần thu hoạch khi tôm chớm bệnh nếu đạt cỡ thu,

b. Bệnh do vi khuẩn gây ra

* Bệnh phát sáng: Do vi khuẩn Vibrio harveyi gây ra, nếu tôm bị nhiễm sẽ làm tôm phát sáng trong bóng tối

– Nguyên nhân: Do môi trường xấu

– Giai đoạn xuất hiện bệnh chủ yếu thời kỳ ấu trùng và hậu ấu trùng (thời kỳ ương từ P15)

– Dấu hiệu bệnh lý: Tôm lờ đờ, kém ăn một số nổi lên mặt nước hoặc dạt vào mép ao, trên cơ thể tôm nổi bị vi khuẩn phát sáng trong bóng tối, bệnh lây lan nhanh ra quanh khu vực nếu phòng trị vệ sinh không tốt.

– Tác hại: Tôm bị nhiễm với lượng vi khuẩn phát sáng nhiều cơ thể bị tổn thương có thể gây chết hàng loạt.

– Xử lý: Nước trước khi vào ao nuôi cần được xử lý bằng hoá chất Clorin 100 – 200 ppm + thuốc tím.

– Phòng bệnh: Quản lý môi trường nước ao tốt.

* Bệnh ngoài vỏ, đốm nâu, hoại tử phụ bộ Do nhóm vi khuẩn Vibrio có khả năng phá vỏ lớp ki tin do môi trường xấu, sức đề kháng của tôm giảm và cơ hội để mầm bệnh tôm phát triển.

– Giai đoạn bị bệnh: Tất cả các giai đoạn của tôm

– Dấu hiệu bệnh lý: các chỗ bị bệnh bị ăn mòn như phụ bộ, râu, mang, biểu bì xung quanh và phần cuối của giáp đầu ngực giai đoạn bệnh nặng xuất hiện những chấm có màu nâu nhạt.

– Nguyên nhân: Do môi trường ô nhiễm

– Tác hại gây tổn chuỳ trên vỏ, mắt, lột xác bị trở ngại di chuyển hoạt động khó khăn, kém ăn gây tử vong nếu bệnh kéo dài

– Phòng bệnh như các giải pháp phòng bệnh tổng hợp

* Bệnh hoại cơ:

– Nguyên nhân: Do sốc mạnh và quá đột ngột với các yếu tố hàm lượng oxy hoà tan, nhiệt độ nước, độ mặn, môi trường xấu.

– Giai đoạn bị bệnh: tất cả các giai đoạn.

– Dấu hiệu bệnh lý bệnh thường riêng lẻ tôm bị mốc trắng (màu đục sữa) ở phần cơ của các đốt hay nơi bị hoại tử hai mép đuôi hư hại nên giòn dễ gẫy (thường gọi bệnh thối đuôi).

– Tác hại: ảnh hưởng đén sự phát triển của tôm, chỗ bị hoại cơ là cơ sở đẻ mầm bệnh khác phát triển.

– Phòng bệnh: áp dụng các giải pháp phòng bệnh tổng hợp.

e. Bệnh do môi trường có hàm lượng độc tố

* Mềm vỏ:

– Nguyên nhân do chất lượng thức ăn, cung cấp thức ăn không đủ, nguồn nước bị nhiễm chất hoá học bất lợi như; nhiễm các loại thuốc dùng trong nông nghiệp thải ra, nước thải công nghiệp có một số hoá chất có độc tính cao, đất có pH thấp.

– Giai đoạn bị bệnh: tất cả các giai đoạn của tôm

 Tác hại: tôm dễ bị tôm khác ăn thịt, các mầm bệnh tấn công

– Phòng trừ bệnh: cung cấp thức ăn đủ, chất lượng đảm bảo cho từng giai đoạn, bổ xung một số chất bổ cần thiết trộn với thức ăn cho tôm ăn: VitaminC: 50 – 100mg/100kg thức ăn lúc giai đoạn tôm phát triển mạnh ở những tháng cuối vụ nuôi cho ăn bổ sung: don, dắt…)

* Bệnh phồng nắp mang – đen mang

– Nguyên nhân: do nhiều nguyên nhân (hội chứng đen mang) nguồn nước bị nhiễm kim loại nặng Fe, Cu, Co, Zn, Mn, do thiếu vitaminC, ao nuôi đáy quá nhiều bùn nhiều chất hữu cơ tích tụ do thức ăn dư thừa, chất thải của tôm, pH thấp. Thời gian mắc bệnh có thể bắt đầu từ tháng thứ 2 đặc biệt tập trung cuối vụ nuôi.

– Dấu hiệu bệnh lý: mang chuyển từ màu hồng sang màu nâu -> màu đen, các tia mang phồng lên, trở lên đen. Môi trường càng ô nhiễm bệnh càng nặng

– Tác hại: tôm hô hấp khó khăn, kém ăn, sức đề kháng giảm, tạo điều kiện cho mầm bệnh phát triển.

– Phòng bệnh: không cho thức ăn dư thừa, thay nước thường xuyên, nạo hút đáy (nếu có điều kiện), xử lý môi trường tốt tránh nguồn nước bị ô nhiễm. Bổ sung vitaminC vào thức ăn của tôm

Ngoài một số bệnh thường gặp ở 4 nhóm trên tôm còn gặp các bệnh tuy không phổ biến như: đỏ thân (do thức ăn hôi thối kém chất lượng) bệnh bọt khí (do lượng oxy trong nước quá thấp thường nhỏ hơn 4 mg/lít) nổi đầu dạt vào bờ; bệnh do pH thấp do đất xì phèn, hoặc sau cơn mưa vv… Song một trong những nguyên nhân gây ra tất cả bệnh tôm là do môi trường không đảm bảo, biến động bất lợi.

Do đó, một vấn đề phải được hết sức quan tâm của các hộ nuôi tôm nếu mong có một vụ nuôi tôm đạt kết quả là phải quản lý tốt môi trường nước ao nuôi.

6. Thu hoạch: 

Sau thời gian 4 tháng nuôi có thể thu hoạch. Lúc này cá có thể đạt trọng lượng từ 100-200g/con, và tôm sú thương phẩm 20-30g/con./.

Xuân Quang – Sở khoa học công nghệ Nghệ An – 9/12/2014

Lợi ích kép từ nuôi cá đối mục 

Ông Lộc Cá Pắn, thôn Thống Nhất, xã Hải Lạng (Tiên Yên) vừa kết thúc đợt thu hoạch cá đối mục theo mô hình nuôi ghép 2ha cá đối mục và tôm sú. Ở mô hình này, cá đối mục không phải đối tượng nuôi chính song cũng đã cho sản lượng và giá trị tương đối lớn. Cụ thể, mỗi ha cho thu gần 9 tấn cá thương phẩm, với giá bán tại ao hiện ở mức 60.000 đồng/kg ước đạt tổng giá trị trên 500 triệu đồng, trừ chi phí còn lãi 150 triệu đồng/ha.

Ông Lộc Cá Pắn cho biết: Thời gian tôi nuôi trong khoảng 1 năm, con cá đạt trọng lượng trên 0,5kg, như vậy là phát triển rất tốt, hơn dự đoán của đơn vị cung cấp giống, nhờ đó đạt hiệu quả kinh tế cao. Tuy nhiên, đây chưa phải là lợi ích cao nhất của con cá đối mục mà hơn nữa chính là đối tượng nuôi này có thể giúp cân bằng hệ sinh thái ao nuôi, hạn chế dịch bệnh cũng như nâng cao sản lượng và giá trị cho đối tượng nuôi chính là con tôm sú. Điều này rất quan trọng, nhất là đối với địa bàn nuôi tôm Hải Lạng từ 2 năm nay liên tục xảy ra dịch bệnh, làm tôm chết hàng loạt do môi trường nuôi không đảm bảo. Cũng chính vì vậy nên mới đây ông Lộc Cá Pắn đã nhân rộng mô hình nuôi ghép cá đối mục và tôm sú trên diện tích 7ha, nâng tổng diện tích nuôi cá đối mục lên 9ha, chiếm 100% diện tích nuôi trồng thuỷ sản của gia đình ông.

Có chung nhận định như ông Lộc Cá Pắn, ông Nguyễn Văn Khang, một hộ nuôi cá đối mục ở khu 2, phường Hà An (TX Quảng Yên) cho biết: Phải nói là hiếm có đối tượng nuôi nào lại có lợi ích kép như con cá đối mục, vừa có thể mang lại giá trị kinh tế vừa tác động rất tích cực đến môi trường nuôi nói chung.

Cá đối mục là đối tượng nuôi khá mới, chính thức được đưa vào thử nghiệm tại Quảng Ninh từ gần 2 năm nay, và đã đưa vào nuôi rộng rãi tại Tiên Yên, Móng Cái, Quảng Yên. Đến thời điểm này đạt trên 60ha, trong đó vùng Hải Lạng (Tiên Yên) chiếm đến 30ha. Hiện tất cả diện tích trên đều đã và đang cho kết quả tốt, mang lại lợi ích lớn cho người nuôi.  

Thực tế cá đối mục là loài cá có sức sống rất tốt, sinh trưởng và phát triển nhanh, trọng lượng lớn và chất lượng thịt ngon. Thông thường cá nuôi trong vòng 1,5 năm sẽ đạt tiêu chuẩn cá thương phẩm với trọng lượng 0,6-0,8kg, trọng lượng tối đa của loài này có thể lên đến 8kg. Đây là loại cá rộng muối, rộng nhiệt, có thể sống và sinh trưởng tốt ở cả môi trường nước lợ, mặn và nước ngọt. Trong đó cá có thể chịu đựng được nhiệt độ từ 3-35oC và độ mặn 0-40 phần nghìn, trong khi ở các đối tượng nuôi khác, ở nhiệt độ dưới 9oC; độ mặn xấp xỉ 40 phần nghìn là có thể chết. Như vậy có thể nói đây là ưu thế vượt trội của con cá đối mục. Đặc biệt thức ăn chủ yếu của loại cá đối mục là mùn bã hữu cơ, sinh vật sống trên mùn bã hữu cơ như các loài tảo sợi, tảo lam, tảo khuê, đa mao trùng, ấu trùng tôm và nhuyễn thể… những tác nhân gây ô nhiễm môi trường nuôi cũng như nuôi dưỡng mầm bệnh hại các loài thuỷ sản. Chính vì vậy, việc nuôi cá đối mục sẽ góp phần cân bằng sinh thái môi trường nuôi, tạo cho tất cả các đối tượng nuôi khác một môi trường sống thuận lợi, an toàn nhất để sinh trưởng và phát triển. Riêng đối với môi trường nuôi tôm đã bị suy thoái, việc nuôi ghép cá đối mục sẽ tránh được bệnh hội chứng gan tụy, dịch bệnh gây thiệt hại lớn trên con tôm. Thực tế kết quả trên hơn 30ha diện tích nuôi ghép cá đối mục và tôm tại xã Hải Lạng đã cho thấy môi trường nuôi ở đây đã được cải thiện hơn, giảm hẳn tình trạng tôm chết do hội chứng gan tụy. Đây có thể nói là tác dụng quan trọng của đối tượng nuôi này, nhất là trong tình hình hiện có quá nhiều vùng nuôi trồng thuỷ sản đang rơi vào tình trạng bị ô nhiễm như vùng nuôi tôm Hải Lạng. Thực tế hiện toàn tỉnh đang có gần 10.000ha  ao đầm nuôi tôm với hình thức nuôi chủ yếu là quảng canh cải tiến, bán thâm canh hoặc thâm canh. Điều đáng nói cơ sở hạ tầng cho các vùng nuôi này còn nhiều bất cập như hệ thống cấp thoát nước, hệ thống ao chứa và xử lý nước, hệ thống ao nuôi chưa được đầu tư hoặc đầu tư thiếu đồng bộ dẫn đến môi trường nuôi bị suy thoái nghiêm trọng, dịch bệnh thường xuyên xảy ra gây thiệt hại cho các cá nhân, đơn vị nuôi tôm.

Hiện Trung tâm Khoa học và Sản xuất giống thuỷ sản Quảng Ninh đã làm chủ hoàn toàn được các quy trình gây giống và công nghệ nuôi thương phẩm cá đối mục; đủ khả năng cung cấp giống cá đối mục với số lượng lớn và chất lượng đảm bảo. Chỉ tính từ đầu năm đến nay đơn vị này đã xuất trên 800.000 giống cá đối mục… Đây là cơ sở, điều kiện để nhân rộng và phát triển một cách bền vững, mạnh mẽ mô hình nuôi cá đối mục trên địa bàn tỉnh.

Việt Hoa – Báo Quảng Ninh, 22/08/2014

Kỹ thuật sản xuất giống cá đối mục 

1. Nuôi cá bố mẹ

Việc nuôi nguồn cá bố mẹ có chất lượng tốt rất quan trọng trong sinh sản nhân tạo cá đối, là tiền đề về cơ sở vật chất cho cả quá trình sinh sản nhân tạo. Hơn nữa việc nuôi cá bố mẹ cần môi trường nước, thức ăn dinh dưỡng thích hợp cũng như điều kiện vệ sinh tốt và môi trường yên tĩnh, quan trọng nhất là bắt buộc phải có các điều kiện môi trường và điều kiện vật chất đầy đủ để có thể thúc đẩy việc tuyến yên kích thích biến đổi sinh lý và sự phát triển của tuyến sinh dục.

– Cá bố mẹ được nuôi trong các ao có diện tích: 500 m2, đáy cát bùn, độ sâu mức nước trung bình 1,5m. Độ mặn: 15 – 25‰, pH: 7,5 – 8,5. Ao nuôi vỗ có lắp đặt hệ thống đảo nước.

– Cá bố mẹ thường chọn loại từ 3 tuổi trở lên, cá cái thường có trọng lượng từ 2 – 3,5kg, cá đực có trọng lượng từ 1,3 – 1,8kg, cơ thể khỏe mạnh, không bị xây xát; có thể là cá được đánh bắt ở biển vào đầu mùa xuân, sau đó được thuần hóa và được nuôi tăng cường chất dinh dưỡng, hoặc có thể là những cá thể được chọn từ đàn cá trong ao, loại thứ hai trội hơn so với loại thứ nhất. Mật độ thả nuôi cá bố mẹ thích hợp vào khoảng 80-100 con/ 500m2. Thông thường, những cá thể được chọn từ đàn cá trong ao để nuôi làm cá bố mẹ sẽ tốt hơn, bởi không những cá sẽ đẻ nhiều trứng mà thế hệ cá đời sau cũng sinh trưởng nhanh hơn. Tuy nhiên cần phải chú ý đến tỷ lệ cá đực và cá cái, do cá đực và cá cái nhìn bề ngoài sẽ rất khó phân biệt nếu không phải là mùa sinh sản. Nhằm ngăn chặn những sinh vật mang nguồn bệnh vào trong ao, có thể sử dụng dung dịch thuốc tím để rửa sạch cá trong vòng 5-10 phút.

– Thức ăn sử dụng trong suốt quá trình nuôi vỗ là thức ăn tôm hoặc thức ăn tổng hợp kết hợp gây màu nước. Mỗi ngày cho ăn 1 – 2% trọng lượng thân. Cho ăn vào lúc 7h và 16h30 trong ngày. Thức ăn cho vào các sàng ăn để dễ quản lý thức ăn. Trong quá trình nuôi vỗ có bổ sung thêm một số loại vitamin B, C, E.

– Thường xuyên kiểm tra các yếu tố môi trường vào lúc 7h sáng, đảm bảo các yếu tố môi trường: pH: 7,5 – 8,5, độ mặn: 15 – 25‰

– Định kỳ kiểm tra mức độ thành thục của cá bố mẹ bằng cách sữ dụng que thăm trứng. Khi thăm trứng, sữ dụng thuốc Ethylene glycol monophenylether nồng độ 200ppm để gây mê cá bố mẹ, tránh tình trạng cá bị xây xát hoặc bị tổn thương tuyến sinh dục do cá vùng vẫy.

2. Kích thích sinh trưởng và sinh sản đối với cá bố mẹ

a) Kích thích sinh trưởng:

Thông thường, thời gian đầu tháng 9 tuyến sinh dục của cá đối bố mẹ sẽ phát triển ở giai đoạn II. Cuối tháng 9 đầu tháng 10 khi nhiệt độ nước giảm xuống dưới 27℃ sẽ bắt đầu chuyển sang giai đoạn III, khi nhiệt độ nước từ 19℃~25℃ sẽ là thời kỳ tuyến sinh dục của cá đối phát triển nhanh nhất, thời kỳ này các tế bào trứng của cá đối tích lũy một lượng lớn các noãn hoàng, tế bào trứng phát triển nhanh chóng. Đối với cá mẹ cần tiến hành kiểm tra trứng định kỳ, để xác định độ to nhỏ của trứng, nắm bắt tình hình phát triển của trứng; khi đường kính tế bào trứng đạt trên 500µm có thể tiến hành tiêm hooc-môn (cũng có thể pha hooc-môn vào thức ăn cho cá) để kích thích sinh trưởng, liều lượng tiêm cần dựa trên trọng lượng của cá và tình hình phát triển của tuyến sinh dục; đối với cá đực thành thục, dùng tay ấn để tinh dịch màu trắng sữa chảy ra, dùng kính hiển vi kiểm tra rồi nhỏ nước biển có nồng độ muối 25‰, nếu quan sát thấy tinh trùng đột nhiên chuyển động, điều đó chứng tỏ cá có quá trình thành thục tốt, có thế tiến hành kích thích sinh sản.

b) Kích thích sinh sản:

Nắm chính xác mùa sinh sản, chọn cá bố mẹ thích hợp, trong phạm vi và nhiệt độ thích hợp, với liều lượng tiêm có hiệu quả, là những điều kiện cần thiết cho việc kích thích sinh sản nhân tạo. Sản xuất giống cá đối nhân tạo phải được tiến hành trong điều kiện nước có nồng độ muối cao, yêu cầu từ 24‰ trở lên, nhiệt độ nước từ 20~26℃ ( tốt nhất là từ 22~25℃).

Cá bố mẹ dùng cho sinh sản nhân tạo, được tiêm LRHA kết hợp với Domperidone hoặc HCG để kích thích sinh sản; mỗi con cá sẽ được tiêm một dung dịch hỗn hợp gồm LRHA 5 – 10 μg + 50 – 100mg DOM/1kg cá hoặc 500 – 1000UI HCG /1kg cá. Sử dụng phương thức tiêm lồng ngực để thúc đẩy sinh sản, ở cá cái thời gian tiêm cách nhau 24 tiếng đồng hồ. Liều lượng của mũi tiêm thứ nhất và thứ hai giống nhau và bằng 1/4 tổng liều lượng, đa số được thực hiện vào buổi chiều; lần tiêm thứ ba dùng số thuốc còn lại tiêm vào mình cá, và lần tiêm này được thực hiện vào buổi sáng. Cá đực nếu có độ thành thục tốt thì có thể tiêm duy nhất một lần khi cá cái tiến hành tiêm mũi thứ ba, liều lượng tiêm bằng một nửa so với cá cái; nếu vẫn chưa đủ độ thành thục, có thể phân hai lần tiêm, tiêm mũi thứ nhất khi cá cái tiến hành tiêm mũi thứ hai, liều lượng tiêm bằng với cá cái và mũi thứ hai tiêm cùng lúc với lần tiêm thứ ba của cá cái, liều lượng bằng một nửa cá cái. Thông thường sau lần tiêm cuối cùng khoảng 10-24 tiếng đồng hồ, cá sẽ bắt đầu đẻ trứng.

3. Đẻ và ấp trứng

Cá bố mẹ sau khi được tiêm hooc-môn sẽ được đặt trong lưới đẻ trứng hoặc trong các bể compozit để có thể tiến hành đẻ trứng. Sau khi đã được thụ tinh, những trứng có sức nổi sẽ nổi trên mặt nước, khi đó có thể dùng sàng mềm hoặc lưới để vớt, rồi tắm trứng trong nước biển PV-I 100ppm hoặc penicillin G potassium (1 triệu đơn vị quốc tế / ml) và streptomycin sulphate (0,05 mg / ml) trong vòng một phút, sau đó chuyển trứng đã được thụ tinh vào các bể compozit 1m3, 5m3 hoặc đặt trực tiếp vào trong ao nuôi để tiến hành ấp trứng. Mật độ ấp trứng ở vào khoảng 100- 150 trứng / lít nước. Nhiệt độ nước thích hợp nhất cho trứng nở là 22~25℃, thời gian khoảng 36 – 48 tiếng đồng hồ; nồng độ muối là 25‰; lượng oxy hòa tan yêu cầu trên 5mg/l, có thể bơm khí hoặc sử dụng dòng nước chảy để đảm bảo lượng oxy hòa tan đầy đủ.

4. Nuôi cá bột lên cá hương

a) Mật độ thả nuôi: 40 – 50 con (cá mới nở) / lít nước là thích hợp nhất.

b) Các nhân tố lý hóa:

Giữ nhiệt độ nước vào khoảng 22~27℃ là tốt nhất; nồng độ muối 25‰; nồng độ PH 7,5~8,5; oxy hòa tan trên 5mg/l; nitrit dưới 3,00 µg/l; nitrat dưới 90 µg/l; amoniac dưới 30 µg/l; photphat dưới 9 µg/l; sunfua hidro dưới 5 µg/l.

c) Điều chỉnh chất lượng nước:

sau khi dùng nước để lọc cát, sẽ chiếu tia tử ngoại để diệt vi khuẩn, trước khi cho cá bột xuống ao cần cho thêm khoảng 104/ml tảo nannochloropsis oculata vào trong nước nuôi. Hút bùn, vớt màng bẩn, thay nước định kỳ, thời kỳ đầu cứ 3 ngày hút bùn một lần, thay 1/3 nước; thời kỳ giữa hút bùn 1~2 ngày một lần, thay 1/2 nước ; thời kỳ cuối mỗi ngày hút bùn một lần, thay nước mỗi ngày một lần, mỗi lần 1/2 ~3/5.

d) Bơm khí: Cứ 2 m² đặt một khối sủi bọt, nhằm đáp ứng bơm khí liên tục.

e) Ánh sáng: Thời kỳ cá bột cần khoảng 100 lux ánh sáng tán xạ.

f) Cho ăn:

Trong vòng 2-3 ngày sau khi nở, cá bột không đi kiếm mồi, ngày thứ 3-4 bắt đầu đi kiếm thức ăn, thức ăn là trứng thụ tinh của các loài động vật thân mềm, ấu trùng bánh xe hoặc lòng đỏ trứng,vv…; sau 2-3 ngày nuôi sẽ dần dần cho ăn luân trùng hoặc ấu trùng copepoda; sau 6-7 ngày nuôi có thể cho ăn ấu trùng tôm. Sau khoảng 25 ngày tuổi tập cho cá ăn thức ăn tổng hợp NRD.

Trong giai đoạn cho ăn thức ăn tự nhiên và artemia nên sử dụng cốc thủy tinh để quan sát lượng thức ăn trong môi trường nước để điều chỉnh cho phù hợp.

5. Nuôi cá hương lên cá giống

a) Mật độ thả ương:

1.000 – 2.000 con/m2 là thích hợp nhất.

b) Các nhân tố lý hóa:

Giữ nhiệt độ nước vào khoảng 25~27℃ là tốt nhất; nồng độ muối 25‰; nồng độ PH 7,5~8,5; oxy hòa tan trên 5mg/l; nitrit dưới 3,00 µg/l; nitrat dưới 90 µg/l; amoniac dưới 30 µg/l; photphat dưới 9 µg/l; sunfua hidro dưới 5 µg/l.

c) Điều kiện ao ương:

Ương cá trong ao có diện tích: 450 – 500 m2

Cấp nước đã được lọc qua cát vào ao, sau đó cấp thêm khoảng 104 – 105 tế bào/ ml tảo  annochloropsis oculata vào trong nước nuôi. Thay nước định kỳ, cứ 3 – 4 ngày thay nước một lần, mỗi lần 1/6 – 1/5 khối lượng nước trong ao ương.

d) Bơm khí:

Cứ 2 m² đặt một khối sủi bọt, nhằm đáp ứng bơm khí liên tục.

e) Cho ăn:

Sữ dụng thức ăn tổng hợp, sau đó phối trộn với thức ăn nhỏ của tôm trong thời gian khoảng 7 – 8 ngày, sau đó phối trộn với  cám gạo, cám ngô theo tỷ lệ tăng dần cám gạo, cám ngô. Cho ngày 2 lần 7h30 và 16h trong ngày.

Trong quá trình ương nuôi phải thương xuyên theo dõi sự biến động của các yếu tố như nhiệt độ, pH, hàm lượng oxy hòa tan và độ mặn. Quan sát màu nước để điều chỉnh thức ăn cho phù hợp. Nếu màu tảo dày nên giảm thức ăn, tốt nhất nên giữ mật độ tảo 104 tế bào/ml. mật độ tảo dày qua làm môi trường nước ương nuôi dễ biến động.

Dưới đây là quy trình cho cá sinh sản bằng phương pháp nhân tạo:

Nguồn: Sở khoa học & Công nghệ Quảng Bình

Cách nuôi thức ăn từ nhiên dành cho cá giống đối mục 


1. Cách nuôi tảo Nannochloropsis oculata

Trong môi trường điều kiện thích hợp Nannochloropsis oculata sinh sôi nảy nở rất nhanh, dễ nuôi trồng. Dùng nhiều cho các loài nhuyễn thể và luân trùng.  

a)  Phân loại vị trí:

Nannochloropsis oculata thuộc họ tảo lục, Tetrsporales. Là loài tảo ôn đới, á nhiệt đới hải dương.

b)  Đặc điểm hình thái:

Tế bào hình cầu, đường kính từ 2- 4µm, sống đơn lập hoặc tập trung. Sắc tố đơn sắc, xanh nhạt, là bộ phận nhỏ trong ngành tảo; tế bào hình cầu, màu vỏ quýt nhạt. Trong môi trường phát triển tốt, sắc tố tảo rất đậm, không dễ nhìn thấy bằng mắt thường. Trong điều kiện nuôi dưỡng thiếu phân đạm, sắc tố tảo nhạt. Có từ 1-3 hạt bột lọc, nhìn thấy rõ, mọc nghiêng. Thành tế bào cực mỏng, tế bào không nhìn thấy rõ khi còn nhỏ, trước khi phân li mới nhìn thấy rõ rệt. Trong quá trình phân li, vách tế bào mở rộng, hình thành khe hở giữa tế bào.

c)  Phương thức sinh sản:

Nannochloropsisoculata sinh sản theo kiểu phân li nhị phân. 1 tế bào phân thành 2 tế bào con. Tế bào sau khi phân li, tế bào con sẽ thoát ra từ vách tế bào của tế bào mẹ, nhưng có 1, 2 tế bào bám trên vách tế bào mẹ, liên kết với nhau thành một quần thể dạng nhựa cây nhưng khá phân tán.

d)  Điều kiện sinh sống:

Phạm vi thích ứng của Nannochloropsis oculata với nồng độ muối khá rộng, có thể sinh sôi nảy nở  bình thường trong phạm vi nồng độ muối từ 4 – 36 ‰, có thể sinh sản khá nhanh trong nhiệt độ nước từ 10 – 36℃, nhiệt độ thích hợp nhất là 25-30℃; dưới điều kiện nhiệt độ, độ chiếu sáng thích hợp là khoảng 1000 Lux; Độ PH thích hợp là 7,7- 8,6. Nannochloropsisoculata có hàm lượng dưỡng chất cao, đặc biệt là chất đạm nhiều. Trong môi trường nước có muối amin cao Nannochloropsisoculata sinh trưởng rất nhanh.

e) Phương thức nuôi cấy tảo

Nuôi tảo trong bể compozit 1m3 và 10m3. Vệ sinh bể sạch, cấp nước biển vào, xử lý chlorineA với nồng độ 100 ppm, sục khí mạnh, sau khoảng 2 ngày trùng hòa chlorineA bằng TriO Sun phát nồng độ 100ppm. Sau đó tiến hành cấp tảo giống, Khối lượng tảo giống đưa vào nuôi cấy ban đầu là 10lít, mật độ tảo đưa vào nuôi là: 106 tế bào/ml. nuôi trong bể 1 m3, sau thời gian nuôi  3 – 4 ngày, tảo đạt mật độ 9×107 tế bào/ml, tiến hành san sang bể compozis 10 m3. Trong quá trình nuôi được bón phân như sau:

Đạm ure 150g/m3
KH2PO4  2g /m3 
FeCl2: 0.2g /m3  
EDTA: 0.5g /m3

2. Cách nuôi luân trùng Brachionus plicatilis O. F. Muller

Brachionus plicatilis O. F. Muller là loài luân trùng ôn đới, luân trùng á nhiệt đới, là một trong những loài luân trùng được thế giới sử dụng và nuôi nhiều nhất. Đây là loài có sức sống cao, sinh sản nhanh, dinh dưỡng phong phú, dễ nuôi trồng, là loại thức ăn động vật lí tưởng để nuôi.

a) Phân loại địa vị:

Hiện nay, luân trùng là loài được làm nuôi làm thức ăn nhiều nhất, Brachionus plicatilis O. F. Muller là loài thuộc họ luân trùng (totatoria), Monogononta, bộ Ploima (bơi), lớp Brachionidae, loài Brachionus.

b) Đặc điểm hình thái

Brachionus  plicatilis O. F. Muller loài đơn tính, hay gặp là cá thể cái, đoạn trước của thân là bộ phận đầu khá phát triển(còn gọi là phần đầu), vòng lông tơ ở đầu có 3 gờ nổi lên, đoạn cuối của các gờ đó mọc rất nhiều lông thô và lớn(còn gọi là lông gai).Phần thân nối liền với bộ phận đầu là túi giáp trong suốt và nhẵn bóng. Luân trùng hình chữ L có chiều dài 140- 290 um, luân trùng hình chữ S có chiều dài 100- 190 um. Cơ thể hình bầu dục, phần cuối có hình như hồ lô, phần lưng có 3 vệt hằn, chia làm 6 gai, độ dài của 1 cặp gai ở giữa khác biệt không lớn hoặc chỉ hơi khác biệt so với 2 cặp còn lại. Trước phần bụng của áo giáp có 3 vết hằn, phân thành 4 tấm, mỗi một tấm đều khá bằng phẳng hoặc hơi dính lại với nhau. Phần chính giữa của mặt sau áo giáp có một lỗ mở, lỗ này nằm ở lưng có hình vuông, ở phần bụng lại có hình tam giác.

c) Phương thức nuôi Brachionus  plicatilis O. F. Muller:

Brachionus  plicatilis O. F. Muller có 2 phương thức sinh sản là sinh sản vô tính và lưỡng tính , có thể dùng cả hai phương pháp này thay thế lẫn nhau.

d) Điều kiện sinh sống:

Nhiệt độ:

Brachionus  plicatilis O. F. Muller thích nghi với môi trường nước biển và bán nước mặn thuộc khí hậu ôn đới, á nhiệt đới, có tính thích ứng với môi trường khá cao, tuy nhiên chủng loại  khác nhau sẽ có khả năng thích ứng nhiệt độ khác nhau khá lớn: Luân trùng hình chữ L thích hợp với nhiệt độ 12- 25, luân trùng hình chữ S thích hợp với nhiệt độ 25- 35℃, và tốc độ sinh sản của chúng sẽ tăng theo nhiệt độ nước. Nhiệt độ thấp nhất mà Brachionus  plicatilis O. F. Muller có thể chịu được là 5 ℃, và cao nhất là 40℃.

Độ mặn:

Là sinh vật sống thích nghi với môi trường muối, nên Brachionus  plicatilis O. F. Muller ssoons sinh sống và sinh sản tốt trong môi trường muối từ 2- 50 ‰, và thích hợp cho sinh sản nhất là độ muối từ 15- 25 ‰.

Độ chiếu sáng:

Trong điều kiện có ánh sáng và không có ánh sáng, Brachionus  plicatilis O. F. Muller ssoons đều có thể sinh trưởng bình thường, tuy nhiên sẽ sinh sản nhanh hơn trong điều kiện được chiếu sáng, và cường độ chiếu sáng không giống nhau Brachionus  plicatilis O. F. Muller ssoons sẽ sinh sản khác nhau, độ sáng thích hợp nhất là  khoảng từ 4400 – 10000 Lx.

Độ PH:

Brachionus  plicatilis O. F. Muller ssoons có khả năng sống trong nhiều kiểu môi trường PH, có thể sinh trưởng bình thường với độ PH từ 5-10, sinh trưởng tốt nhất trong nồng độ PH từ 7.5 – 8.5.

Oxi hòa tan:

Brachionus  plicatilis O. F. Muller ssoons có thể thích ứng với nhiều kiểu môi trường oxi hòa tan, thông thường ở mức từ 1.5 ppm trở lên là được.

e) Phương thức nuôi trồng Brachionus  plicatilis O. F. Muller ssoons diện tích rộng

Khi nuôi trồng Brachionus  plicatilis O. F. Muller ssoons trên diện tích lớn thông thường dùng phương thức bán liên tục, cụ thể: trong bể nuôi luân trùng; trước tiên nuôi các loài rong tảo, sau đó cho thêm các loại luân trùng vào, dùng sục khí sục lượng nhỏ, khi mật độ luân trùng thấp dưới 50 con/mm³, dùng thức ăn chủ yếu là là các rong tiểu cầu, thức ăn phụ là con men, mỗi ngày cho một lượng rong tiểu cầu từ 200.000 – 250.000 tế bào/ mm³, con men từ 1- 1,5g/ 1 triệu luân trùng; Khi mật độ luân trùng cao hơn 50 con/mm³, thức ăn chủ yếu là con men, rong tiểu cầu là phụ, hằng ngày cho ăn với lượng 3 – 5 g con men/ 1 triệu luân trùng với khoảng 50.000- 100.000 tế bào/mm³. Khi mật độ luân trùng đạt trên 100 con/ ml có thể tiến hành thu hoạch. Sau khi thu hoạch, dùng các loại tảo để bù lại lượng thu hoạch, khôi phục mực nước ban đầu, tiếp tục nuôi trồng. Sau một thời gian nuôi trồng, phân nước tiểu và thức ăn tích trữ lại bị nước phân hủy, lúc này cần thu hoạch toàn bộ và làm sạch bể, bắt đầu nuôi lại từ đầu. Khi dùng phương pháp nuôi trồng bán liên tục, cần sử dụng các bể compozit 5m3 và bể có dung tích 20 m² là diện tích hay dùng nhất hiện nay.

3.  Nuôi copepoda

Nuôi copepoda trong ao đáy cát bùn có diện tích từ 400 – 450 m2, bón phân gà và cấp một lượng tảo 1/10 so với khối lượng nước hoặc sữ dụng cá tạp để tạo thức ăn cho copepoda.

4. Ấp artemia

a) Điều kiện môi trường ấp artemia

Nhiệt độ: 26 – 30℃              pH từ: 7,5 – 8,5      
Độ mặn: 28 – 30‰                Hàm lượng oxy: > 4mg/l

b) Phương thức ấp artemia  

Số lượng artemia ấp phụ thuộc vào số lượng cá giống. Thường cứ 0,025 kg Artemia ấp cho 1 vạn cá con. Artemia phải đảm bảo có tỷ lệ nở 80% trở lên.

Cho artemia vào xô 10 lít và ngâm thêm 10 ml formol tròng vòng 3-5 phút sau đó lấy ra, xát qua nước ngọt và cho vào bể 5m3 để ấp. Sau 30 phút kể từ khi cho art vào bể ấp thì đảo 1 lần và tiếp sau đó 1h cứ đảo 1 lần. sau khoảng 12 h ấp art sẻ bung dù, sau 24 giờ artemia sẽ nở. Khi sữ dụng artemia cần quan sát art thương xuyên để đảm bảo kích thước của art phù hợp với kích thước cỡ miệng cá. Cần lọc art để loại bỏ vỏ art trước khi cho cá con ăn.

Nguồn: Sở khoa học & Công nghệ Quảng Bình

Kỹ thuật nuôi cá đối mục thương phẩm 

1. Những yêu cầu khi chọn địa điểm ao nuôi

Vị trí ao nuôi cần đảm bảo được nguồn nước tốt và đầy đủ. Nơi có biên độ triều 2-3 m để dễ dàng thay nước. Nước có độ mặn 10-35 ‰. Ngoài ra nếu có nguồn nước ngọt  thì quá tốt để sử dụng khi cần thiết như ổn định độ mặn ao nuôi. Ao nuôi cá đối mục tốt nhất là ao đất và diện tích mặt nước lớn.Ao nuôi tiện lợi giao thông và an ninh tốt. Cần tránh nơi sóng gió mạnh, hay nơi dễ xói lỡ. Tránh nơi ô nhiễm nước thải nông nghiệp hay công nghiệp.

Đảm bảo các yếu tố môi trường:

Độ mặn:  10-35 ppt
Nhiệt độ nước: 20-31 độ C
Hàm lượng oxy :  >2 mg/l
pH:   7,5-8,5
Chất đáy: cát bùn, bùn cát, bùn pha sét.

2. Điều kiện ao nuôi và cải tạo ao

Ao nuôi thường có hình chữ nhật

Diện tích: 500-10.000 m2.
Độ sâu: 1,2-1,5 m nước
Ao có bờ chắt chắn, cống cấp và thoát nước riêng

nước lấy vào phải qua lưới lọc Cần chuẩn bị ao kỹ trước khi nuôi. Các công tác bao gồm tháo cạn nước ao, phơi ao, nạo vét đáy ao, diệt tạp, bón vôi và bón phân gây màu. Diệt cá tạp bằng saponin với lượng 10 kg/1.600 m2. Bón vôi 7-10kg/1.000m2. Sau khi cho nước vào 30-40 cm thông qua lưới lọc mịn, cần bón phân gây màu bằng phân gà 1-2 tấn/ha  để tạo mùn bã hữu cơ và thức ăn tự nhiên cho cá hay bón phân vô cơ với lượng 22 kg (NPK 18-46-0)/ha; 50 kg (16-20-0)/ha; hay 25 kg (16-20-0) cùng với 25 kg (0-20-0)/ha.

Sau 5-7 ngày, nước sẽ có màu xanh thì tiến hành thả giống.

3. Chọn giống và thả giống

Giống thả vào ao nuôi thịt phải đồng đều về kích thước (5-10 cm) không bị bệnh tật, xây xát, bơi lội hoạt bát, có màu sáng, tươi.

Thả giống:

Nuôi đơn, sau khi lấy nước vào 5 – 7 ngày nước có màu xanh tiến hành  thả giống nuôi, giống thả với mật độ 2- 4 con/m2.

Nuôi ghép, cá đối mục thường được  nuôi ghép với các đối tượng khác như cá măng, cá chẽm. Ở Hong kong, Đài loan và Isael, cá đối được nuôi ghép với cá chép Trung quốc và cá đối là đối tượng chính. Mật độ thả nuôi lên tới 10,000-15,000/ha (cá có kích thước 7.5cm) với 1000-2000 cá chép Trung quốc. Khi đã lớn. hơn (12cm) cá đối được thu tỉa còn lại khoảng 3500con/ha. Năng suất thu được từ 2500-3500kg/ha. Ở Đài Loan cá đối được nuôi ghép với cá măng (2000con/ha), cá chép trung quốc (3250 con/ha) và cá chép (500 con/ha) ở mật độ 3000con/ha.Ngoài ra cá đối còn được nuôi ghép với cá rô phi, cá chép và cá mè. Mỗi ha ao, đầm thả 2.500 con cá chép, 1.500 con rô phi và 1.000-2.000 con cá đối.

Hiện tại cá đối mục có thể nuôi ghép với tôm, tôm là đối tượng chính nhằm mục đích tận dụng thức ăn thừa và các chất dinh dưỡng từ chất thải của tôm, cải thiện môi trường, nâng cao năng suất và thu nhập. Mật độ thả tôm 20 post/m2, cá đối 0.5-1 con/ m2.

Mặc dù cá có khả năng sống trong môi trường nước ngọt cũng như nước lợ, nhưng dể bị sốc khi thay đổi độ mặn và nhiệt độ đột ngột, do đó khi vận chuyển cá về cần cho nước ao vào dụng cụ chứa cá từ từ để cá quen dần với nhiệt độ và độ mặn đến khi nào nước ao và dụng cụ chứa cá ngang bằng nhau thì mới thả xuống ao.

Chú ý nên kiểm tra các yếu tố môi trường trước khi thả giống: pH: 7.5 – 8.5, S‰:10- 30‰, oxy hòa tan >2 mg/l. Nên thả giống vào sáng sớm hoặc chiều mát.

4. Quản lý và chăm sóc ao nuôi thịt cá đối mục

a)Thức ăn và cách cho ăn

Trong điều kiện nuôi ngoài việc bón phân kích thích sự phát triển của tảo làm thức ăn tự nhiên cho cá đối, bón phân chuồng như phân gà, heo hàng tuần 500 kg/ha. Chúng còn có thể được cho ăn bổ sung với cám gạo,bột ngô, bánh dầu đậu phộng, đậu nành hoặc bột đậu phộng tỷ lệ 3- 5% trọng lượng cá mỗi ngày.

Cho ăn 2 lần /ngày, vào lúc 7h sáng , 17h chiều.

Khi cho cá ăn cần tạo phản xạ bằng tiếng động để tập trung cá thành đàn, đúng thời điểm và vị trí cho ăn.

Định kỳ phối trộn thêm các vitamin C (7-10g/1kg thức ăn), khoáng vào thức ăn, nhằm giúp cho cá tăng cường sức đề kháng.

b) Quản lý

Trong quá trình nuôi, hằng ngày phải kiểm tra các yếu tố môi trường

Trong quá trình nuôi cần chú ý thường xuyên quan sát hoạt động của cá,màu nước để kịp thời xử lý (thay nước hoặc sữ dụng vi sinh để làm sạch môi trường (EMC:1lit/1000m2), giảm thức ăn,). Mỗi tuần kiểm  tốc độ tăng trưởng của cá (chài kiểm tra) để điều chỉnh thức ăn cho phù hợp. Theo dõi tình trạng sức khỏe, các bệnh lý để có biện pháp xử lý kịp thời.

Do phải duy trì màu nước, thức ăn tự nhiên cho cá đối mục, hai tuần nên thay nước một  lần

Nếu nuôi với mật độ cao >2 con /m2.Thông thường ao nuôi 3000 m2 ta nên bố trí dàn quạt từ 5 – 7 cánh. Mỗi ngày cho chạy một lần vào lúc 4 – 7h sáng nhằm cung cấp oxy cho ao nuôi,tránh hiện tượng cá nỗi đầu vào buổi sáng.

c) Thu hoạch

Sau một năm cá đối mục nuôi chuyên canh có thể đạt trọng lượng 400g – 600g, nuôi ghép có thể đạt trọng lượng 700g – 900g/con. Lúc này tiến hành thu hoạch. Có thể thu một lúc bằng cách tháo cạn nước và dùng lưới kéo bắt cùng một lần để bán hoặc là thu tỉa hằng ngày bằng cách bủa lưới.

5. Phòng và trị bệnh

á đối mục rất ít bệnh, chưa có nhiều nghiên cứu về bệnh trên đối tượng này. Trong quá trình nuôi, thông thường chỉ thấy xuất hiện lở loét trên thân do xây xát, trường hợp này nên sử dụng KMnO4 nồng độ: 5 – 10ppm bôi trực tiếp lên chỏ bị lở loét.

Nguồn: Sở khoa học & Công nghệ Quảng Bình

Các tin có liên quan