Nghiên cứu kích thích sinh sản nhân tạo cá chốt trắng (Mystus planiceps)
Đây là đề tài nghiên cứu của khoa thủy sản, Trường đại học Cần Thơ. Cá chốt trắng là một trong những loài phân bố rộng ở vùng ĐBSCL (nước ngọt, lợ và mặn), là một đối tượng có giá trị kinh tế cao. Tuy nhiên, nghề nuôi chưa được phát triển. Một trong những lý do dẫn đến hiện trạng trên là do thiếu nguồn giống nhân tạo để cung cấp cho nghề nuôi. Vì thế, việc nghiên cứu kích thích sinh sản nhân tạo bằng các loại hormon và quy trình ấp trứng cá chốt trắng (Mystus planiceps, Cuvier and Valenciennes) là rất cần thiết nhằm tìm ra loại và liều lượng kích dục tố tốt nhất để kích thích cá sinh sản, góp phần xây dựng quy trình sản xuất giống nhân tạo cá chốt trắng và đa dạng hóa đối tượng nuôi.
Nhóm nghiên cứu đã kích thích sinh sản nhân tạo cá chốt trắng được thực hiện với 6 nghiệm thức, gây chín và rụng trứng ở hầu hết các nghiệm thức. Tỷ lệ sinh sản cao nhất đạt 83,3%. Trứng cá chốt trắng được ấp ở các độ mặn 0, 10, 20 và 30 ppt với mật độ 200 trứng/L. Kết quả cho thấy trứng cá chốt trắng có thể nở ở tất cả các độ mặn từ 0 đến 30 ppt, và tỷ lệ nở cao nhất (72%) ở độ mặn 10 ppt. Thời gian nở là 22,2 giờ ở nhiệt độ trung bình 28,30C. Kết quả nghiên cứu này là tiền đề quan trọng để tiến hành thực nghiệm và nhân giống cá chốt trắng, phục vụ nhu cầu nuôi cá của người dân.
NGỌC QUÂN – Khoa học phổ thông, 03/10/2013
Cá chốt nghệ (Mystus gulio Hamilton, 1822)
Thử nghiệm sinh sản nhân tạo và ương cá chốt nghệ
Tóm tắt: Thử nghiệm sinh sản nhân tạo và ương cá Chốt nghệ (Mystus gulio Hamilton, 1822) nhằm xác định loại hormon phù hợp trong sinh sản nhân tạo mật độ ương phù hợp đối với cá Chốt nghệ. Nghiên cứu này được tiến hành với 2 thí nghiệm: thí nghiệm 1 (sinh sản nhân tạo Mystus gulio bằng LRH_a và HCG). Thí nghiệm thứ 2 (ương cá bột lên cá hương với 6 mật độ khác nhau: 5, 10, 15, 20, 25 và 30 con/l). Sử dụng Moina và trùn chỉ để làm thức ăn cho cá bột. Kết quả cho thấy tỷ lệ thụ tinh ở nghiệm thức sử dụng LRH_a (90,6 ± 3,12) cao hơn nghiệm thức sử dụng HCG (83,5 ± 2,21) và khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,05). Thêm vào đó, tỷ lệ sống ở nghiệm thức ương 5 con/l (55,6 ± 3,91) cao nhất và có ý nghĩa thống kê (p < 0,05) so với các nghiệm thức khác, tăng trưởng khối lượng theo ngày và tăng trưởng chiều dài theo ngày ở mật độ ương 5 con/l đã cao hơn những mật độ ương khác. Như vậy, hormon LRH_a phù hợp cho kích thích sinh sản nhân tạo cá Chốt nghệ và mật độ ương cá Chốt nghệ phù hợp là 5 con/l.
Nguyễn Thành Tâm, Phạm Thành Khỏe, Đoàn Văn Nhí – Đại học Huế, 2012