Kỹ thuật nuôi cá chình, cá chình bông, cá chình hoa

Đặc điểm sinh học sinh thái của cá chình

Đặc điểm sinh học

Cá chình là loài cá có tính thích ứng rộng với độ mặn, cá có thể sống được ở nước mặn, nước lợ, nước ngọt.

Cá thích bóng tối, sợ ánh sáng nên ban ngày chui rúc trong hang, dưới đáy ao, nơi có ánh sáng yếu, tối bò ra kiếm mồi di chuyển đi nơi khác.

Da và ruột cá có khả năng hô hấp, dưới 15o chỉ cần giữ cho da cá ẩm ướt là có thể sống được khá lâu. Trời mưa cá hoạt động rất khoẻ bò trườn khắp ao.

Cá chình là loài cá có phạm vi thích nhiệt rộng. Nhiệt độ từ 1 – 38oC cá đều có thể sống được, nhưng trên 12oC cá mới bắt đầu mồi. Nhiệt độ sinh trưởng là 13 – 30oC thích hợp nhất là 25 – 27oC.

Hàm lượng ôxy hoà tan trong nước yêu cầu phải trên 2 mg/1, 5 mg/l là thích hợp cho sinh trưởng, vượt quá 12 mg/l dễ sinh ra bệnh bọt khí.

Tập tính ăn và sinh trưởng

Cá chình là loại cá ăn tạp, trong tự nhiên thức ăn của cá là tôm, cá con, động vật đáy nhỏ và côn trùng thuỷ sinh.

Khi còn nhỏ thức ăn chính của cá là động vật phù du nhóm Cladocera và giun ít tơ.

Sau 2 năm nuôi, cá đạt kích cỡ 50 – 200g. Nếu thức ăn tốt sau 1 năm nuôi kể từ lúc vớt ngoài tự nhiên có thể đạt cỡ 4 – 6 con/kg.

Cá sinh trưởng chậm, nhất là cỡ từ 300g trở nên tốc độ sinh trưởng chỉ bằng 1/10 tốc độ sinh trưởng của giai đoạn cá có trọng lượng 70 – 100g.

Khi còn nhỏ tốc độ sinh trưởng của cá trong đàn tương đương nhau, nhưng khi đạt chiều dài hơn 40 cm con đực lớn chậm hơn con cái.

Tập tính sinh sản:

Cá chình là loài cá di cư, cá mẹ đẻ ở biển sâu, cá con sau khi nở trôi dạt vào bờ biển, cửa sông, vùng nước ngọt kiếm mồi và lớn lên. Khi trưởng thành, cá lại di cư ra biển sâu để đẻ trứng.

Cá con mới lớn có hình lá liễu, sau 1 năm mới trôi dạt vào cửa sông. Trải qua nhiều biến thái hình thành cá chình hương màu trắng, cá ngược dòng sắc tố đen tăng dần thành màu đen.

Việc sinh sản nhân tạo cá chình đến nay chưa có nước nào nghiên cứu thành công. Tất cả cá giống đều dựa vào việc khai thác từ tự nhiên ngoài cửa sông hoặc ven biển. ở nước ta cá chình phân bố nhiều từ Quảng Bình vào đến Bình Ðịnh, đặc biệt là vùng hồ Châu Trúc ở Bình Ðịnh có cá chình phân bố, hằng năm cung cấp một lượng cá giống quí cho nhân dân trong vùng để nuôi.

Thông tin KHCN Thuỷ Sản

Nuôi cá chình bông bằng bể xi măng

Để đa dạng hóa đối tượng vật nuôi, tạo việc làm, tăng thêm thu nhập cho người dân, Phòng Kinh tế – Hạ tầng huyện Tuy An đã chủ trì thực hiện dự án Nhân rộng mô hình nuôi cá chình bông thương phẩm bằng ao xi măng ngoài trời do kỹ sư Ngô Thị Mỹ Hạnh, cán bộ quản lý môi trường và nguồn lợi thủy sản xã An Ninh Tây (Tuy An) làm chủ nhiệm.

KỸ THUẬT NUÔI ĐƠN GIẢN 

Theo kỹ sư Ngô Thị Mỹ Hạnh, cá chình bông có khả năng sống được ở nhiều thủy vực nước mặn, nước lợ, nước ngọt. Cá thích bóng tối nên ban ngày thường chui rúc trong hang, dưới đáy bể; tối mới bò ra đi kiếm ăn và di chuyển nơi khác. Những lúc trời mưa, cá thường hoạt động mạnh. Cá chình bông phát triển tốt ở nhiệt độ từ 25 đến 27ºC, hàm lượng oxy hòa tan 2 đến 5mg/l. Là loài ăn tạp, nguồn thức ăn tự nhiên của cá chình bông là tôm, cá con, động vật đáy và các sinh vật thủy sinh. Khi còn nhỏ, thức ăn chính của chúng là động vật phù du và trùn ít tơ.

Cá chình bông là loài di cư: Cá mẹ đẻ trứng ở biển sâu, cá con sau đó trôi dạt vào vùng cửa sông kiếm ăn và lớn lên. Đến lúc trưởng thành, cá lại về biển đẻ trứng. Chính vì tập tính này mà hiện nay, việc sinh sản nhân tạo cá chình còn rất khó khăn và nguồn cá giống chủ yếu vẫn được đánh bắt trong tự nhiên. Ở Phú Yên, cá chình bông con thường được đánh bắt ở sông Bàn Thạch (Đông Hòa), đập Tam Giang (Tuy An).

Theo kinh nghiệm của kỹ sư Ngô Thị Mỹ Hạnh, để chuẩn bị nuôi cá chình bông, đầu tiên, cần làm tốt khâu chọn giống. Cỡ giống tốt nhất khoảng 100g/con, khỏe mạnh, đồng đều, màu sắc tươi sáng, không bị bệnh. Giống mua về để ổn định nhiệt độ trong khoảng 15 phút, sau đó thả vào trong bể nhỏ bơm sẵn nước (30cm), sục khí mạnh; tắm nhanh qua nước muối (30‰) từ 3 đến 5 phút rồi thả vào nơi đầu nguồn nước với mật độ 5 con/m2. Để cá chình phát triển tốt, cần chọn địa điểm nuôi có nguồn nước sạch, vị trí yên tĩnh, thuận tiện trong giao thông, ít chịu ảnh hưởng của lũ lụt, có nguồn thức ăn dồi dào. Bể nuôi có diện tích 60m2, chia thành 2 phần với vách ngăn cố định bằng tường xi măng để phân loại cá trong quá trình nuôi. Tường bên trong bể láng nhẵn. Đáy bể không tráng xi măng mà được phủ một lớp đất sét dày 5 đến 10cm với độ sâu từ 1,8m đến 2m. Thành bể cao hơn mức nước cao nhất 50cm đồng thời có ống cấp nước đặt cách mặt bể 50cm.

Bể sau khi xây xong, ngâm phèn chua (100g/m2) 2 lần (2 ngày/lần), sau đó chà sạch bằng bẹ chuối, cấp và xả nước 3 đến 4 lần kết hợp với phơi nắng trong 2 tuần. Bên trên bể nuôi cần thiết kế mái che bằng tre và lưới trủ nhằm đảm bảo các yếu tố trong môi trường bể nuôi ổn định. Người nuôi cần bổ sung vòi sục khí (10 vòi/bể), sàn ăn có kích thước 60cm x 80cm (bố trí gần nơi thoát nước), hệ thống máy bơm nước, máy tạo dòng và ống nhựa làm chỗ trú ẩn cho cá. Để hạn chế thất thoát cá vào mùa mưa, mỗi bể nuôi cần bố trí lưới bao ở bề mặt bể. Tóm lại, bể nuôi chình phải chắc chắn, đảm bảo các điều kiện cần thiết để cá chình phát triển tốt.

NHÂN RỘNG MÔ HÌNH

Theo kỹ sư Ngô Thị Mỹ Hạnh, huyện Tuy An nói chung, xã An Ninh Tây nói riêng có điều kiện thích hợp cho hoạt động nuôi trồng thủy sản. Những năm qua, huyện Tuy An chủ yếu phát triển các đối tượng nuôi nước lợ, đặc biệt là tôm thẻ chân trắng. Nghề này mang lại lợi nhuận cao cho người nuôi nhưng vẫn tồn tại nhiều hạn chế: rủi ro, dịch bệnh, ô nhiễm môi trường. Với mục đích đa dạng hóa đối tượng vật nuôi, tăng thêm thu nhập, nâng cao đời sống cho người dân, huyện Tuy An đã thực hiện nhân rộng mô hình nuôi cá chình bông thương phẩm trong bể xi măng ngoài trời.

Theo ông Nguyễn Văn Mỹ, Phó phòng Kinh tế – Hạ tầng huyện Tuy An: “Hiện nay, mô hình nuôi cá chình bông thương phẩm đã được nhân rộng ra nhiều hộ gia đình ở Tuy An. Mô hình này bước đầu đã cho thấy hiệu quả khả quan: Chình phát triển tốt, ít dịch bệnh, giá cả ổn định, đầu ra rộng mở. Đây hứa hẹn sẽ là vật nuôi mang lại nhiều lợi nhuận, góp phần ổn định đời sống của người dân”.

Ông Hồ Anh (An Ninh Tây, Tuy An), 1 trong 3 hộ dân tham gia nhân rộng mô hình nuôi cá chình bông cho biết: “Cá chình bông là vật nuôi mới, còn nhiều lạ lẫm với người dân chúng tôi. Ban đầu, khi tiếp cận với vật nuôi này, chúng tôi cũng gặp nhiều khó khăn nhưng dưới sự hướng dẫn tỉ mỉ của các cán bộ kỹ thuật, hiện tại, “trình độ” nuôi cá chình của các hộ dân chúng tôi phần nào đã vững vàng.

Tự tin vào tay nghề của mình nên năm sau tôi sẽ mở thêm một ao nữa. Với giá bán 400.000 đồng/kg như hiện nay, người dân chúng tôi sau một vụ nuôi 18 đến 24 tháng có thể thu lãi được 70.000 đến 80.000 đồng/con. Vụ này tôi chỉ nuôi 300 con để làm quen với kỹ thuật nuôi, nhưng khi đã nắm vững, tôi sẽ nuôi theo kiểu gối đầu để năm nào cũng có chình xuất bán. Như vậy lợi nhuận sẽ nhiều hơn”.

Theo thiết kế mô hình ban đầu, cả xã An Ninh Tây có 3 hộ tham gia nuôi cá chình bông thương phẩm nhưng hiện nay, chỉ riêng thôn Bình Thạnh (An Ninh Tây) đã có 5 hộ nuôi, nhiều hộ có vốn cũng đang dự định nuôi mới hoặc tăng thêm số ao nuôi. Do có lợi thế gần biển, nguồn thức ăn cho cá chình dồi dào mà kỹ thuật chăm sóc cũng không quá phức tạp nên trong thời gian tới, quy mô nuôi cá chình cũng như số hộ tham gia nuôi ở huyện Tuy An sẽ còn tăng lên.

THÁI HÀ, Báo Phú Yên, 18/11/2013

Ương và nuôi cá chình thương phẩm trong bể xi măng

Hội đồng Khoa học – Công nghệ Phú Yên vừa xét duyệt và cho triển khai đề tài Xây dựng mô hình ương và nuôi cá chình thương phẩm trong bể xi măng tại Phú Yên.

Đề tài do Trung tâm Khuyến ngư thực hiện, ông Nguyễn Minh Phát làm chủ nhiệm. Mục tiêu của đề tài nhằm hoàn thiện việc lắp đặt nơi trú ẩn của chình trong bể xi măng sao cho phù hợp với đặc tính sinh học để ương và nuôi tăng sản cá chình. Cụ thể là ương giống cá chình từ cỡ 300 con/kg lên 20 con/kg với tỉ lệ sống 60% trong thời gian 10 tháng, nuôi tăng sản cá chình từ cỡ 20 con/kg lên 1-1,3 kg/con với tỉ lệ sống 70% trong thời gian 14 tháng. Đề tài còn triển khai tìm ra loại thức ăn tự chế biến thích hợp cho cá chình khi ương và nuôi tăng sản. Đề tài thực hiện trong thời gian 21 tháng với kinh phí hơn 1,7 tỉ đồng.

MINH NGUYỆT (Phú Yên, 28/7/2008)

Kinh nghiệm nuôi cá chình bông trong bể xi măng

Qua 5 tháng nuôi, chỉ vài tháng đầu chình có chết một ít do chưa thích nghi, từ tháng 3 trở đi rất ổn định, lớn bình thường, chưa thấy bệnh tật gì. Anh Nguyễn Văn Nghịêp dự tính sau một năm chình sẽ đạt trung bình 1,2kg/con. Nếu với giá như hiện nay 250.000 – 320.000đ/kg thì anh thu về khoảng 300 triệu đồng. Sau khi trừ chi phí thức ăn, công lao động, còn lại khoảng 200 triệu đồng – một con số không nhỏ đối với gia đình thuần nông như anh. Anh Nghiệp cho biết: cá chình thương phẩm không sợ không có đầu ra, có bao nhiêu các đại lý cũng mua hết, chủ yếu để xuất khẩu sang Hồng Kông, Đài Loan.

Thường trong mùa mưa – tháng 10, 11 – chình con giống bắt được trong tự nhiên nhiều nên giá hạ hơn mùa nắng. Thả giống trong mùa này chình dễ thích nghi, ít rủi ro hơn.

Sáng sớm khi cho nước vào bể, dưới giàn phun mưa, mình vàng ươm có đốm nâu tụ tập lại thành từng đàn như để hấp thụ chút không khí trong lành. Con nào con nấy sàn sàn như nhau, to hơn ngón chân cái một chút, có một số ít to bằng cái liềm. Anh Nguyễn Văn Nghiệp (Thôn 3 HTX nông nghiệp Bình Nghi 3, Tây Sơn, Bình Định) chủ nuôi cho biết: chình thả nuôi được 5 tháng nay, con lớn được khoảng 0,4kg. Cứ đà này đừng có dịch bệnh gì chừng 7 tháng nữa sẽ xuất bán chình thương phẩm, khả năng chình đạt trọng lượng 1,1-1,2kg/con.

Một dịp đến Ninh Thuận tình cờ anh Nghiệp thấy được mô hình nuôi chình bông rất có hiệu quả trong bể xi măng, anh về mạnh dạn đầu tư hơn 30 triệu đồng xây bể xi măng trong vườn nhà, có diện tích chừng 100 m vuông – đáy bể đổ bêtông cốt thép, thành bể xây gạch cù, cao chừng 1,8m. Đáy bể có ống xả thải, trong bể có xây hòn non bộ, đáy rỗng ngập trong nước, trong đó có thả chà (cành cây khô) để chình ẩn náu, có non bộ để vừa đẹp vừa là giàn mưa tạo oxy cho chình. Rải rác một bên bể có đặt những ống bêtông rỗng để chình cư trú. Mực nước nuôi trong bể luôn duy trì từ 1,1-1,2m. Nước bể nuôi ở dạng tĩnh nên ngoài tạo mưa từ hòn non bộ anh phải lắp thêm giàn phun mưa để tạo thêm oxy mỗi buổi sáng. Trên bể có mái che, có lưới để giảm bức xạ, xung quanh có che chắn để ánh nắng không rọi vào nhiều.

Nước cung cấp cho bể nuôi lấy từ con suối tự nhiên bơm vào. Để tránh tạp chất gây ô nhiễm, anh cho qua một bể lọc (có cát, than, sỏi …) hàng ngày có một vài lần bơm phun mưa tạooxy từ nước suối tự nhiên hay từ chính bể nuôi bơm tuần hoàn. Phân thải, thức ăn thừa lắng ở đáy mỗi ngày anh đều dùng bàn cào gom lại và xả ra ngoài để giữ môi trường nước nuôi trong lành.

Bể anh đang nuôi 1.000 con, giống mua gom từ các đại lý mua chình thịt trong tỉnh. Mỗi con trung bình 100 g. Tổng số tiền đầu tư con giống là 25 triệu đồng. Hiện nay chưa cho chình bông sinh sản nhân tạo, chỉ khai thác từ trong tự nhiên.

Nuôi chình không khó, nên giữ cho nước nuôi trong lành, tạo thêm oxy, cho ăn đầy đủ – chình tiêu thụ thức ăn không nhiều lắm. Mỗi ngày anh Nghiệp cho ăn chừng 4kg cá tươi mua ở chợ về (giá 50.000 đồng). Cá chỉ lọc lấy thịt, cho ăn vào buổi tối. Thời gian này là lúc chình ra khỏi hang đi ăn khắp bể, ban ngày thì chui vào hang ẩn nấp. Ngoài ra còn cho ăn nhái bắt ngoài tự nhiên. Tuy vậy, nếu nuôi đại trà, quy mô lớn hơn thì nguồn giống sẽ hiếm. Như vậy, vấn đề đặt ra là làm sao để chình sinh sản nhân tạo được thì mới phát triển chình bông nuôi đại trà, tăng thu nhập cho người nông dân.

Hoàng Lân (KHPT, 14/4/2006)

Kỹ thuật nuôi cá chình trong bể xi măng

Cá chình có giá trị kinh tế cao, (giá thương phẩm có lúc lên đến 240.000 đ/kg) thích hợp với nhiều mô hình nuôi. Nhiều tỉnh miền Trung đang phát triển hình thức nuôi trong bể xây bằng gạch hoặc xi măng cho năng suất cao. Đây là hình thức nuôi cao sản, vì vậy đòi hỏi phải có các điều kiện nhất định. Trung tâm Khuyến ngư Ninh Thuận có những khuyến cáo sau:

Phải có dòng nước chảy trong ao, nuôi bằng thức ăn công nghiệp chế biến riêng cho cá chình; được quản lý chăm sóc chu đáo; mật độ 20 – 25 con/m2, mật độ cao 300 – 350 con/m2. Bảo đảm các chỉ tiêu trên, năng suất có thể đạt được 30 – 45 tấn/ha (tức 3 – 4,5 kg/m2), năng suất cao có thể đạt 105 – 120 tấn/ha (tức 10,5 – 12 kg/m2).

Thức ăn nuôi cá chình phải có tỷ lệ đạm 45%, mỡ 3%, cellulose 1%, calci 2,5%, phosphor 1,3% cộng thêm muối khoáng, vi lượng, vitamin thích hợp. Nói chung tỷ lệ bột cá chiếm khoảng 70 – 75%, tinh bột 25 – 30% và một ít vi lượng, vitamin. Thức ăn của cá có tỷ lệ bột cá khá cao, mỡ nhiều nên dễ hút ẩm, dễ mốc, phải chú ý bảo quản tốt, thời gian bảo quản không quá 2 tháng. Với cá giống, khi cho ăn, thức ăn phải được thêm nước, thêm dầu dinh dưỡng trộn đều làm thành loại thức ăn mịn mới cho cá ăn. Các tỷ lệ thức ăn dầu, nước, phụ thuộc vào điều kiện nhiệt độ như sau :

Sau khi trộn đều 5 phút cho cá ăn ngay, khoảng 2/5 số thức ăn nổi trên mặt nước, 3/5 rơi xuống khay đựng thức ăn là được. Tỷ lệ thức ăn so với trọng lượng cá chình ở các giai đoạn như sau:

Cứ sau mỗi tháng phân cỡ một lần, tách con lớn, con nhỏ nuôi riêng để cá phát triển đồng đều. Trước khi phân cỡ để cá nhịn ăn từ 1 – 2 ngày, đùa ao để cá bài tiết hết thức ăn trong bụng. Dùng vợt phân loại chứ không bắt bằng tay. Có thể nuôi ghép cá chình với cá mè, cá trắm. Mật độ cá mè, cá trắm là 4.000 – 5.000 con/ha. Cho cá ăn 1 – 2% trọng lượng cá chình có trong ao. Khi nuôi ghép cần chú ý: Đáy ao là cát hoặc bùn. Bờ ao phải cao hơn mặt nước ít nhất 60 cm, ao không rò rỉ, pH>6,8 và ít bị ảnh hưởng của nước mưa. Không nuôi ghép trong ao cá giống. Cá chình giống khỏe mạnh, không dùng giống để lại của năm trước. Khi thu hoạch, thu cá mè, trắm trước bằng lưới sau đó tháo cạn nước, để lại 10 – 20 cm nước để thu cá chình. Lợi dụng đặc điểm hướng quang của cá, ban đêm thắp đèn sáng tập trung cá lại, dùng vợt hoặc có thể dùng lưới điện để thu hoạch.

Nuôi cá chình trong ao đất cần chú ý: Chọn ao có bờ cao hơn mặt nước lúc cao nhất 60 cm trở lên, phần trên bờ ao từ 60 – 80 cm, xây gạch hoặc có gờ lưới không cho cá vượt ra khỏi ao, đáy ao là cát hoặc cát bùn, bờ và đáy ao không thẩm lậu, rò rỉ, tháo và lấy nước thuận tiện, gần nguồn điện để chạy máy sục khí hoặc chế biến thức ăn cho cá. Số lượng cá giống lúc thả 120.000 – 150.000 con/ha, cỡ từ 10 – 15 g/con. Lượng thức ăn hằng ngày bằng 2 – 3% trọng lượng cá trong ao. Nuôi trong ao đất không cần phân cỡ như trong bể xây, quản lý chăm sóc hàng ngày như ao nuôi cá giống, năng suất trung bình 20 – 25 tấn/ha.

PHƯƠNG DUY (BPY, 23/3/2006)

Kinh nghiệm nuôi cá chình trên sông

Cũng như nhiều hộ dân ở thôn Phước Lộc Tây, xã Tịnh Sơn, huyện Sơn Tịnh (Quảng Ngãi), tận dụng nguồn nước chảy quanh năm của dòng sông Trà Khúc, 9 năm qua ông Trần Kim Sanh đang có thu nhập cao, ổn định (mỗi năm thu lãi trên 100 triệu đồng) nhờ nuôi cá chình trong lồng bè ven sông, sau đây là kinh nghiệm quý báu về nuôi cá chình qua nhiều năm của ông Sanh để bà con tham khảo.

  1. Thiết kế lồng nuôi và chọn vị trí đặt lồng:

Do đoạn sông đặt lồng nước chảy mạnh (lưu tốc dòng chảy >0,5m/s, mùa nước lũ, nước chảy mạnh hơn nhiều), nên ông Sanh thiết kế lồng chiều dài dài hơn chiều rộng 3-4 lần để giảm lực cản của dòng chảy, đầu lồng phía dòng chảy làm mũi tên cho nước chảy sang 2 bên. Lồng được thiết kế làm bằng Inox, đục lỗ thoát nước, bên ngoài ốp khung tre để tăng độ cứng và độ bền cho lồng. Mỗi lồng ông thiết kế 9-10m3 nước (1,5 x 5 x 1,2).

Vị trí đặt lồng là nơi nước chảy thẳng, không quẩn, lưu tốc dòng chảy 0,3-0,5m/s, pH từ 7,5-8, oxy hòa tan > 4mg/lít, độ trong 30-40cm, nhiệt độ thích hợp 25-32 độ C. Có chỗ neo buộc lồng chắc chắn, đáy sông nơi đặt lồng là cát, sỏi. Đáy lồng cách đáy sông tối thiểu 1,0m.

  1. Chọn và vận chuyển giống:

Theo kinh nghiệm của ông, chọn cá khỏe mạnh, da bóng, màu sắc tự nhiên, nhiều nhớt, không bị bệnh, không xây sát, cỡ đồng đều; chọn giống đã qua ương dưỡng để hạn chế hao hụt, cỡ giống tốt nhất là từ 5-10con/kg. Nếu vận chuyển xa phải đóng túi nilon bơm oxy với nhiệt độ nước trong túi đảm bảo từ 8-12 độ C, trước khi vận chuyển cá, phải cho cá cho nhịn ăn 1-2 ngày và luyện cá trong môi trường chật hẹp.

  1. Quản lý, chăm sóc:

Trước khi thả cá, ông Sanh tiến hành tắm phòng bệnh bằng một số dung dịch, hóa chất sau:

  • Muối ăn, liều lượng 3% (10lít nước, cho 300g muối, hòa tan), thả cá vào, thời gian 10-15 phút;
  • KMnO4 liều lượng 1-3mg/lít nước, thời gian 10-15 phút;
  • Formaline liều lượng 1-3mg/lít nước, thời gian 10-15 phút.

Hiểu được tập tính của cá là sống ở hang, hốc, gốc cây, gềnh đá, nên dưới đáy lồng ông đặt các ống nhựa để cá chình trú ẩn.

Ông thả cá chình giống với mật độ 15 con/m3, thức ăn là cá tạp, giun, ốc, tôm, tép thái vừa cỡ miệng cá. Ông cho biết, thức ăn phải tươi, không ôi thiu, không ướp hóa chất độc hại. Trước khi cho ăn ngâm thức ăn vào nước muối 10%, sau đó rửa lại nước ngọt, rồi cho cá ăn (cho ăn 4 đúng: đúng chất lượng, đúng số lượng, đúng thời gian, đúng vị trí). Ông đặc biệt chú ý đến khẩu phần ăn của cá, liều lượng thức ăn phải đảm bảo từ 7-10% khối lượng cá trong lồng, nếu nhiệt độ nước 25-32 độ C; nhiệt độ dưới 25 độ C và cao hơn 33 độ C thì giảm thức ăn. Sau 60 phút cho ăn thì kiểm tra thức ăn, nếu cá ăn hết là vừa, cứ 10 ngày điều chỉnh tăng thức ăn, số lượng tăng thêm dựa vào số lượng thức ăn tiêu thụ, cứ 7 kg thức ăn tăng thêm 1kg cá.

Khu vực đặt lồng nuôi cá trên sông Trà Khúc.

Cá chình thương phẩm của gia đình ông Sanh.

  1. Phòng và trị bệnh cho cá:

Theo ông Sanh, cá chình ít bị bệnh, tuy nhiên khi cho cá ăn thức ăn ôi thiu, môi trường nước ô nhiễm thì cá dễ bị bệnh.

  • Phòng bệnh:

Ông Sanh xác định phòng bệnh và chính nên ông thường xuyên theo dõi sức khỏe của cá để cho ăn phù hợp, giữ cho môi trường nước trong sạch, không để ô nhiễm nước, mỗi năm vệ sinh lồng một lần, trộn thêm vitamin C và men tiêu hóa vào thức ăn để kích thích sinh trưởng, giảm hệ số thức ăn, rút ngắn thời gian nuôi cá.

  • Trị bệnh:

Ông Sanh cho biết, cá chình thường mắc một số bệnh như: bệnh xuất huyết, bệnh trắng da, bệnh nấm thùy mi.

Đối với bệnh xuất huyết là bệnh do vi khuẩn gây ra, bệnh xuất hiện quanh năm, dấu hiệu bị bệnh là bên ngoài cá bị nốt đỏ, lúc đầu nhỏ sau đó dẫn đến lở loét, xuất hiện nhiều ở hậu môn, sau đó lan ra toàn thân, ông Sanh trị bệnh bằng cách trộn kháng sinh: Doxycyline hoặc Florphecol cho cá ăn.

Đối với bệnh trắng da là bệnh có dấu hiệu trên thân có nốt trắng, ông trị bệnh bằng cách trộn kháng sinh vào thức ăn cho cá, bắt lên tắm nước muối 3%.

Đối với bệnh nấm thùy mi, thường có dấu hiệu: chỗ viêm, loét có sợi nấm trắng như bông bám vào, ông tắm nước muối hoặc formaline trong thời gian từ 10-15 phút để trị bệnh.

  1. Thu hoạch:

Trước khi thu hoạch ông Sanh cho cá nhịn ăn 1-2 ngày, không sử dụng kháng sinh trước khi bán 15 ngày. Với thời gian nuôi 12 tháng, năm 2013 ông thu hoạch cá cỡ trung bình 1 kg/con, với 27 m3 lồng ông thu sản lượng 390kg cá thương phẩm, giá bán 450.000 đồng/kg, doanh thu 175,5 triệu đồng, trừ chi phí ông còn lãi 119 triệu đồng, nếu có điều kiện nuôi cá to hơn giá bán sẽ cao hơn.

Hiện nay ở thôn Tây (xã Tịnh Sơn, huyện Sơn Tịnh) có trên 70 lồng của 50 hộ, hầu hết các hộ nuôi cá lồng ở đây đều có rất ít đất nông nghiệp để sản xuất, quanh năm sống bằng nghề nuôi cá lồng. Mặc dù nuôi cá trên sông Trà Khúc có lợi nhuận cao là vậy, nhưng bà con luôn lo sợ nguồn nước bị đầu độc, tháng 4 năm 2014 do nhà máy chế biến củ mỳ phía trên xả thải nên toàn bộ cá trên sông Trà Khúc bị chết hết, cá nổi trắng sông, không những gây ô nhiễm môi trường mà còn hủy hoại tất cả các loài thủy sản sinh sống trên sông, làm chết cá của 70 hộ nuôi cá lồng của xã Tịnh Sơn, thiệt hại hàng tỷ đồng, các hộ dân nuôi cá lồng đã kêu cứu, nhưng đến nay vẫn chưa thấy chính quyền và cơ quan chức năng có giải pháp khắc phục. Chúng tôi khẩn thiết đề nghị các cơ quan chức năng có biện pháp xử lý các đơn vị xả thải tùy tiện gây ô nhiễm môi trường, gây thiệt hại cho bà con nuôi cá lồng tại đây. Đề nghị Sở Nông nghiệp Quảng Ngãi xây dựng mô hình nuôi cá rô phi diêu hồng bằng lồng, bè tại đây nhằm đa dạng đối tương nuôi, cá diêu hồng là loại dễ nuôi, ít bệnh và cho hiệu quả cao, bà con nơi đây có thể làm giàu bằng nghề nuôi cá lồng trên sông Trà Khúc nếu được Nhà nước quan tâm hỗ trợ ban đầu.

Kim Văn Tiêu – PGĐ Trung tâm Khuyến nông Quốc gia – Khuyến nông VN, 05/09/2014

Kỹ thuật nuôi cá chình

Cá chình là loài cá có thịt ngon, có giá trị kinh tế cao, cá có khả năng thích ứng rộng với độ mặn. Chúng có thể sống cả ở nước mặn, lợ, ngọt. Cá Chình có thể được nuôi trong những ao nhỏ và vừa nên các hộ dân có thể tận dụng những ao, đìa xung quanh nhà hoặc từ mô hình “Cải tạo vườn tạp” để phát triển nuôi loài cá này. Gần đây cá Chình được xem là đối tượng nuôi dễ, mang lại hiệu quả, ít rủi ro. Sau đây, chúng tôi xin giới thiệu mô hình nuôi cá Chình trong ao đất. Trong quá trình nuôi, người nuôi cần phải chú ý đến một số đặc điểm quan trọng trong quy trình kỹ thuật nuôi như sau:

Thiết kế và xây dựng ao

Tùy theo điều kiện và khả năng thực tế sản xuất của nông hộ mà bố trí ao nuôi cho phù hợp. Diện tích tốt nhất là khoảng 200-1000m2, nên bố trí ao nuôi dốc về phía cống thoát nước. Cần phải có ao chứa nước dự phòng để tiện trong việc, xử lý, cấp nước khi cần thiết.

Chọn ao có bờ cao hơn mặt nước từ 60 cm trở lên và xung quanh ao phải rào lưới cao 50cm để tránh cá thoát ra ngoài, bờ ao không thẩm lậu, rò rỉ. Ðáy ao là cát hoặc cát bùn, độ sâu từ 1,5 – 1,8m. Nên nên bố trí ống bọng bằng sành hoặc nhựa vào trong ao để cá có chỗ cư trú.

Cải tạo ao

Ao cần được tát cạn, sên vét bùn đáy, rãi vôi CaCO3 (vôi công nghiệp) từ 50-100kg/1000m2 tùy theo pH đất.

Phơi đáy ao từ 5-7 ngày (đối với những vùng đất có phèn tiềm tàng thì bà con nên phơi 2 ngày rồi cấp nước vào để tránh hiện tượng xì phèn). Sau đó cấp nước vào đầy ao nuôi, lưu ý cần phải lọc để nước đạt độ sâu 1,5-1,8m rồi xử lý ao bằng thuốc tím 2-4kg/1000m2. sau 2 ngày ta tiến hành gây màu nước để ổn định chất lượng nước trong ao, tạo nên môi trường phù hợp với tập tính sống của cá. Có thể bón phân DAP hoặc NPK ( hòa tan trong nước) với liều lượng 1-2kg/1000m2 hòa tan tạt vào lúc 8h sáng liên tục trong 2-3 ngày đến khi nước có màu xanh đọt chuối, độ trong 30-40cm, p H : 7.5 – 8.5 thì đạt yêu cầu.

Cá Chình thường không thích ánh sáng, cho đặt các vật như ống sành, ống nhựa hoặc thả chà khô… để chúng trú ẩn.

Chọn và thả giống

Chọn giống: cần chọn mua cá từ các cơ sở cung cấp giống uy tín. Cá giống khỏe, da bóng, nhiều nhớt, không bệnh tật. do nguồn giống chủ yếu được đánh bắt từ tự nhiên, cô bác cần lưu ý tránh mua cá đánh bắt bằng câu, xung điện …khi thả thì tỷ lệ hao hụt rất cao. Có thể chọn giống cá ương tại địa phương từ cá hương lên cá 10con/kg, cá này ít hao hụt, tỷ lệ sống cao và phù hợp với điều kiện tại địa phương.

Trọng lượng cá thả tốt nhất từ 5 – 10con/kg là tốt nhất.

Mật độ thả: từ 0.5-1con/m2.

Vận chuyển cá giống

Vận chuyển bằng túi nilông có bơm ôxy

* Chú ý :

  • Trước khi vận chuyển 1 ngày không cho cá ăn, cần nhốt cá vào giai, đặt chỗ nước trong, có dòng chảy để luyện 24-26 giờ cho cá quen môi trường chật hẹp;
  • Phải hạ nhiệt độ cho cá xuống 8-10oC, mới cho đóng vào túi, làm cho cá ở trạng thái ngủ, ít hoạt động, nhiệt độ hạ từ từ, không vượt quá 5 – 8oC một lần;
  • Khi đóng túi mật độ không được vượt quá 5kg/túi; ôxy không được quá ít cũng không được quá nhiều đều không có lợi cho cá; không được đè vật nặng lên trên túi giấy; tính toán thời gian vận chuyển hợp lý cho mỗi lần vận chuyển; nếu thời gian vận chuyển quá dài phải mở túi ra thay nước, bơm lại ôxy; thời gian vận chuyển quá dài, mật độ vận chuyển phải giảm tương ứng;
  • Vận chuyển đến nơi, thả cả túi nilon xuống ao để nhiệt độ trong, ngoài túi bằng nhau mới mở túi cho cá ra ngoài.

Trước khi thả cần dùng 1 trong 3 loại hoá chất để tắm cho cá :

  • KMnO4 : 1 – 3 ppm;
  • CuSO4 : 0,3 – 0,5ppm;
  • Formalin : 1 – 3 ppm.

Hoặc ngâm cá trong dung dịch nước muối 15 – 30 %o từ 15 – 30 phút.

*Quản lý chăm sóc.

Cần phải quản lý các vấn đề sau:

a) Quản lý hằng ngày:

Cá Chình là đối tương nuôi mới, hằng ngày phải thường xuyên theo dõi quá trình hoạt động của cá để có biện pháp xử lý kip thời khi tình huống xấu xảy ra. Theo dõi thật kỹ từ cách cho ăn đến sự biến đổi môi trường (đặc biệt pH, khí độc).

b) Quản lý thức ăn: cần tuân thủ các vấn đề sau:

Thức ăn cho cá Chình bao gồm giun, ốc, cá tạp…cần băm nhỏ cho vừa cỡ miệng cá. Để cá dễ ăn và tránh nhiễm bệnh ký sinh từ cá tạp, nên nhúng cá qua nước muối sau đó xã lại nước ngọt rồi đem cho cá ăn. Khi cá còn nhỏ, thức ăn nên xay ra để cá dễ ăn. Để quản lý thức ăn hàng đ hiệu quả cấn lưu ý một vấn đề sau:

  • Thức ăn cần tươi, sạch (tránh mua thức ăn đả qua ốp hóa chất).
  • Phải xác định vị trí đặt sàn hợp lý.
  • Phải canh thức ăn không để quá dư (ở nhiệt độ nước khoảnh 25 oC lượng thức ăn cho ăn một ngày đêm từ 5 – 10% tổng trọng lượng cá trong ao. Nếu nhiệt độ thấp hơn 25 oC hoặc cao hơn 34oC thì phải giảm bớt lượng cho ăn trong ngày. Thường lấy mức cá cho ăn trong 1giờ làm chuẩn, điều chỉnh lượng thức ăn sao cho cá ăn hết trong 1giờ làvừa. Do cá lớn dần nên cách 10 ngày phải tăng lượng thức ăn lên 1 lần. Tùy vào thời tiết, giai đoạn cụ thể mà điều chỉnh thức ăn cho phù hợp. Cá thường ăn mạnh vào nhũng ngày nắng tốt, có gió và giảm ăn vào những ngày âm u có mưa, lặng gió) ..
  • Phải cho ăn đúng giờ. Không nên thay đổi thức ăn một cách đột ngột mà phải thay đổi từ từ.
  • Cho ăn một cử trong ngày sáng hoặc chiều mát.(sàn cho cá ăn là khung hình vuông làm bằng sắt, kích cở tốt nhất rộng 1m2 cao 20cm, căng bằng lưới cước)

c) Quản lý môi trường:

Chủ yếu là quản lý các yếu tố:

Quản lý pH: cần khống chế ở 7.5-8.5.

Oxy hòa tan: cần duy trì từ 3mg/l trở lên

Độ trong: gây màu nước hoặc thay nước để điều chỉnh độ trong thích hợp 30-40cm.

Nhiệt độ: thích hợp tự 25-34 C.

Chúng ta thay nước khi thật sự cần thịết. Bởi vì, cá chình rất mẫn cảm với sự thay đổi môi trường. Mỗi lần thay không vượt quá 20% lượng nước trong ao.

Vào những ngày nắng nóng, tốt nhất chúng ta nên lấy nước vào lúc nữa đêm đến sáng sớm để tránh cho cá bị sốc do môi trường thay đổi đột ngột dẫn đến cá bỏ ăn, dễ sinh bệnh.

TRUNG TÂM KHUYẾN NGƯ BẠC LIÊU ( 21/8/2007)

Kỹ thuật nuôi cá chình thương phẩm

Nuôi trong bể xây bằng gạch hoặc bằng xi măng. 

Ðây là hình thức nuôi cao sản, vì vậy đòi hỏi phải có các điều kiện sau đây :

  • Phải có dòng nước chảy trong ao;
  • Phải nuôi bằng thức ăn công nghiệp chế biến riêng cho cá chình;
  • Phải được quản lý chăm sóc chu đáo;
  • Mật độ 20 – 25 con/m2, mật độ cao 300 – 350 con/m2.

Bảo đảm các chỉ tiêu trên, năng suất có thể đạt được 30 – 45 tấn/ha (tức 3 – 4,5 kg/m2) năng suất cao có thể đạt 105 – 120 tấn/ha (tức 10,5 – 12 kg/m2).

Thức ăn nuôi cá chình phải có tỷ lệ đạm 45%, mỡ 3%, cellulo 1%, can xi 2,5%, phôtpho 1,3% cộng thêm muối khoáng, vi lượng, vitamin thích hợp. Nói chung tỷ lệ bột cá chiếm khoảng 70 – 75%, tinh bột 25 – 30% và một ít vi lượng, vitamin.

Thức ăn của cá có tỷ lệ bột cá khá cao, mỡ nhiều nên dễ hút ẩm, dễ mốc, phải chú ý bảo quản tốt, thời gian bảo quản không quá 2 tháng.

Cũng như với các giống, khi cho ăn, thức ăn phải được thêm nước, thêm dầu dinh dưỡng trộn đều làm thành loại thức ăn, mịn mới cho cá ăn.

Các tỷ lệ thức ăn dầu, nước, phụ thuộc vào điều kiện nhiệt độ như sau:

Ðơn vị : kg

Nhiệt độ Thức ăn Dầu Nước
15 – 20 C 100 3-5 110 – 130
20 – 23 C 100 5-7 110 – 130
23 – 30 C 100 7-10 110 – 130

Sau khi trộn đều 5 phút cho cá ăn ngay, khoảng 2/5 số thức ăn nổi trên mặt nước, 3/5 rơi xuống khay đựng thức ăn là được.

Tỷ lệ thức ăn so với trọng lượng thân cá chình ở các giai đoạn như sau: 

Cỡ cá Cá bột Cá hương

Cá giống

Cá cỡ nhỏ Cá thương phẩm
Trọng lượng cá (g) 0,2- 0,8 1-1,5 16-40 40-100 150-200
Thức ăn (%) 6-10 4-6 3-4 2,8-3 2-2,5

Cứ sau mỗi tháng phân cỡ một lần, tách con lớn, con nhỏ nuôi riêng để cá đồng đều và chóng lớn.

Trước khi phân cỡ để cá nhịn từ 1 – 2 ngày, đùa ao để cá bài tiết hết thức ăn trong bụng, dùng sàng nhẵn để phân loại cá, dùng vợt không dùng tay bắt cá.

Quản lý nước ao như giai đoạn ương cá giống.

Nuôi ghép với các loài cá khác.

Có thể nuôi ghép cá chình với cá mè, cá trắm. Mật độ cá mè, cá trắm là 4.000 – 5.000 con/ha, mỗi ngày cho cá ăn 1-2% trọng lượng cá chình có trong ao, còn lại ăn động vật đáy trong ao.

  • Chú ý :

Ðáy ao là cát hoặc cát bùn. Bờ ao phải cao hơn mặt nước ít nhất là 60cm, ao không rò rỉ, nước trong sạch, pH>6,8, ít bị ảnh hưởng của nước mưa.

Không nuôi ghép trong ao cá giống mè, trắm.

Giống cá chình phải đều cỡ khoẻ mạnh, không dùng giống cá loại của năm trước để lại. Thu hoạch cá mè, cá trắm trước bằng lưới sau đó tháo cạn nước, để lại 10-20 cm để thu hoạch cá chình.

Lợi dụng đặc điểm hướng quang của cá, ban đêm thắp đèn sáng tập trung cá lại rồi dùng vợt xúc. Hoặc cũng có thể dùng lưới điện để thu hoạch.

Năng suất trung bình từ 1,2 – 1,3 tấn/ha.

Nuôi trong ao đất.

Chọn ao có bờ cao hơn mặt nước lúc cao nhất 60 cm trở lên, phần trên bờ ao từ 60 – 80 cm, xây gạch hoặc có gờ lưới không cho cá vượt ra khỏi ao, đáy ao là cát hoặc cát bùn, bờ và đáy ao không thẩm lậu, rò rỉ, tháo và lấy nước thuận tiện, gần nguồn điện để chạy máy sục khí hoặc chế biến thức ăn cho cá.

Số lượng cá giống lúc thả 120.000 – 150.000 con/ha, cỡ từ 10 – 15 g/con. Lượng thức ăn hằng ngày bằng 2-3% trọng lượng cá trong ao.

Nuôi trong ao đất không cần phân cỡ như trong bể xây, quản lý chăm sóc hàng ngày như ao nuôi cá giống, năng suất trung bình 20 – 25 tấn/ha.

Theo Thông tin KHCN Thuỷ Sản

Ương nuôi cá chình hương lên cá giống

Ương từ cá vớt được ngoài tự nhiên có trọng lượng 0,5 – 1 g/con lên cỡ 10 – 15 g/con. Quá trình gồm các bước:

Tiêu độc cho cá.

Dùng 1 trong 3 loại hoá chất để tiêu độc cho cá :

  • KMnO4 : 1 – 3 ppm;
  • CuSO4 : 0,3 – 0,5ppm;
  • Formalin : 1 – 3 ppm.

Hoặc ngâm cá trong dung dịch nước muối 5 – 7%o, từ 1 – 2 ngày, hoặc 15 – 30 %o từ 15 – 30 phút.

Ao ương.

  • Diện tích ao ương thứ nhất 50-100m2, nước sâu từ 50-60 cm;
  • Diện tích ao ương thứ hai 100 – 200m2, nước sâu từ 70 – 80cm;
  • Diện tích ao ương tháng thứ ba 300 – 400m2, nước sâu từ 70 – 80 cm.

Nhiệt độ nước ao.

Tốt nhất là 28oC, dưới 22oC cá dễ bị bệnh nấm thuỷ mi bám quanh thân. Nếu nhiệt độ khống chế được ở phạm vi 25 – 29oC, cộng các điều kiện quản lý chăm sóc tốt, tỷ lệ sống có thể đạt 80 – 95% và 20% cá nuôi trong năm (từ cá hương) có thể thành cá thương phẩm.

Mật độ.

0,3 – 0,5 kg cá hương/m3 nước bể ương.

Cho ăn.

  • Ngày thứ nhất đến ngày thứ hai cho ăn Cladocera;
  • Ngày thứ ba đến ngày thứ tư cho ăn hồng trần;
  • Ngày thứ năm cho ăn hồng trần nghiền vụn trộn với 10 – 30% thức ăn tổng hợp. Sau đó mỗi ngày tăng thêm 10% thức ăn tổng hợp đến ngày thứ 10 thức ăn tổng hợp chiếm 80%. Từ ngày thứ 15 trở đi hoàn toàn dùng thức ăn tổng hợp. Lượng thức ăn tổng hợp được tính bằng 10 – 15% trọng lượng cá trong ao, ngày cho ăn 2 lần vào lúc 7 – 8 giờ sáng và 4 – 5 giờ chiều.

Giai đoạn cho ăn hồng trần, lượng hồng trần được tính bằng 30 – 35% trọng lượng cá trong ao và ngày cho ăn 3 lần vào sáng, chiều, tối.

Nếu nhiệt độ dưới 15oC chỉ cho ăn 1 lần hoặc không cho ăn.

Khi cho ăn không sục khí, tập dần cho cá chỉ ăn ban ngày và khu vực cho cá ăn không cần che tối.

Thức ăn phải mềm cá mới ăn được nhưng không quá mềm dễ tan trong nước.

Nên thêm dầu dinh dưỡng vào thức ăn và trộn đều rồi mới cho cá ăn.

Tỷ lệ thức ăn, dầu dinh dưỡng và nước để trộn thức ăn có quan hệ mật thiết với nhiệt độ, theo bảng dưới đây:

Ðơn vị : kg

Nhiệt độ Thức ăn Dầu Nước
< 18oC 100 0 130
18 – 23oC 100 3-5 170
> 23oC 100 5-8 200

Quản lý chăm sóc.

Phải đảm bảo ao ương đạt các chỉ tiêu sau:

a) Các chỉ tiêu hoá học trong ao ương.

  • Mặc dù có khả năng chịu đựng hàm lượng ôxy thấp rất tốt, nhưng để cá chóng lớn hàm lượng ôxy hoà tan trong nước tốt nhất phải đạt 5 mg/l trở lên, dưới 4 mg/l cá không lớn được;
  • pH = 7 – 8,5;
  • NH4 – N : <2 ppm, NO3-N : <0,2 ppm;
  • Vượt quá chỉ tiêu trên cá sẽ bị bệnh viêm nang, viêm ruột;
  • Ðộ trong trên dưới 40 cm, không được dưới 20 cm.

b) Quản lý hằng ngày.

  • Hằng ngày phải xi phông đáy ao, hút bớt phân rác ở đáy ao làm giảm lượng NH4 – N gây độc cho cá, sau đó bổ sung nước mới, lượng nước mới được bổ sung hằng ngày bằng 1/2 lượng nước trong ao;
  • Ðặt máy sục khí tăng ôxy hoà tan trong nước. Máy sùc khí có thể dùng bơm nén khí 0,03m3/giây, mỗi máy dùng cho 40 viên đá bọt. Cứ 2,5 m3 nước dùng 1 viên đá bọt đủ đảm bảo mỗi lít nước 5 mg ôxy hoà tan.
  • Hoặc có thể dùng máy quạt nước, mỗi ao đặt 2 máy 0,55 KW vừa cấp khí vừa tạo thành dòng chảy trong ao.

c) Phân loại cá để nuôi.

  • Quá trình ương nuôi cá phân đàn rất nhanh nên phải phân loại kích cỡ lớn, bé để nuôi tiếp cho thích hợp, thông thường 25 – 30 ngày phân cỡ một lần, nếu cá lớn nhanh thời gian phân đàn có thể rút ngắn hơn nữa;
  • Trước khi phân đàn 12 tiếng không cho cá ăn. Sau khi phân loại xong nửa tiếng cho cá ăn lại như bình thường.

d) Có thể nuôi ghép cá chình với các loại cá khác.

  • Cá chình có thể nuôi với cá mè trắng, mè hoa, cá chép, cá diếc để ăn sinh vật phù du trong ao, làm sạch nước ao có lợi cho cá chình và thu thêm được sản phẩm trong ao nuôi;
  • Tỷ lệ thả ghép là cứ mỗi 100m2 ao ương cá chình thả thêm 4 – 5 con vừa mè trắng, mè hoa, cá chép hoặc cá diếc.

Thông tin KHCN Thuỷ Sản

Khai thác và vận chuyển cá chình hương

Khai thác cá chình hương:

Có ba phương pháp khai thác cá chình hương ngoài tự nhiên là:

  • Dùng đèn tập trung cá theo tập tính huớng quang của nó vào ban đêm rồi dùng vợt để vớt.
  • Ðặt lưới đăng cố định ở cửa sông nơi có cá con phân bố để đánh bắt;
  • Dùng 2 thuyền lưới vây để vây cá ở cửa sông ven biển rồi phân loại giữ lại cá chình còn cá khác thì bỏ đi.

Vận chuyển cá chình hương:

Có hai phương pháp vận chuyển cá chình hương từ nơi khai thác đến nơi ương cá giống:

Vận chuyển bằng khay gỗ.

  • Kích thước khay (dài x rộng x cao) = 60 x 40 x 15cm. Ðáy khay ở dưới đục lỗ và lót lưới cho cá khỏi tuột ra ngoài, 5-6 khay chồng lên nhau thành một chồng khay, khay trên cùng đựng nước đá, nước đá chảy ra làm ướt cá ở các khay phía dưới vừa hạ nhiệt độ vừa giữ độ ẩm cho da cá, để cá hô hấp;
  • Mật độ vận chuyển, với kích thước khay như trên, nếu cá hương thuộc loại còn màu trắng mỗi khay có thể vận chuyển 1,5 kg cá. Nếu cá đã chuyển sang màu đen, mỗi khay vận chuyển 2 – 4kg cá.

Vận chuyển bằng túi nilông có bơm ôxy

Túi 2 lớp có kích thước 33 x 33 x 70cm, sau khi cho nước, cho cá, bơm ôxy đóng túi lại cho vào thùng giấy kích thước 66 x 33 x 36 cm để vận chuyển. Mỗi thùng hai túi ni lông chứa cá giữa hai túi cá là một túi đựng nước đá để hạ nhiệt cho cá.

Với việc đóng gói như trên, thời gian vận chuyển an toàn là 24 giờ.

  • Chú ý :
  • Trước khi vận chuyển 1 ngày không cho cá ăn, cần nhốt cá vào giai, đặt chỗ nước trong, có dòng chảy để luyện 24-26 giờ cho cá quen môi trường chật hẹp;
  • Phải hạ nhiệt độ cho cá xuống 8-10oC, mới cho đóng vào túi, làm cho cá ở trạng thái ngủ, ít hoạt động, nhiệt độ hạ từ từ, không vượt quá 5 – 8oC một lần;
  • Khi đóng túi mật độ không được vượt quá chỉ tiêu trên; ôxy không được quá ít cũng không được quá nhiều đều không có lợi cho cá; không được đè vật nặng lên trên túi giấy; tính toán thời gian vận chuyển hợp lý cho mỗi lần vận chuyển; nếu thời gian vận chuyển quá dài phải mở túi ra thay nước, bơm lại ôxy; thời gian vận chuyển quá dài, mật độ vận chuyển phải giảm tương ứng;
  • Vận chuyển đến nơi, thả cả túi nilon xuống ao để nhiệt độ trong, ngoài túi bằng nhau mới mở túi cho cá ra ngoài.

Thông tin KHCN Thuỷ Sản

Kỹ thuật nuôi cá chình hoa

Thử nghiệm nuôi cá chình hoa trong lồng bằng các loại thức ăn khác nhau

Đây là đề tài của nhóm tác giả Nguyễn Phi Nam, Phạm Thị Phương Lan, Nguyễn Văn Huy, Trần Quốc Thịnh thuộc Đại học Huế. Cá chình hoa (Anguilla marmorata) được nuôi thử nghiệm trong lồng nổi ở hồ Hòa Mỹ (Phong Điền, Thừa Thiên Huế) với hai loại thức ăn là cá tạp tươi và thức ăn công nghiệp. Theo dõi các yếu tố môi trường như nhiệt độ, pH, hàm lượng oxy hòa tan mặc dù có biến động nhưng đều nằm trong ngưỡng chịu đựng của cá. 

Kết quả thử nghiệm cho thấy, sau 16 tháng nuôi, cá được cho ăn bằng cá tạp tươi có trọng lượng trung bình 826,35 ± 61,35 g/con; cá nuôi bằng thức ăn công nghiệp đạt trọng lượng trung bình 538,4 ± 30,51 g/con. Tốc độ tăng trưởng của cá nuôi bằng các loại thức ăn khác nhau có sự sai khác có ý nghĩa thống kê (P < 0,05). Giá bán cá chình ở các kích cỡ khác nhau có sự chênh lệch nhau khá lớn và đã ảnh hưởng đến hiệu quả kinh tế ở các lô thí nghiệm. Cụ thể: lô nuôi bằng cá tạp giá bán 320.000 đ/kg đã cho lãi hơn 9,5 triệu đồng; lô nuôi bằng thức ăn công nghiệp giá bán là 290.000 đ/kg, khối lượng cá thu được ít nên đã bị lỗ hơn 17,5 triệu đồng. Điều này cho thấy việc nuôi cá chình sử dụng thức ăn tươi sống mang lại hiệu quả cao.

D. YẾN, Khoa học Phổ Thông, 29/10/2013

Công nghệ ương giống và nuôi thương phẩm cá chình hoa

Mô tả tóm tắt công nghệ

1.1. Quy trình công nghệ ương giống cá chình từ 6000 – 8000 con lên cỡ 200 – 300 con

  • Cá chình bột trắng được thu mua tại Phú Yên, Bình Định cỡ cá 6000 – 8000 con/kg
  • Các bước thực hiện:
  • Công trình ương
  • Bể được xây bằng gạch tốt nhất bằng đá chẻ, tô láng xi măng nhẵn
  • Thành bể có gờ vào trong 5-7 cm chống cá đi
  • Hình tròn đường kính 5 – 6 m
  • Độ sâu: 0,8 m
  • Đường cấp nước vào bể bên trên tạo dòng chảy tròn đường kính 110 có van điều tiết nước
  • Đường thoát nước: ở giữa bể đường kính phi 140 (có nắp đạy khoan lỗ thoát nước và không cho cá đi)
  • Mật độ thả: 2500 – 4000 con/m2
  • Chăm sóc quản lý
  • Thức ăn ngày 2 lần thức ăn tươi – thức ăn tổng hợp
  • Vệ sinh bể ngày/lần
  • Nước vào ra liên tục tạo dòng chảy
  • Phòng bệnh: Hàng tuần phải soi kính hiển vi phát hiện bệnh để kịp thời
  • Phân cỡ cá tháng 1 lần cá to đưa sang bể cấp 2 ương tiếp

1.2. Quy trình nuôi cá chình thương phẩm trong ao

  • Công trình
  • Tường ao xây đáy bể đất pha cát hoặc cát sỏi nện chặt
  • 4 góc ao bo tròn, trên thành ao có gờ (7- 10 cm) chắn cá khỏi đi
  • Diện tích 500 – 2000 m2
  • Hình dạng vuông hoặc chữ nhật
  • Độ sâu 1,3 – 1,5 m nước (tùy theo diện tích)
  • Đường cấp nước vào bể bên trên tạo dòng chảy tròn đường kính 140 có van điều tiết nước
  • Mật độ thả: 15 -20 con/m2
  • Chăm sóc quản lý
  • Thức ăn ngày 2 lần thức ăn tươi – chuyển đổi sang thức ăn tổng hợp (thức ăn công nghiệp)
  • Vệ sinh bể ngày/lần
  • Nước vào ra liên tục tạo dòng chảy
  • Phòng bệnh: Hàng tuần phải soi kính hiển vi phát hiện bệnh để kịp thời
  • Phân cỡ cá tháng 1 lần cá to đưa sang bể cấp 2 ương tiếp
  • Đường thoát nước: ở giữa bể đường kính phi 160 (có nắp đạy khoan lỗ thoát nước và không cho cá đi)
  • Thời gian nuôi: 24 tháng

1.3. Quy trình công nghệ nuôi cá cá Chình trong lồng

  • Cấu tạo lồng
  • Lồng lưới có kích thước mắt lưới: 2a = 1cm
  • Khung lồng: Bằng sắt hoặc không cần khung.kích thước: 2 x2 x2,5m hoặc 4×4 x 2,5m
  • Lồng được liên kết nhau bởi cây đà 0,06 x0,12x 6m để đi lại
  • Phao nổi: Thùng phi nhựa hoặc sắt kết xung quanh
  • Mật độ và quy cỡ giống thả
  • Mật độ: 20-25 con/m2
  • Cỡ giống thả: 50 -100 gram/con
  • Chăm sóc quản lý:
  • Cho ăn ngày 2 bữa: sáng – chiều
  • 2-3% khối lượng đàn cá. Thức ăn công nghiệp kết dính nổi
  • Vệ sinh lồng: 2-3 ngày/lần, cọ rửa xung quanh lồng
  • Hàng tuần xem xét bệnh cá, phòng bệnh
  • Thời gian nuôi: 18 -24 tháng
  • Cỡ cá thu hoạch: 1,5 -2 kg/con.

Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản III

Cảnh giác giống cá chình nhập khẩu

Nghề nuôi cá chình giúp nhiều nông dân ở khu vực bán đảo Cà Mau làm giàu. Do nhu cầu con giống ngày một tăng nên nhiều người đã nhập giống Trung Quốc về bán giá thấp.

KS Phan Văn Hùng, Chi hội Nghề nuôi cá chình VN cho biết: Trung Quốc không có giống cá chình mà phải nhập từ Philippines, Đài Loan, Indonesia… khoảng 5.000 – 6.000 con/kg, sau đó ương cho cá lớn từ 20 – 200 con/kg thì xuất bán qua VN theo đường hàng không.

Cá chình giống nhập từ Philiphines, Đài Loan, Indonesia da màu vàng nhưng đem về Trung Quốc ương dưỡng thì giống chuyển thành màu đen do bị ảnh hưởng của thuốc kháng sinh, khí hậu, nước, đất…

Ông Phan Văn Khanh, người nuôi cá chình ở xã Vĩnh Hải (Vĩnh Châu, Sóc Trăng) khuyến cáo không nên mua cá chình đen, bởi đó là giống ương tại Trung Quốc được nhập về bán rẻ hơn cá chình vàng VN 5.000 – 10.000 đ/con, nhưng nuôi hiệu quả không cao.

Cá chình giống Trung Quốc màu đen, nuôi không hiệu quả bằng giống trong nước

“Tôi đã từng mua giống cá chình bông (loại 25 con/kg) ương ở Trung Quốc do một Cty tại Mỹ Xuyên, Sóc Trăng nhập về thả nuôi. Cá không ăn 3 ngày rồi chết hàng loạt, mặc dù đã mời KS Phan Văn Hùng đến cứu”, ông Khanh cho biết.

Theo KS Phan Văn Hùng, cá chình Trung Quốc sử dụng quá nhiều thuốc kháng sinh, ảnh hưởng bởi thức ăn và môi trường nên nuôi chậm lớn, khi bị bệnh rất khó trị hoặc không trị được. Khi thu hoạch khó bán hoặc bán giá thấp.

Hiện tại một số Cty trong nước nhập giống cá chình Trung Quốc chuyển về Sóc Trăng bán cho các đại lý với giá rất thấp hơn. Các đại lý tiếp tục ương dưỡng bán cho người nuôi và thương lái. Giá cá chình thương phẩm cũng đang giảm (khoảng 330.000 đ/kg) là do Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản phải thu hoạch để tránh đông. Với mức giá này thì người nuôi vẫn có lãi nhưng không cao. Chính thiếu kênh thông tin về thị trường, thiếu nhà máy chế biến nên nghề nuôi cá chình thương phẩm của VN chưa bền vững.

KS Hùng phân tích: VN là vùng nhiệt đới có thể nuôi và thu hoạch cá chình quanh năm, người nuôi nên chọn thời điểm có giá mới thu hoạch, vừa dễ bán và bán được giá cao. Nuôi đã khó, bán lại càng khó hơn. Bình quân 1 con cá chình sau 9 tháng thả nuôi, thu hoạch tránh mùa đông thu lãi ròng hơn 100.000 đồng. Nếu bà nuôi bằng thức ăn công nghiệp và thức ăn tươi thì rất nhanh lớn và hiệu quả càng cao.

Thanh Phong, Nông nghiệp VN, 20/11/2013

Phòng và trị bệnh cho cá chình

Để phòng bệnh cho cá ta phải bắt đầu từ giai đoạn thả giống. Trước khi thả cá, ta cải tạo và xử lý nước thật kỹ bằng vôi công nghiệp. Cá giống trước khi thả nên tắm bằng muối (4 – 5kg/100 lít nước để diệt khuẩn, nấm, ký sinh trùng…). Đối với cá lớn thường có những bệnh sau:

Bệnh thối mang:

Nguyên nhân: Do vi khuẩn dạng sợi Myxococus piscicolas gam âm gây ra, do ao, lồng, bè không được vệ sinh tốt, quá nhiều mùn bã hữu cơ.

Triệu chứng: Vi khuẩn xâm nhập vào phá hoại mang cá làm cho mang bị viêm loét và nắp mang bị sưng đỏ, cung mang, sợi mang có mủ, nhiều nhớt, mang bị mòn dần, xuất huyết, hoại tử. Thông thường thối mang thường kết hợp với nhiễm trùng máu và xuất huyết.

Bệnh thối vây:

Do vi khuẩn Flexibacter columnaris gây ra. Bệnh này thường xảy ra khi nhiệt độ thấp trên dưới 15 độ C, cá bị stress hoặc thiếu dinh dưỡng.

Trên cá xuất hiện những đốm trắng nhất là phần đầu và vây. Vây bị đỏ, tia màng bị hoại tử hoặc tưa rách, cá giảm ăn. Bên cạnh đó cá bị nhiễm độc tố do vi khuẩn gây ra, sau đó vi khuẩn gây tổn thương vào hệ thống tuần hoàn. Cá bị bệnh này có thể chết hàng loạt trong vòng 48 giờ.

Bệnh xuất huyết:

Do vi khuẩn Psedomonas, Aeromonas spp. gây ra. Bệnh này xuất hiện quanh năm do thức ăn không được quản lý tốt. Khi bị bệnh, cá xuất hiện những nốt đỏ trên thân, quan sát rõ nhất là ở hậu môn và 2 tia vây dưới bụng.

Bệnh ký sinh trùng:

Bệnh nội ký sinh do giun ký sinh trong ruột lấy hết dinh dưỡng của cá. Bệnh làm cá ốm đầu to, màu sắc sậm, chậm lớn. Nếu xảy ra ở cá con sẽ làm cho chức năng của bóng hơi bị phá hủy, không khí từ bóng hơi vào xoang cơ thể, cá mất khả năng giữ thăng bằng, nếu nhiễm ở nhiệt độ thấp cá sẽ chết.

Để trị bệnh ta tiến hành xổ lãi cho cá liên tục từ 2 – 3 ngày bằng 1 trong các sản phẩm sau: Vime-Clean:1-1,5kg/200kg thức ăn; Kill-Site:1kg/20-30 tấn cá; Parasitol:1kg/9-10 tấn cá.

Bệnh ngoại ký sinh xuất hiện nhiều nhất vào lúc giao mùa hoặc trời mưa nhiều, nhiệt độ thấp. Do nấm thuỷ mi, trùng bánh xe, rận cá và sán lá…ký sinh trên da. Bệnh làm cho da cá bị loét, viêm, nhiễm dẫn đến cá bị tuột nhớt rồi chết.

Đối với bệnh này ta có thể dùng: Fresh water: 1kg/1.500m3; Kill-Algae: 1lít/1.000m3

Biện pháp phòng và trị bệnh tổng hợp các bệnh trên như sau: Chọn giống đồng cỡ, khỏe, tốt, không nhiễm bệnh. Nên mua giống ở những cơ sở có uy tín. Cá bệnh chết được chôn vào hố cách ly, rắc vôi.

Tránh bắt cá làm xây xát, không để cá bị bệnh ngoài da tạo điều kiện cho vi khuẩn cơ hội tấn công gây bệnh phát triển. Không để cá bị sốc sẽ dễ mẫn cảm với bệnh, định kỳ 10 – 15 ngày/lần sử dụng một trong các hóa chất sau để xử lý nước: Vime-Protex: 1lít/2,000m3 nước; BKC 80%: 1kg/2.000m3 nước; Vimekon: 1kg/2.000m3 nước.

Sử dụng lúc trời mát: Sáng 7 – 8 giờ hoặc chiều 4 – 5 giờ. Sau đó có thể dùng Vime-Yucca 1kg/2.000m3 nước hoặc Zeolite hạt 20 – 30kg/1.000m2 tạt đều ao để hấp thu khí độc và làm sạch đáy ao.

Vào những lúc thời tiết lạnh, nhiệt độ thấp nên tăng cường tạt vôi nông nghiệp CaCO3 với liều lượng 20 – 30kg/1.000m3. Trong quá trình nuôi cần bổ sung đầy đủ dinh dưỡng nhất là Vitamin, Premix, để cá có sức đề kháng cao như: De-Amin, Vime-Glucan, Vitamin C Antistress, Elecamin…

Đối với các bệnh thối vây, thối mang, xuất huyết ta dùng 1 trong các hoá chất sau: Doxery (1kg/5-6 tấn cá) kết hợp với Vime-N333 (1kg/10 tấn cá) hoặc Vimefloro FDP(1lít/15tấn cá) kết hợp vớiVimenro (1kg/10 tấn cá). Ngoài ra ta có thể dùng Vime-Glucan (1kg/6 – 10 tấn cá), Glusome 115 (1kg/500 kg thức ăn) trọn với thức ăn cho cá ăn để tăng cường hệ thống miễn dịch và sức đề kháng tự nhiên cho cá.

KS thủy sản HUỲNH THỊ MỸ TRANG – NNVN, 02/07/2008

Một số phương pháp phòng bệnh cho cá chình

Cá chình là loài nuôi mới, ít có bệnh. Cá thường bỏ ăn là do yếu tố môi trường và khâu tuyển chọn giống kém chất lượng dẫn đến cá không ăn và hao hụt nhiều.

Trong quá trình nuôi, để giảm thiểu rủi ro, cần lưu ý một số vấn đề quan trọng sau:

  1. Khâu tuyển chọn giống: phải chọn giống nơi uy tín, chất lượng, cá cần phải đáp ứng một số chỉ tiêu như: nhanh nhẹn, đồng cỡ, nhớt nhiều, không bị xây xát, dị tật, không bị mắc câu… tốt nhất nên chọn cá ương từ cá lá liễu lên cá giống 10 con/kg. đây là vấn đề quan trọng nhất để giảm thiểu rủi ro.
  2. Ao phải được xử lý thật kỹ trước khi thả giống, phải đảm bảo tốt các yếu tố môi trường như trên.

Sau khi đã thả giống phải thường xuyên định kỳ xử lý nước 1 tháng/lần cho ao như: Virkon: 0,5kg/1000m3 nước hoặc thuốc tím 1,5kg/1000m3. Sau đó dùng Zeolite từ 5-10kg/1000m2 kết hợp cấy men vi sinh để ổn định môi trường.

  1. Sử dụng thức ăn tươi sống tránh hôi thối, kém chất lượng kết hợp với VitaminC để tăng cường sức đề kháng cho cá hoặc trộn Oxytetrcyline để cá tăng cường hấp thu qua đường tiêu hóa.

TRUNG TÂM KHUYẾN NGƯ BẠC LIÊU, 21/8/2007

Các tin có liên quan