Kỹ thuật nuôi cá chẽm (cá vược)

Sinh học sinh thái cá chẽm

  1. Đặc điểm phân loại và hình thái

Cá chẽm còn gọi là cá vược, có tên tiếng Anh là seabass và được phân loại như sau

Lớp: Osteichthyes

Bộ: Perciformes

Họ: Serranidae

Giống: Lates

Loài: Lates calcarifer

Cá chẽm có thân hình thon dài và dẹp bên, cuống đuôi khuyết sâu. Đầu nhọn, nhìn bên cho thấy phía trên hơi lõm xuống ở giữa và hơi lồi ở lưng. Miệng rộng và hơi so le, hàm trên kéo dài đến phía dưới sau hốc mắt. Răng dạng nhung, không có răng nanh, trên nắp mang có gai cứng, vây lưng gồm có 2 vi: vi trước có 7-9 gai cứng và vi sau có 10-11 tia mềm. Vi hậu môn có 3 gai cứng, vi đuôi tròn và có hình quạt. Vẩy dạng lược và có kích cỡ vừa phải, có 61 vẩy đường bên.

Khi cá còn khoẻ, trên mặt lưng có màu nâu, mặt bên và bụng có màu bạc khi sống trong môi trường nước biển, màu nâu vàng khi sống trong môi trường nước ngọt. Khi cá ở giai đoạn trưởng thành sẽ có màu xanh lục hay vàng nhạt trên lưng và màu vàng bạc ở mặt bụng.

  1. Đặc điểm phân bố

Cá chẽm là loài phân bố rộng từ vùng nhiệt đới đến cận nhiệt đới thuộc Tây Thái Bình Dương và ấn Độ Dương, giữa kinh tuyến 500 Đông và 1600 Tây, Vĩ tuyến 260 Bắc và 250 Nam.

Cá chẽm rất rộng muối và có tính di cư xuôi dòng, cá lớn lên chủ yếu ở vùng nước ngọt như sông, hồ. Khi thành thục (3-4 năm tuổi), chúng sẽ di cư ra vùng cửa sông, ven biển có độ mặn thích hợp từ 30 – 32%o để sinh sản. ấu trùng sau khi nở ra sẽ đưa vào vùng cửa sông, ven bờ và lớn lên, cá con sẽ dần dần di cư vào các thủy vực nước ngọt sinh sống và phát triển thành cá thể trưởng thành.

  1. Vòng đời

Cá chẽm trải qua phần lớn thời gian sinh trưởng (2-3 năm) trong các thủy vực nước ngọt như: sông, hồ nơi nối liền với biển. Cá có tốc độ tăng trưởng nhanh, thường đạt cở 3-5 kg sau 2-3 năm. Cá trưởng thành 3-4 tuổi di cư từ vùng nước ngọt về vùng cửa sông và ra biển nơi có độ muối dao động 30-32%o để phát triển tuyến sinh dục và đẻ trứng sau đó. Cá đẻ trứng theo chu kỳ trăng (thường vào lúc khởi đầu của tuần trăng hay lúc trăng tròn) vào lúc buổi tối (6-8 giờ) và thường cá đẻ đồng thời với thủy triều lên. Điều này giúp trứng và ấu trùng trôi vào vùng cửa sông. Nơi đó, ấu trùng sẽ phát triển và di chuyển ngược dòng để lớn. Hiện tại, đều chưa biết là cá trưởng thành có đi ngược dòng không hay chúng giữ giai đoạn còn lại cuối đời sống ở biển.

Smith (1965) ghi rằng, một số cá sống cả vòng đời trong nước ngọt nơi chúng lớn lên đến cở 65cm dài và trọng lượng 19.3kg. Tuyến sinh dục của những cá đó thì không phát triển. Trong môi trường nước lợ, cá Chẽm đạt chiều dài 1.7cm (?) được tìm thấy ở vùng Indonesia – ủc (Weber và Beaufort, 1936).

  1. Tính ăn

Cá chẽm là loài cá dữ rất điển hình. Khi cá còn nhỏ, tuy chúng có thể ăn các loài phiêu sinh thực vật (20%) mà chủ yếu là to khuê, nhưng thức ăn chủ yếu vẫn là cá, tôm nhỏ (80%). Khi cá lớn hơn 20 cm, 100% thức ăn là động vật bao gồm giáp xác khoảng 70% và cá nhỏ 30%. Cá chẽm bắt mồi rất dữ và có thể bắt con mồi có kích cỡ bằng cơ thể của chúng. Cá chẽm chỉ bắt mồi sống và di động.

  1. Phân biệt giới tính

Đặc điểm nổi bậc trong việc sinh sản của cá Chẽm là có sự thay đổi giới tính từ cá đực thành cá cái sau khi tham gia lần sinh sản đầu tiên và đây được gọi là cá chẽm thứ cấp. Tuy nhiên, cũng có những cá cái được phát triển trực tiếp từ trứng và được gọi là cá cái sơ cấp. Chính vì thế trong thời gian đầu (1.5- 2 kg) phần lớn là cá đực, nhưng khi cá đạt 4- 6 kg, phần lớn là cá cái.

Thông thường, rất khó phân biệt giới tính ngoại trừ vào mùa sinh sản, có thể dựa vào đặc điểm sau:

  • Cá đực có mõm hơi cong, cá cái thì thẳng
  • Cá đực có thân thon dài hơn cá cái
  • Cùng tuổi, cá cái sẽ có kích cỡ lớn hơn cá đực
  • Trong mùa sinh sản, những vẩy gần lổ huyệt của cá đực sẽ dày hơn cá cái
  • Bụng của cá cái to hơn cá đực vào mùa sinh sản.

Tài liệu đào tạo từ xa – Viện Thuỷ sản, Đại học Cần Thơ

Ương cá chẽm thế nào để tránh “cá lớn nuốt cá bé”?

Cá chẽm là loài cá dữ, phàm ăn và thích ăn mồi động vật.

Kết quả phân tích thưc ăn trong dạ dày của cá từ các mẫu thu ngoài tự nhiên cho thấy, cá dài 20 cm trong dạ dày 100% thức ăn là mồi động vật. Trong thực tế khi ương cá chẽm từ cá hương lên cá giống trong diện tích hẹp, mật độ dày, chế độ chăm sóc không chu đáo, giữa chúng có sự cạnh tranh thức ăn, cạnh tranh không gian sống, cá lớn không đều và chúng tấn công lẫn nhau để ăn thịt làm cho tỷ lệ sống sau khi ương nuôi rất thấp.

Ương cá chẽm từ hương lên giống, có thể tiến hành ở ao ở lồng ngoài biển và ở bể xi măng.

  • Ương ở bể xi măng hiệu quả thấp vì chất thải của cá, thức ăn thừa sẽ tích tụ trong bể nhanh làm cho môi trường nước dễ bị ô nhiễm. Cá hoạt động trong bể thường cọ xát vào thành bể, thân bị xây sát dẫn đến cá bị nhiễm bệnh vi khuẩn chết. Ngoài ra, ương trong bể thể tích hẹp cá dễ tấn công lẩn nhau để ăn thịt.
  • Ương cá trong lồng lưới, tuy có ưu điểm lợi dụng được điều kiện môi trường nước chảy tự nhiên, cá sống khoẻ, lớn nhanh, song lồng lưới thường bị các sinh vật biển bám làm cản trở dòng nước lưu thông cá thường thiếu oxy, lồng mau hư hỏng và trong thể tích hẹp cá dễ tấn công lẫn nhau để ăn thịt.
  • Ương trong ao đất là biện pháp nâng cao tỷ lệ sống cho cá chẽm giống hiện nay. Song phải đảm bảo các điều kiện sau: Ao được xây dưng ở nơi không bị phèn, đất có thành phần sét đ6ỳ đủ để giữ được nước, biên độ thuỷ triều vừa phải (khoảng 2-3 m) để tháo cạn được nước khi thuỷ triều rút và cấp đủ nước cho ao khi thuỷ triều lên. Nước biển sạch bảo đảm các thông số cho phép như sau:

pH: 7,5-8,5

Oxy hoà tan: 4-9mg/l

Nồng độ muối: 10-30 phần ngàn

Nhiệt độ: 26-30 độ C

NH3: < 1mg/l

H2S: < 0,3mg/l

Độ đục của nước: < 10mg/l

Diện tích ao ương từ 500-2000 m2 dễ quản lý chăm sóc; mực nước trong ao từ 0,8-1m, đáy ao bằng phẳng. Mỗi ao có 2 cống có lưới mắt mau (mắt lưới 1mm) để tránh sinh vật hại cá xâm nhập vào ao theo nước và ngăn không cho cá theo nước ra ngoài.

Trước khi thả cá, ao được cải tạo diệt tạp, tháo cạn nước ao cũ , phơi đáy ao cho se lớp bùn mặt hoặc phơi nứt chân chim để đất xốp, loại được các khí độc, oxy hoá các chất khoáng. Ao mới đào phải thay nước nhiều lần để môi trường ổn định. Bón lót gây màu ao bằng phân gà với lượng 5 kg/m2 ao. Dẫn nước vào ao và thả artemi để gây thức ăn ban đầu cho cá với lượng 10g trứng khô/100m2 ao. Sau 10-15 ngày artemi đạt giai đoạn trưởng thành, tiến hành thả cá vào nước.

Chọn cá hương đồng cỡ, thả đủ mật độ trong thời gian ngắn để hạn chế sự cạnh tranh thức ăn và không gian sống của chúng. Cách phân cỡ cá như sau: Dùng chậu nhựa hoặc khai nhựa, đục nhiều lỗ như mắt rổ ở đáy và xung quanh thành. Lỗ cỡ kích thước đồng đều theo quy cỡ đã chọn. Để chậu (khay) trên mặt bể co chứa nước sạch, cho cá vào rổ, khay. Cá nhỏ lọt xuống bể, chọn những cá khoẻ, không bị dị hình đem thả nuôi. Tuỳ theo cỡ cá, thả mật độ khác nhau. Cỡ cá 2-2,5cm thả mật độ 20-30 con/m2 ao; cỡ cá lớn thả thưa hơn.

Ngoài thức ăn và artemi cung cấp ban đầu, trong quá trình ương sử dụng cá tạp xay nhuyễn làm thức ăn cho cá. Cách cho ăn như sau:

Tuần lễ thứ nhất, lượng thức ăn hàng ngày bằng 100% khối lượng cá nuôi.

Tuần lễ thứ 2 lượng thức ăn bằng 60% khối lượng cá nuôi.

Tuần lễ thứ ba trở đi, lượng thức ăn bằng 20% khối lượng cá nuôi.

Cá chẽm quen ăn mồi động vật, khi cho ăn cần phải tập luyện cho cá đến ăn tập trung bằng cách dùng thanh tre đập xuống mặt nước, khi cá đến tập trung sẽ thả thức ăn vào giữa đàn cá, do cá chẽm không ăn chìm dưới đáy ao, nên thả thức ăn từ từ để cá kịp phản xạ đớp mồi. Tuần lễ đầu, ngày cho ăn 5-6 lần, mỗi lần cho ăn đều gây phản xạ. Khi cá đã quen thì giảm số lần cho ăn 3-4 lần/ngày và 2 lần/ngày. Thời gian cho ăn vào buổi sáng từ 6-10 giờ, buổi chiều từ 17-20 giờ.

Hiện tượng cá ăn lẫn nhau đối với các chẽm thường xuất hiện khi cá bắt đầu ăn được artemi. Do đó, sau 10 ngày ương phải tiến hành phân cỡ lần đầu, tiếp theo đó cứ 7 ngày lại phân cỡ một lần để loại cá lớn nuôi riêng , có thể xuất bán cá cho cơ sở nuôi cá thịt. Dụng cụ phân cỡ là chậu là khay nhựa có kích cỡ lỗ khác nhau cho mỗi kỳ phân cỡ.

Chu kỳ ương kéo dài 30-35 ngày. Sau 35 ngày cá đạt kích thước 8-10 cm/con thì thu toàn bộ.

Theo KH&ĐS, AG , 24/11/2004

Kỹ thuật nuôi cá chẽm trong lồng

Nuôi cá chẽm trong lồng đang được phát triển ở nhiều nước như Thái lan, Indonesia, philippines, Hồng kông và Singapore. Các thành công của việc nuôi cá chẽm trong lồng trên biển và trên sông đã có ý nghĩa cho việc phát triển của nghề nầy.

a. Chọn ví trí nuôi lồng

Trong nuôi cá lồng, do chất lượng nước không thể kiểm soát được như trong các thủy vực ao, đầm mà tùy thuộc hoàn toàn vào tự nhiên, vì thế chọn lựa vị trí thích hợp sẽ có ảnh hưởng quyết định đến sự thành công của nghề nuôi. Thông thường, tiêu chuẩn lựa chọn vị trí nuôi được phân thành 3 nhóm yếu tố chính: (i) nhóm các yếu tố liên quan đến sự sống của cá nuôi như nhiệt độ, độ mặn, mức độ nhiễm bẩn, vật chất lơ lửng, nở hoa của tảo, sinh vật gây bệnh trao đổi nước, dòng chảy, khả năng làm bẩn lồng; (ii) nhóm các yếu tố về độ sâu, chất đáy, giá thể…; và (iii) nhóm các yếu về điều kiện thành lập trại nuôi như phương tiện, an ninh, kinh tế – xã hội, luật lệ…

Một vị trí tốt cho việc nuôi lồng cá biển là cần thiết có:

Độ sâu phải bảo đảm đáy lồng cách đáy biển ít nhất 2-3m. ít sóng to, gió lớn (tránh nơi sóng > 2 m) và tốc độ dòng chảy nhỏ (dưới 1 m/giây) nếu không sẽ làm hư hỏng lồng, trôi thức ăn, làm cho cá hoạt động yếu gây chậm lớn và sinh bệnh.

Tránh nơi nước chảy quá yếu hay nước đứng (tốc độ chảy thích hợp từ 0,2-0,6 m/giây) mà có thể dẫn đến cá chết do thiếu oxy, thức ăn thừa, mùn bã cũng tích lũy ở đáy lồng gây ô nhiễm.

Đảm bảo hàm lượng oxy từ 4-6 mg/lít, nhiệt độ 25-30 oC, độ mặn từ 27-33%o. Cần tránh xa những nơi gây ô nhiễm dầu, ô nhiễm chất thi công nghiệp, nước thải sinh hoạt, và tàu bè. Nơi có thể xảy ra hồng triều.

b. Thiết kế và xây dựng lồng

Thông thường một dàn lồng có kích cỡ 6 x 6 x 3 m và được thiết kế thành 4 ô để làm thành 4 lồng riêng biệt như vậy mỗi lồng sẽ có kích cỡ 3 x 3 x 3 m. Như thế sẽ thuận lợi cho việc thả giống được đồng loạt cho từng lồng, đồng thời với một lồng không nuôi cá sẽ dành để thay lồng khi xử lý bệnh cá hay xử lý rong to bẩn đóng trên lồng.

Mặc dầu có thể sử dụng các vật liệu rẻ như tre, gỗ,… để làm lồng như nhiều nơi trước đây, song sẽ dễ dàng bị hư hỏng. Vì thế, chỉ nên làm khung trên lồng bằng gỗ với kích cỡ thông thường loại 8×15 cm. Khung đáy lồng dùng bằng ống nước đường kính 15/21 và được mạ kẽm để tăng tuổi thọ. Lưới lồng tốt nhất nên là PE không gút. Kích thước mắc lưới có thể thay đổi tùy vào kích cỡ cá nuôi. Ví dụ cỡ cá 1-2 cm dùng mắc lưới 0,5 cm, cở cá 5-10 cm dùng mắc lưới 1 cm; cở cá 20-30 cm dùng mắc lưới 2 cm và cở cá >25 cm dùng mắc lưới 4 cm.

Phao có thể là thùng nhựa (1x 0,6m) hay thùng phuy để nâng khung gổ của lồng. Số lượng phao có thể thay đổi tùy theo lồng có nhà trên đấy hay không. Lồng đưọc cố định bằng neo ở 4 gốc để tránh bị nước cuốn trôi.

Ngoài ra ở các vùng cạn ven bờ có thể phát triển kiểu lồng cố định bằng cách dùng lưới và cọc gỗ bao quanh khu nuôi.

c. Kỹ thuật nuôi và quản lý lồng

Trước khi thả cá giống vào lồng, cần phải thuần hóa để cá thích nghi với nhiệt độ và nồng độ muối trong lồng. Cá giống nên phân cỡ theo nhóm và nuôi trong những lồng riêng biệt. Thả cá vào lúc sáng sớm (6-8 giờ) hoặc buổi tối (8-10 giờ) khi nhiệt độ thấp.

Mật độ thả cá thường từ 40-50 con/m3. Sau 2-3 tháng nuôi cá đạt trọng lượng 150-200g, lúc này giảm mật độ còn 10-20 con/m3. Tăng trưởng của cá chẽm khi nuôi trong lồng ở những mật độ khác nhau được ghi ở bảng 5.1. Nên dành một số bè trống, để sử dụng khi cần thiết như chuyển cá giống hay đổi lưới cho lồng nuôi khi bị tắc nước do vi sinh vật bám. Thông qua việc chuyển đổi lồng giúp phân cỡ và điều chỉnh mật độ nuôi.

Bảng 5.1: Tăng trưởng (g/con) hàng tháng của các chẽm nuôi lồng ở các mật độ nuôi khác nhau (theo Sakares. W, 1982).

Thời gian nuôi (tháng)

Mật độ (con/m2)

16

24

32

0
1
2
3
4
5
6

67.8
132
225
263
326
381
499

67.8
138
229
268
332
385
487

67.8
139
226
264
312
359
455

d. Thức ăn và cách cho ăn

Thức ăn hiện nay là vấn đề lớn mà nghề nuôi cá chẽm đương phải đương đầu. Hiên tại, cá tạp là nguồn thức ăn được dùng duy nhất cho cá chẽm. Cá tạp được băm nhỏ cho ăn hai lần mỗi ngày vào buổi sáng (8 giờ), buổi chiều (5 giờ) với tỷ lệ 10% trọng lượng cá trong 2 tháng đầu. Sau 2 tháng chỉ cho ăn một lần/ngày vào buổi chiều với tỷ lệ 5% trọng lượng cá. Chỉ cho cá ăn khi cá bơi lội gần mặt nước.

Do nguồn cá tạp ở một số nước hiếm và đắt, cám gạo và tấm được dùng trộn thêm để giảm lượng cá tạp sử dụng. Tuy nhiên gíá thành thức ăn vẫn còn cao mặc dù áp dụng phương pháp hạ giá này. Phối hợp nguyên liệu làm thức ăn có thể là cá tạp 70% và cám hoặc tấm 30%.

Một bước phát triển mới trong thời gian gần trong việc cải tiến khẩu phần ăn của cá chẽm là sử dụng thức ăn ẩm. Tuy nhiên việc sử dụng loại thức ăn này vẫn còn trong giai đoạn thí nghiệm. Thành phần thức ăn được trình bày ở Bảng 5.2.

Bảng 5.2: Phân phối và khẩu phần thức ăn ẩm.

Thành phần

Phần trăm (%)

Bột cá
Cám
Bột đậu nành
Bột bắp
Bột lá
Dầu mực (hoặc dầu cá)
Tinh bột khuấy hồ
Hỗn hợp Vitamin

35
20
15
10
3
7
8
2

e. Quản lý lồng cá

Cần phải thường xuyên theo dõi lồng. Do luôn luôn ngập nước, lồng có thể bị phá hại bởi các động vật thủy sinh như cua, rái cá,… Nếu lồng bị hư hỏng phải lập tức sửa chữa hoặc thay mới.

Ngoài quá trình bám sinh học, lưới lồng còn là nơi dễ bị kín và lắng đọng phù sa. Vấn đề này không thể tránh khỏi vì lưới có bề mặt thuận lợi cho các vi sinh vật lưỡng thê, giun nhiều tơ, động vật chân tơ và nhuyễn thễ bám vào,… những vật này có thể bám kín lưới làm giảm sự trao đổi nước có thể gây “sốc” cho cá do oxy hòa tan thấp đồng thời tích tụ những chất cặn bã. Chính vì thế sẽ nh hưởng đến tính ăn và sức tăng trưởng của cá.

Cho đến việc vệ sinh lưới theo phương pháp cơ học vẫn là phưong pháp hiệu quả vá rẻ nhất. ở những vùng có nhiều sinh vật gây bám cần sử dụng lồng lưới luân phiên nhau.

Tài liệu đào tạo từ xa – Viện Thuỷ sản, Đại học Cần Thơ

Kỹ thuật nuôi thương phẩm cá chẽm trong ao

Nguồn nước trong sạch không bị ô nhiễm, xa khu dân cư, xa nguồn nước thải công nghiệp, đảm bảo các yếu tố môi trường ổn định. Gần đường giao thông, gần nguồn điện, gần nguồn cá giống…

  1. Lựa chọn vị trí và thiết kế ao nuôi

a. Yêu cầu khi chọn địa điểm ao nuôi 

Nguồn nước trong sạch không bị ô nhiễm, xa khu dân cư, xa nguồn nước thải công nghiệp, đảm bảo các yếu tố môi trường ổn định. Gần đường giao thông, gần nguồn điện, gần nguồn cá giống,…

Thường chọn vị trí trung triều, biên độ triều 2-3 m để tiện cho việc cải tạo ao, tháo và lấy nước trong quá trình nuôi, các yếu tố môi trường phải đảm bảo trong khoảng thích hợp như bảng 1:

Bảng 1: Các yếu tố môi trường thích hợp cho nuôi cá chẽm thương phẩm

Các yếu tố môi trường

Khoảng thích hợp

Độ mặn

10-30 ‰

Nhiệt độ nước

26-32 độ C

Hàm lượng ôxy

4-9 mg/l

pH    

7,5-8,5

NH3

< 1mg/l

H2S

< 0,3mg/l

Chất đáy ao: cát bùn, bùn cát, bùn pha sét

b. Thiết kế, xây dựng và chuẩn bị ao nuôi 

Ao nuôi có diện tích 1.000 – 20.000 m2, tốt nhất là từ 2.000 – 5.000 m2.

Độ sâu mực nước từ 1,2 – 1,5 m, ao có cống cấp và thoát nước riêng, đáy cát hoặc cát bùn và hơi dốc về phía cống thoát. 

Ao được xây dựng ở gần nơi có nguồn cung cấp cá giống, không bị ảnh hưởng ô nhiễm bởi nước thải công và nông nghiệp, giao thông thuận tiện. Gần vùng có biên độ dao động thủy triều lớn càng tốt để tiện thay nước và thu hoạch, cũng có thể sử dụng các ao nuôi tôm không hiệu quả để nuôi cá. 

Các biện pháp cải tạo ao, chuẩn bị ao nuôi tiến hành như trong ao ương giống, nếu ao có pH thấp phải tăng liều lượng bón vôi 30-50 kg/100 m2. 

  1. Kỹ thuật chọn và thả cá

Cá giống thả vào ao nuôi thịt phải đồng đều về kích thước (8-10 cm) không bị bệnh tật, không bị xây xát, bơi lội hoạt bát, có màu trắng xám nhạt.

Thả cá giống: đối với hai hình thức nuôi đơn và nuôi ghép hình thức thả giống khác nhau. 

a. Nuôi đơn

Sau khi cải tạo ao, lấy nước vào có thể thả cá giống nuôi ngay, giống thả với mật độ 2-3 con/m2. Đối với ao nuôi đơn, trong thời gian đầu cho cá ăn 2 –3 lần/ngày, khi cá đạt cỡ trên 200 g cho ăn 1 lần/ngày, lượng thức ăn của mỗi lần cho ăn tùy theo nhu cầu của cá.

Khi cho ăn rải thức ăn từ từ ở một số điểm cố định trong ao, trước khi cho ăn tạo tiếng động để tập trung đàn cá vào điểm cho ăn. Hàng ngày kiểm tra môi trường ao nuôi, hoạt động bắt mồi của cá, 7-10 ngày kiểm tra tốc độ tăng trưởng để điều chỉnh lượng thức ăn.

Trong thời gian đầu nuôi chỉ chạy máy quạt nước vào buổi tối, khi cá lớn tùy theo tổng khối lượng cá trong ao mà điều chỉnh thời gian chạy máy quạt nước cho phù hợp.

Lượng nước thay đối với ao nuôi đơn từ 30–50% tùy theo mức độ ô nhiễm trong ao. Mực nước trong ao luôn duy trì trên 1,2 m.

Đối với ao nuôi đơn nếu trường hợp nền đáy quá ô nhiễm do chất thải và thức ăn thừa tích tụ dễ dẫn đến nguy cơ bệnh bùng phát. Do vậy, khi cá đạt cỡ 200 – 300 g có thể chuyển cá sang ao mới kết hợp với phân loại cá theo kích cỡ để điều chỉnh mật độ.

b. Nuôi ghép

Cá chẽm có thể nuôi chung với cá rô phi với mục đích để cá rô phi ăn bớt thức ăn thừa, hạn chế ô nhiễm môi trường, đồng thời số cá con của cá rô phi là nguồn thức ăn cho cá dữ, hạn chế chi phí thức ăn.

Đối với nuôi ghép, sau khi cải tạo ao tiến hành bón lót phân hữu cơ với liều lượng 10-15 kg/100 m2). Sau 5-7 ngày khi sinh vật phù du phát triển, tiến hành thả cá rô phi trưởng thành vào với mật độ 1-2 con/m2 (tỷ lệ đực/cái: 1/3). Nuôi sau hai tháng khi cá rô phi con xuất hiện thì thả cá giống.

Cá chẽm giống thả vào nuôi với kích thước 10-12 cm, mật độ 30-50 con/100 m2.

Đối với ao nuôi ghép do có cá rô phi làm thức ăn nên lượng thức ăn cũng như số lần cho ăn được điều chỉnh tùy theo số lượng cá rô phi có trong ao.

Đối với ao nuôi ghép thì hạn chế thay nước để giữ thức ăn tự nhiên cho cá rô phi, nếu thay thì chỉ thay khoảng 30% lượng nước trong ao.

  1. Kỹ thuật chăm sóc và quản lý

a. Thức ăn và cách cho ăn

Thức ăn hiện nay là vấn đề lớn mà nghề nuôi cá chẽm đang phải đương đầu, hiện tại cá tạp là nguồn thức ăn thường dùng cho nuôi cá chẽm.

Đối với nuôi đơn, nếu sử dụng cá tạp thường băm cá cho ăn, mỗi ngày cho ăn 2 lần buổi sáng và chiều tối. Liều lượng: Hai tháng đầu cho ăn 10% trọng lượng thân cá; sau đó cho ăn 5% trọng lượng thân cá

Đối với ao nuôi ghép, liều lượng cho ăn bằng 1/2 so với ao nuôi đơn và điều chỉnh lượng thức ăn tùy theo lượng cá rô phi sinh sản trong ao. 

Do nguồn cá tạp ở một số nơi khan hiếm đặc biệt vào mùa mưa bão, có thể dùng thêm bột cám gạo để giảm lượng cá tạp sử dụng với tỷ lệ cá tạp: 70%, cám gạo: 30%. 

Hiện nay, một số nước tiên tiến sử dụng thức ăn chế biến (nhiều thành phần) cho quá trình nuôi cá chẽm. 

Bảng 2: Phối hợp thành phần thức ăn của cá chẽm

Thành phần

Tỷ lệ (%)

Bột cá

35

Bột cám

20

Bột đậu nành

15

Bột bắp (ngô)

10

Bột lá

3

Dầu mực (hoặc dầu cá)

7

Tinh bột khuấy hồ

8

Hỗn hợp vitamin

2

b. Quản lý các yếu tố môi trường 

Trong quá trình nuôi, thường xuyên theo dõi màu nước, xác định các yếu tố môi trường, theo dõi các yếu tố môi trường và tốc độ tăng trưởng của cá để điều chỉnh thức ăn cho phù hợp. Theo dõi tình trạng sức khỏe, các bệnh lý để có biện pháp xử lý kịp thời. 

c. Thay nước 

Đối với ao nuôi đơn thường xuyên thay nước và cấp nước thêm cho ao, lượng nước thay từ 30-50%.

Đối với ao nuôi ghép, do phải duy trì màu nước, thức ăn tự nhiên cho cá rô phi nên hạn chế thay nước, khoảng 3-5 ngày thay một lần. Trong ao nuôi cá chẽm thương phẩm, mực nước phải đảm bảo độ sâu trên 1,2 m.

d. Phòng bệnh 

Hệ thống ao nuôi, trang thiết bị và dụng cụ trong trại sản xuất giống phải được thường xuyên vệ sinh, xử lý mầm bệnh và tiệt trùng. Giống cá trước khi thả nuôi cần phải xử lý bệnh. 

Thức ăn cho cá phải tươi sống, còn thời hạn sử dụng. Cho cá ăn đúng liều lượng và đảm bảo đủ chất dinh dưỡng cho cá. Định kỳ thay nước để cải thiện điều kiện môi trường ao nuôi. 

  1. Thu hoạch và bảo quản sản phẩm sau thu hoạch

Tùy theo cỡ cá được ưa chuộng trên thị trường mà quyết định thời điểm thu hoạch. Sau 6-12 tháng nuôi, cá chẽm đạt kích cỡ 0,5-1,2 kg/con có thể thu hoạch cá. Khi thu hoạch cần chú ý: 

Không cho cá ăn 1-2 ngày trước khi thu hoạch. 

Phương pháp thu hoạch: Trước khi thu hoạch, tháo cạn nước ao nuôi còn khoảng 0,5 – 0,6m. Sử dụng lưới kéo có kích thước mắt lưới 2a = 1-2 cm để thu cá, cuối cùng tháo cạn bắt cá bằng vợt lưới để tránh cá đâm vào tay. 

Cá sau khi thu hoạch phải được giữ sống, hoặc bảo quản tươi trước khi tiêu thụ để đảm bảo chất lượng và giá trị sản phẩm. 

TTKNQG, Khuyến nông VN, 04/12/2013

Kỹ thuật nuôi cá chẽm trong ao

Mặc dù nuôi cá chẽm đã thực hiện hơn 20 năm qua ở vùng Đông Nam châu á và châu úc, nhưng vẫn chưa phổ biến trên qui mô sản xuất thương mại. Hiện nay việc nuôi cá chẽm trong ao nước lợ ở một số quốc gia đã cho thấy có tiềm năng lớn về thị trường và kh năng lợi nhuận cao. Tuy nhiên, điều này chỉ có thể đạt, nếu như đáp ứng được những yêu cầu về cung cấp con giống, vị trí thích hợp và trại giống được thiết kế hoàn chỉnh. Nguồn giống tự nhiên thì rất hạn chế. Cũng giống như nuôi lồng, đây là một trong những khó khăn cho việc thâm canh hóa nghề nuôi cá Chẽm trong ao. Tuy nhiên với những thành công trong việc sản xuất cá chẽm nhân tạo, cung cấp con giống từ nguồn này sẽ lớn mạnh trong tương lai So sánh tốc độ tăng trưởng của cá nhân tạo và cá giống thu từ tự nhiên khi nuôi trong ao không thấy sai khác có ý nghĩa. Có hai hệ thống được áp dụng nuôi cá chẽm trong ao như sau:

Nuôi đơn

Nuôi đơn là hình thức nuôi một đối tượng chẽm. Hệ thống nuôi này có điểm bất lợi là nó hoàn toàn phụ thuộc vào việc cho ăn bổ sung. Việc sử dụng thức ăn bổ sung sẽ làm giảm lợi nhuận đến mức tối thiểu, đặc biệt những nơi mà nguồn cá hạn chế và đắt.

Nuôi ghép

Đây là phương thức nuôi đầy hứa hẹn, trong việc làm giảm sự lệ thuộc của người nuôi vào nguồn thức ăn cá tạp, nếu không thể hoàn toàn. Phương pháp này là sự kết hợp đơn giản giữa một loài làm thức ăn với loài cá chính trong ao. Việc lựa chọn các loài cá làm thức ăn sẽ tuỳ thuộc vào kh năng sinh sản liên tục của chúng nhằm đạt được số lượng đủ để giữ ổn định sự phát triển của cá chẽm trong suốt thời gian nuôi. Đối tượng phụ này phải là loài sử dụng thức ăn tự nhiên trong ao và không cạnh tranh với loài chính về tính ăn như: rô phải (Oreochromis mossambicus, Oreochromis noloticus,…)

Bảng 5.3: So sánh tốc độ tăng trưởng của cá chẽm (Lates calcarifer) nuôi trong ao giữa cá giống tự nhiên và cá giống nhân tạo ở mật độ 3 con/m2.

Tháng nuôi

Cá giống tự nhiên

Cá giống nhân tạo

Chiều dài

Trọng lưọng

Chiều dài

Trọng lượng

Cá thả
Tháng 1
tháng 2
Tháng 3
Tháng 4
Tháng 5
Tháng 6

10.5
13.0
16.4
20.9
23.4
24.1
28.2

40.4
88.9
204
276
326
385
454

5.2
7.6
10.6
15.2
19.5
21.8
23.2

5.0
12.0
26.0
118
221
281
350

a. Tiêu chuẩn chọn lựa địa điểm nuôi cá Chẽm

Nguồn nước cung cấp: Địa điểm cần có nguồn nước tốt và đầy đủ quanh năm. Chất lượng nước nuôi cá chẽm bao gồm tất cả các đặc tính thủy lý hóa, vi sinh. các thông số cho phép như sau:

Thông số

Phạm vi cho phép

pH
Oxy hòa tan
Nồng độ muối
Nhiệt độ
NH3
H2S
Độ đục

7.5-8.5
4-9mg/l
10-30%o
26-32oC
Nhỏ hơn 1mg/l
0.3 mg/l
Nhỏ hơn 10 mg/l

Biên độ triều: Vùng tốt nhất cho nuôi cá chẽm nên có biên độ triều vừa phải từ 2-3m. Với biên độ triều ngay cả ao sâu 1,5m cũng có thể tháo cạn hoàn toàn khi triều xuống hay cấp nước dễ dàng khi triều lên.

Địa hình: Vị trí nuôi sẽ có nhiều thuận lợi nếu như lập được bn đồ địa hình, điều đó giúp gim chi phí trong điều hành và phát triển sản xuất, như bơm nước.

Đất: Địa điểm lý tưởng cho ao nuôi là nơi đất có thành phần sét đầy đủ để đm bo giữ được nước cho ao. Cần tránh những vùng bị nhiễm phèn.

Giao thông: Giao thông là vấn đề quan trọng cần xem xét trong việc chọn địa điểm nuôi bởi những hệ quả của nó. Chi phí cao và sự chậm trễ trong việc vận chuyển nguyên liệu và sản phẩm sẽ được giảm xuống đến mức tối thiểu nếu như có được vị trí giao thông thuận tiện.

Ngoài ra, một số yếu tố khác như kh năng về lao động, trợ giúp kỹ thuật, kh năng về thị trường và điều kiện xã hội thích hợp cũng cần được xem xét khi chọn lựa vị trí.

b. Thiết kế và xây dựng ao

Ao nuôi cá Chẽm thường có hình chữ nhật với kích cỡ 2.000m2 đến 2ha, sâu từ 1,2-1,5m. Mỗi ao cần có cống cấp và tiêu nước riêng để thuận tiện cho việc thay đổi nước. Đáy ao bằng phẳng và dốc về cống thoát nước (hình 23).

c. Chuẩn bị ao

Chuẩn bị ao nuôi thịt bao gồm các bước những chuẩn bị hệ thống nuôi. Trong nuôi đơn sau khi bón vôi trung hòa môi trường thì tiến hành lấy nước đầy ao và thả cá nuôi ngay.

Đối với nuôi ghép, sau khi bón vôi trung hòa môi trường thì bón vôi hữu cơ (phân gà) với tỷ lệ một tấn/ha. Tiếp đó, tăng mức nước dần lên để thức ăn tự nhiên phát triển. Khi thức ăn tự nhiên phát triển nhiều thì th cá rô phải bố mẹ vào với mật độ 5.000-10.000 con/ha. Tỷ lệ đực : cái là 1:3. Cá rô phải nuôi trong ao từ 1-2 tháng hoặc đến khi cá con xuất hiện nhiều thì th cá Chẽm giống vào ao nuôi.

Cá Chẽm giống nuôi với kích cỡ 8-10 cm th vào ao nuôi thịt với mật độ 10.000-20.000 con/ha trong ao nuôi đơn và 3.000-5.000 con/ha cho ao nuôi ghép. Trước khi th cá giống phải thuần hóa chúng dần với nồng độ muối và điều kiện ao nuôi. Cá thả nuôi tốt nhất nên có kích thước đồng đều và thả cá vào lúc trời mát.

d. Quản lý ao

Do phải duy trì thức ăn tự nhiên trong ao nên cần hạn chế sự thay đổi nước cho ao nuôi theo dạng kết hợp. Định kỳ 3 ngày thay một lần với lượng khoảng 50%. Tuy nhiên trong ao nuôi đơn do có cung cấp thức ăn hàng ngày, thức ăn dư thừa sẽ gây cho nước nhiễm bẩn, vì vậy cần phải cung cấp nước thêm hàng ngày.

e. Thức ăn và cách cho ăn

Trong ao nuôi ghép không cần phải bổ sung thức ăn, nhưng ao nuôi đơn thì phải cho ăn hàng ngày. Phương pháp cho ăn trong ao nuôi cũng giống như trong nuôi lồng.

Tài liệu đào tạo từ xa – Viện Thuỷ sản – Đại học Cần Thơ

Kinh nghiệm nuôi cá chẽm làm giàu

Từ năm công đất thu nhập thấp, ông Nguyễn Khánh Nam (Khóm 2, P. Cam Lợi, TX Cam Ranh, Khánh Hòa) nghĩ cách nâng cao nhu nhập cho gia đình. Phong trào nuôi tôm sú ở tỉnh phát triển rầm rộ nhưng ông Khánh tìm hướng khác, ông tìm đến Trung tâm Khuyến Ngư Khánh Hòa và quyết tâm nuôi cá chẽm, loại cá có nhiều triển vọng xuất khẩu. Sau khi chuẩn bị ao, ông vào huyện Cần Giờ (Tp. Hồ Chí Minh) tìm mua 10.000 cá chẽm giống, giá 3000 đồng/con.

Chỉ trong 6 tháng nuôi cá đạt trọng lượng 0,8kg/con, thu hoạch được 7200kg, giá bán 40.000đồng/kg, trừ chi phí ông Khánh còn lời trên 75 triệu đồng. Mô hình nuôi cá chẽm của ông Khánh được đánh giá thành công và được Bộ Thủy sản mời báo cáo tại Hội thảo toàn quốc về kinh nghiệm nghiên cứu và ứng dụng khoa học – công nghệ trong nuôi trồng thủy sản vừa qua tại Vũng Tàu. Ông Khánh chia sẻ kinh nghiệm nuôi cá chẽm như sau:

Môi trường nuôi: độ mặn 30-35 phần ngàn, pH ao nuôi 7,5-8,5, nhiệt độ thích hợp 2-30 độ C, oxy hòa tan 6-8mg/lít. Chất đáy là cát pha bùn, độ sâu ao 1,3m. Trước khi thả cá ông Khánh cải tạo ao nuôi bằng cách tháo cạn nước, nạo vét đáy ao, rải vôi khắp ao với liều lượng 1000kg/5000m vuông, sau đó phơi khô đáy ao từ 5-7 ngày. Lấy nước vào ao qua lưới lọc, sau 5 ngày nước ổn định, tảo phát triển thì tiến hành thả cá giống. Thả cá vào lúc sáng sớm, mật độ thả 2con/m vuông (cá giống đạt kích thước 3-4cm/con).

Quản lý và chăm sóc: Thức ăn chủ yếu là cá tươi sống băm nhỏ như cá cơm, cá nục, cá liệt … Lúc cá còn nhỏ, lượng thức ăn hằng ngày bằng 10% trọng lượng thân. Khi cá lớn đến 400g/con thì lượng thức ăn hằng ngày bằng 5% trọng lượng thân. Ông Khánh cho cá ăn mỗi ngày một lần vào lúc 8 giờ sáng (cá lớn khỏi phải băm mồi). Khi cho cá ăn cần quan sát mức độ ăn của cá để kịp thời điều chỉnh thức ăn phù hợp.

Do thức ăn của cá chẽm là cá tươi nên hàng ngày phải thay 20- 30% lượng nước trong ao (dựa vào thủy triều hoặc kết hợp máy bơm). Ông Khánh cho biết, trong quá trình nuôi phải thường xuyên theo dõi các yếu tố môi trường và hoạt động của cá. Khi rong tạp phát triển trong ao tiến hành làm vệ sinh, vớt rong ra khỏi ao để tránh hiện tượng cá chết do thiếu oxy. Có thể dùng máy quạt nước tăng lượng oxy khi cần thiết.

Mô hình nuôi cá chẽm của ông Khánh đạt năng suất cao, trên 14 tấn/ha/ vụ, lợi nhuận cao, có thể tận dụng ao nuôi tôm sú có cát pha bùn, hoặc ao nuôi tôm nghèo dinh dưỡng không đạt hiệu quả để nuôi cá chẽm.

P. Duy – Khoa học phổ thông, 7/1/2005

Cải tạo ao nuôi cá vược (cá chẽm)

Xã Diễn Vạn, huyện Diễn Châu (Nghệ An) có tổng diện tích nuôi thủy sản vùng mặn lợ là 37 ha, trong đó 9 ha nuôi cá vược. Hiện tại người dân đang chuẩn bị ao để bước vào vụ nuôi mới.

Cải tạo ao trước khi nuôi

Đây là khâu quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến năng suất, sản lượng và hiệu quả kinh tế. Cá vược là loài ăn tạp nên lượng thức ăn thải ra rất nhiều, sau mỗi vụ nuôi do lượng thức ăn dư thừa, chất thải của cá bị tích tụ ở đáy ao sẽ tạo thành một lớp mùn bã hữu cơ, là tác nhân gây bệnh và sản sinh ra một số khí độc làm ảnh hưởng đến quá trình phát triển của cá.

Mục đích chính của chuẩn bị ao là tạo ra một nền đáy sạch, để dễ dàng điều khiển các yếu tố môi trường trong suốt vụ nuôi, cá ít bị dịch bệnh, đạt năng suất cao. Chuẩn bị ao gồm các bước sau:

  1. Cải tạo đáy

Đối với vùng đất không bị nhiễm phèn, tháo cạn nước, tiến hành nạo vét lớp bùn đen tích tụ ở đáy ao.

Đối với ao bị nhiễm phèn, tiến hành cải tạ ướt, sục bùn lên bằng cách cho trâu bừa hoặc dùng trang cao, dùng máy bơm áp lực mạnh để rửa trôi chất thải ra khỏi ao.

  1. Bón vôi

Sau khi đưa lớp bùn đen ra ngoài thì tiến hành bón vôi ở đáy và xung quanh bờ ao để diệt khuẩn, lượng vôi bón 1 – 2 tấn/ha. Vôi có nhiều loại, khi cải tạo thì nên dùng vôi bột CaO vì loại vôi này có tác dụng diệt khuẩn cao, còn trong quá trình nuôi nên dùng vôi Dolomite có khả năng làm tăng hệ đệm của nước, tránh gây sốc cho cá.

Sau khi bón vôi xung quanh bờ ao và đáy ao, phơi đáy ao nứt chân chim từ 10 – 15 ngày để diệt khuẩn.

Lưu ý: Đối với ao bị nhiễm phèn không phơi đáy ao để tránh hiện tượng xì phèn.

Kiểm tra bờ ao, gia cố bờ tránh hiện tượng bị rò rỉ, cống cấp, cống thoát trước khi thả cá giống.

  1. Lấy nước và diệt tạp

Lấy nước qua lưới mịn với mực nước 1 – 1,2 m, độ mặn thích hợp cho cá phát triển 10 – 20‰.

Diệt tạp bằng Saponin với lượng 10 – 15 kg/1.000 m3, với mục đích diệt các loại địch hại như cá tạp, cua, còng… đảm bảo cá nuôi đạt tỷ lệ sống cao. Sau khi lấy đủ mực nước trong ao, gây màu nước sau 3 – 5 ngày để ổn định môi trường nước thì tiến hành thả cá giống.

CAO THỊ HÀ – Nông nghiệp VN, 08/04/2015

Kỹ thuật nuôi cá vược trắng (Bidyanus bidyanus)

Cá vược trắng có nguồn gốc từ lưu vực sông Morry – Darling ở châu Úc 

  1. Ðặc điểm sinh học

Thân cá hình thoi, dẹt ngang, đầu nhọn, miệng nhỏ, cuống đuôi dài. Màu sắc phần có lưng trên đường bên hơi đậm có màu xám đen; phần dưới đường bên đến gần bụng màu trắng bạc hay màu vàng, phần bụng màu trắng, đường bên dài tới tận giữa cuống đuôi.

Cá vược trắng là loài cá nuôi hiền nhất, tính ăn tạp, thức ăn của chúng là tôm nhỏ, côn trùng, sinh vật phù du, rong, tảo biển v.v nguồn thức ăn đa dạng hơn các loài cá ăn động vật khác. Cỡ cá thường nặng 4,5 kg.

Nhiệt độ sống trong phạm vi 2 – 36oC, nhiệt độ sinh trưởng thích hợp nhất 15 – 30oC, có thể nuôi trong ao nước ngọt hoặc ao nước lợ có độ mặn 2 – 3. Cá ưa sống nơi nước trong, pH 6,7 – 8,5, nước quá đậm (giàu dinh dưỡng) sẽ ảnh hưởng đến cường độ ăn mồi của cá.

  1. Kỹ thuật nuôi và phòng bệnh.
  • Mật độ nuôi :
  • ương cá giống, cỡ giống 3,5 cm, ương 1,5 – 2 vạn con/667 m2, nước ao sâu 90 cm, có một máy quạt nước.
  • Nuôi cá thịt : cỡ giống 10 – 12 cm, thả 3.000 – 3.500 con/667m2, nước ao sâu 90 cm, có 1 máy quạt nước.
  • Quản lý hằng ngày

Tẩy dọn khử trùng ao trước khi thả cá, dùng vôi hoặc chlorine. Thường nuôi bằng thức ăn công nghiệp dạng viên nổi, hàm lượng đạm 42% (đối với cá lúc nhỏ) và 36 – 41% đối với cá lớn. Lượng cho ăn hằng ngày từ 3 – 5% trọng lượng cá, mỗi ngày cho ăn 2 – 3 lần, nghiêm chỉnh thực hiện nguyên tắc cho ăn theo bốn định (điểm, giờ, lượng, chất).

  • Phòng bệnh

Loài cá vược này có sức kháng bệnh khoẻ nhưng vẫn phải chú ý làm tốt công tác phòng bệnh. Mùa Xuân – Hè phòng bằng rắc thuốc lân hữu cơ 0,3 – 0,7 g/m3 hoặc vôi sống 15g/m3, 2 – 3 tuần 1 lần để diệt ký sinh trùng; mùa Thu – Ðông phải dùng thuốc diệt khuẩn, 3 – 4 tuần rắc 1 lần.

  • Thu hoạch

Trước khi xuất bán 4 – 6 tuần, hoà 15 kg vôi sống rắc đều lên 667 m2 ao sâu 90 cm; 5 – 7 ngày làm 1 lần. Làm như vậy khử được mùi tanh của cá, tăng chất lượng cá bán.

ở Ôxtrâylia, nuôi cá vược trắng cỡ 5 g/con, mật độ thả 20.000 con/ha, tỷ lệ sống 98%, thời gian nuôi 17 tháng, hệ số thức ăn 2 : 1, thu hoạch sản lượng 10 tấn/ha, giá 7 đô la/1kg. Cá vược trắng được chọn là 1 trong 6 loài nuôi cá có triển vọng sinh lợi, sản lượng cá này ở Ôxtrâylia năm 1998 – 1999 đạt 98.000 tấn, giá trị 441 triệu đôla.

Năm 1996 Công ty Thuỷ sản Xương Thịnh ở Tuyển châu tỉnh Phúc Kiến (Trung Quốc) đã nhập giống cá vược trắng về nuôi ở các điều kiện sinh thái khác nhau và đã xây dựng thành qui trình nuôi.

Nên nghiên cứu để nhập loài cá vược trắng, góp phần tăng đối tượng nuôi cá có giá trị cao.

Hồ Lư

Nuôi cá vược nước lợ công nghiệp

Cá vược là loài có giá trị kinh tế cao, năng suất có thể đạt 5-8 tấn/ha/vụ. Tuy vậy, việc nuôi cá vược công nghiệp ở Việt Nam hiện chưa được tiến hành, mặc dù đã cho đẻ nhân tạo thành công loại cá này. Để đẩy mạnh nghề nuôi cá vược cần tiến hành nuôi thử nghiệm với quy mô công nghiệp để từ đó phát triển mạnh hơn và tiến tới xuất khẩu.

Chuẩn bị ao nuôi

Đào vét tu sửa ao: Ao nuôi phải có độ sâu khoảng 2,4m, nước luôn đảm bảo giữ ở mức 1,2- 1,5m, diện tích ao nuôi là 350m2, có bờ cao hơn mặt bằng khoảng 20 – 30cm. Sau đó, bơm cạn ao, phơi khô. Rải nilon xuống trùm khắp đáy ao và trùm lên bờ ao, sau đó phủ một lớp đất cát pha bùn khoảng 10- 15cm để tránh nước bị phèn và thẩm thấu ra ngoài ao.

Đặt hệ thống nén khí: Đặt 2 đường ống nhựa có đường kính 20mm chạy dọc theo chiều dài của ao, dùng kim đan lưới dùi lỗ với khoảng 10cm, sau đó nối với máy nén khí đặt ở trên bờ. Hệ thống nhựa được đặt chếch với mặt đất 3 – 5cm. Thường xuyên kiểm tra đường ống, tránh rò rỉ giữa các khớp nối hay các ống bị vỡ ảnh hưởng đến khả năng nén khí. Phơi khô ao trong 3-4 ngày, cho nước vào qua đường kênh dẫn nước có đặt tấm lưới lọc với mức nước cho vào khoảng 50cm. Sau đó, bón phân hữu cơ (phân gà càng tốt) với liều lượng khoảng 500kg/ha. 2 ngày sau bổ sung nước vào khoảng 1,2 -1,5m và thả 20 cặp cá rô phi bố mẹ. Khi cá rô phi đẻ, thấy có cá bột trong ao thì tiến hành thả cá vược.

Thả cá, quản lý và chăm sóc

Cá vược dài 5cm đem thả vào ao nuôi với mật độ 4 con/m2, tổng số lượng cá thả 1.400 con. Thức ăn chủ yếu là cá liệt tươi. Hai tháng đầu cho ăn 10% trọng lượng cá trong ao kết hợp với cám gạo, tạo cho cá quen ăn với thức ăn tinh. Tỉ lệ phối trộn là 90% cá tạp băm nhỏ với 10% cám gạo nghiền nhỏ. Bốn tháng trước khi thu hoạch cho ăn 5 – 8% trọng lượng cá với tỷ lệ phối trộn là 70% cá tạp và 30% cám gạo. Cho thức ăn xuống từ từ, 2 lần/ngày. Sáng 6 giờ, chiều vào 16 giờ.

Chế độ thay nước: Hai tuần đầu chỉ thay 1 lần với lượng nước thay khoảng 40%. Tháng còn lại, cứ 3 ngày thay 1 lần với lượng nước thay 50% lượng nước trong ao. Định kỳ 1 tháng kiểm tra sinh trưởng 1 lần, mỗi lần 30 con, qua đó kiểm tra cơ sở cho cá ăn hàng ngày. Định kỳ kiểm tra chất lượng nước 1lần/tháng. Tiêu chuẩn chất lượng nước về ôxy hoà tan là 4 -9mg/l, độ pH từ 7,5 – 8,5, nhiệt độ từ 26 – 32oC, độ đục <10mg/l, độ muối từ 8,0 – 25%0.

Với thời gian nuôi 6 tháng thì có thể cho thu hoạch. Trọng lượng cá thương phẩm đạt 500 -600gr/con, tỉ lệ sống 80 – 85%, năng suất 7 tấn/ha, cá vược có thể xuất khẩu sang các nước Thái Lan, Indonesia, Hồng Kông…

NTNN, 8/9/2003

Chống rét cho cá vược

Trong khi các ao, đầm nuôi cá vược tại Thái Bình lao đao vì thời tiết, diện tích nuôi cá vược tại xã Lập Lễ (huyện Thủy Nguyên, Hải Phòng) chỉ bị ảnh hưởng nhẹ. Vậy đâu là bí quyết?

Anh Nguyễn Đức Diễn bên ao cá vược của gia đình

Những kỹ sư thủy sản “chân đất” ở đây đã sáng tạo, tìm đủ mọi cách để giảm thiệt hại xuống mức tối thiểu.

Phải cải tạo ao, đầm

Đó là bí quyết sống còn để giữ được đàn cá vược, vượt qua mùa đông khắc nghiệt của người dân Lập Lễ. Toàn xã có 65 hộ tham gia nuôi trồng, nằm trong HTX Nuôi trồng thủy sản Mắt Rồng.

Anh Nguyễn Đức Văn, GĐ HTX cho biết, từ lâu, khu vực Mắt Rồng đã được quy hoạch thành vùng thâm canh cá vược. Tổng diện tích nuôi cá vược của HTX đạt 210ha. Sản lượng cá vược trung bình hằng năm đạt khoảng 2.000 tấn. Vì vậy, điều kiện ao, đầm cũng như hệ thống thủy lợi đều được hoàn thiện. Việc cải tạo ao, đầm là bí quyết số một không để cá chết trắng như tại Thái Bình thời gian qua.

Năm 2009, anh Văn thuê lại diện tích đầm 4,7ha của một người dân tại địa phương. Ngay trong vụ đầu tiên, gia đình anh đã tiến hành cải tạo bằng phương pháo nạo nét đáy, kè gạch lại toàn bộ bờ bao xung quanh, cứng hóa lại hệ thống dẫn nước. Anh Văn nhẩm tính, đến nay số tiền đổ vào công cuộc cải tạo đã lên tới hơn 2,5 tỷ đồng.

Tưởng chừng đơn giản, nhưng theo anh Văn, không phải ai cũng biết và làm đúng kỹ thuật. Có những hộ, dù đào sâu tới 4m nước, cá chết vẫn chết.

Xây nhà đúng hướng đông bắc chắn gió cho đầm cá vược

Thứ nhất, khi nạo vét đáy, căn làm sao mạn đáy chính hướng gió đông bắc sâu hơn cả. Cũng hướng đông bắc, trên bờ phải xây nhà, lều bạt để chắn gió. Bởi lẽ, khi gió mùa đông bắc tràn về, nếu như bờ đông bắc sâu hơn, được chắn gió, nước sẽ ấm hơn. Đàn cá sẽ tự dồn về phía đông bắc tránh rét, giảm thiểu thiệt hại. Tuyệt đối không được đào sâu hướng nam, khi gặp gió đông bắc, nước sẽ tạo thành dòng xoáy, dễ khiến cá bị ngạt do thiếu ôxi.

Thứ hai, khi nhiệt độ dưới 15oC, tuyệt đối không được dùng hệ thống quạt nước. Khi trời lạnh, sức đề kháng của cá rất yếu, nếu dùng quạt không khác gì tiếp thêm sức cho gió đông bắc. Cá ngạt và chết nhanh hơn.

Anh Văn cũng chia sẻ kinh nghiệm, trước khi vào mùa rét, cần cho cá ăn nhiều hơn. Cá vược phải cho ăn theo nhu cầu. Bao giờ cá ăn no thì thôi. Vì khi trời lạnh, cá ăn rất ít. Nếu không đủ sức đề kháng, cá chống chịu lại độ lạnh rất kém. Điều đặc biệt quan trọng, sau đợt lạnh đầu tiên, trước khi trời hửng nắng hoặc mưa rào, người nuôi cần tranh thủ dùng các loại hóa chất “đánh” xuống ao đầm để khử trùng nguồn nước.

Theo anh Văn, khi đó sức đề kháng của cá rất yếu, thời tiết thay đổi đột ngột từ lạnh sang nóng khiến các loại bệnh phát triển mạnh. Nếu người nuôi không phòng trừ kịp thời, cá có thể chết.

Cái khó ló cái khôn

Anh Nguyễn Đức Diễn, xã viên HTX Nuôi trồng thủy sản Mắt Rồng bảo với chúng tôi, cái khó ló cái khôn. Xem thông báo sắp có rét đậm, rét hại, anh Diễn vò đầu, bứt tai, cuối cùng đưa ra sáng kiến dựng nhà bạt, thắp đèn tránh rét cho cá.

Trên một góc ao nuôi hướng Đông Bắc, anh cho dựng một tấm bạt dài hơn 50m. Bạt được dựng thành kèo chữ A, chừng 3m lại có một cọc chống. Sau đó, anh dùng dây điện luồn xuyên qua đỉnh của chữ A rồi đấu các bóng điện. Công suất mỗi chiếc bóng 250W. Hai mép bạt đều được dìm xuống nước, giữ cho nhiệt lượng từ bóng đèn tỏa ra hắt thẳng xuống mặt nước. Trong mấy ngày rét, anh cho thắp điện cả ngày lẫn đêm.

Bóng đèn, đui và dây diện dùng cho hệ thống nhà bạt của anh Diễn

“Thấy bóng điện sáng với nước ấm, cá kéo về hàng đàn tránh rét anh ạ. Tôi tưởng không hiệu quả, thử dùng vợt khua xuống nước, thấy cá vào rất nhiều. Đúng là cái khó ló cái khôn, không có cái nhà bạt này thì cá chết hết rồi”, anh Diễn chia sẻ.

Nhiều người thấy cách làm hay của anh Diễn liền học theo, hiệu quả rõ rệt.

Không tránh khỏi thiệt hại

Dù áp dụng nhiều biện pháp, tuy nhiên một phần diện tích nuôi cá vược của HTX Nuôi trồng thủy sản Mắt Rồng vẫn bị thiệt hại. Có khoảng 32/65 số hộ nuôi trồng bị thiệt hại. Lượng cá bị chết trong đợt rét vừa qua là 167,9 tấn. Theo anh Văn, những trường hợp này đã phần chưa kịp cải tạo ao, đầm hoặc làm sai kỹ thuật trong quá trình cải tạo.

Bên cạnh diện tích cá vược thương phẩm được bảo toàn, 1,8 vạn cá giống của gia đình anh Diễn bị chết không còn một con. Đây là diện tích anh mới thuê lại, chưa kịp cải tạo. Mực nước trong ao trung bình chỉ đạt 1,8m, ao lại nằm đúng hướng gió đông bắc. Cái khó nằm ở chỗ, việc cải tạo ao, đầm phải tuân thủ nguyên tắc “bòn rút” trong nhiều năm.

Mỗi năm, người nuôi phải nạo vét từng ít một nhằm tránh phá vỡ môi trường nuôi, sụt lún bờ kè. Nếu nhiệt độ se lạnh, cá sẽ không chết, nhưng nếu mức nhiệt xuống 5 – 6oC như đợt vừa qua, người nuôi sẽ không kịp trở tay. Với 11 tấn cá giống bị chết, thiệt hại của gia đình anh Diễn khoảng 1,1 tỷ đồng.

Sai lầm sử dụng quạt nước khi nhiệt độ dưới 15oC khiến cá chết

Ngay cả những đầm nuôi có mực nước sâu tới 4m, cá vẫn chết. Như gia đình anh Đinh Văn Tuấn, bị chết tới gần 30 tấn cá vược. Nguyên nhân là do khi cải tạo ao đầm, đáy bờ phía nam lại đào sâu hơn bờ đông bắc, khiến cá bị ngạt, thiếu chỗ trú ẩn và chết.

Về những thiệt hại kể trên, anh Văn cho biết, đã tổng hợp số liệu, báo cáo lên Phòng NN-PTNT huyện Thủy Nguyên. Ngay sau đó, đơn vị này đã báo cáo lên Sở NN-PTNT Hải Phòng. Theo thông tin mới nhất PV NNVN nắm được, Sở NN-PTNT Hải Phòng đã gửi công văn lên UBND TP đề xuất kinh phí hỗ trợ thiệt hại cho người dân.

Ông Đinh Như Dự, Chủ tịch UBND xã Lập Lễ cho biết, nghề nuôi cá vược của địa phương có từ rất lâu đời, nhưng chưa bao giờ hứng chịu đợt rét nào khắc nghiệt như vừa qua. Trước mỗi vụ rét, chính quyền xã cũng thường xuyên tuyên truyền, đôn đốc các hộ nuôi chủ động phòng tránh. Tuy nhiên, như năm nay thì không tránh khỏi thiệt hại.

“Người nuôi cá vược ở Lập Lễ cũng chỉ gột cá giống vừa đủ nhu cầu cho vụ mới. Nhà nào bị thiệt hại cá giống, bắt buộc phải mua lại giống cỡ to mới kịp thời vụ, nếu không sẽ phải để trắng ao đầm một vụ, chờ gột cá con”, anh Nguyễn Đức Văn, GĐ HTX Nuôi trồng thủy sản Mắt Rồng.

HÀN KẾ – Nông Nghiệp VN, 23/02/2016

Các tin có liên quan