Kỹ thuật nuôi cá chạch (chạch bùn, chạch lấu, chạch quế, chạch đồng)

Kỹ thuật nuôi cá chạch bùn (chạch đồng)

Tên khoa học: Misgurnus anguillicaudatus Cantor, 1842

Đặc tính sinh thái:

Ở Việt Nam, chạch bùn phân bố tự nhiên ở miền Bắc, miền Trung.

Trong tự nhiên chạch bùn sống đáy, ở khu vực nước nông của sông, ao, hồ, kênh mương, ưa nước sạch; không thích hợp với môi trường bùn đáy ô nhiễm nhiều mùn bã hữu cơ.

Chạch có thể sinh trưởng và phát triển ở nhiệt độ 15-30 độ C, thích hợp nhất là 25-27 độ C. Cỡ thương phẩm từ 25-30g/con, chiều dài 13-15cm, con to nhất có thể đạt 100g/con dài 20cm.

Cá hô hấp bằng mang và da. Khi nước thiếu oxy cá có thể lên mặt nước đớp không khí, thực hiện việc trao đổi khí trong ruột sau đó khí được thải qua hậu môn ra ngoài. Khi thời tiết quá lạnh, quá nóng, cá rúc sâu xuống bùn.

Thời gian từ khi ép đẻ nhân tạo và nuôi cho đến khi xuất bán trong vòng bốn tháng, cá được chừng 10 – 15cm.

Tuổi thành thục: 2 năm tuổi

Mùa đẻ trứng: từ tháng 4 đến tháng 9, rộ nhất từ tháng 5 đến tháng 7.

Lượng trứng: Cá cái thân dài 8 cm có khoảng 7000 trứng; thân dài 15 cm có khoảng 12-18.000 trứng; thân dài 20 cm có 16-24.000 trứng.

Trứng có dạng hình tròn, đường kính 1,2-1,5 mm, màu vàng, dính nhẹ.

Khi đẻ trứng chạch đực dùng móm kích thích vào bụng cá cái, cá cái ngoi lên mặt nước, cá đực đuổi theo và quấn chặt vào thân cá cái, lúc này con cái đẻ trứng, con đực phóng tinh. Trứng cá bám dính trên cỏ hoặc các vật khác, sau 2-3 ngày trứng nở thành cá bột.

Cho đẻ nhân tạo và ương chạch con

Chọn cá bố mẹ đã thành thục tốt. Cá cái thân dài 13 cm, nặng trên 20 g, bụng to và mềm, không bệnh tật, màu vàng cam, cá chạch đực dài trên 10cm.

Cá chạch cái: Hình ống tròn, bụng to tròn, vây ngực rộng và ngắn nhỏ, đầu trước hơi tròn.

Cá chạch đực: Hơi giống hình chóp chòn, bụng bé; vây ngực to hơn con cái, 2 sườn đầu cuối của chân vây ngực có mẩu thịt nổi rõ rệt

Thuốc thuốc kích thích sinh sản nhân tạo: não thùy cá chép, LRHa + DOM và Prolan B (HCG), liều dùng cho 1 chạch cái là 1 não thùy cá chép hoặc 100-150UI HCG. Liều dùng cho chạch đực bằng 50%. Vị trí tiêm: ở đường giữa phần bụng đoạn giữa vây ngực và vây bụng.

Tiêm xong bỏ cá vào giai cước cho cá đẻ trứng. Trong giai treo các tổ đẻ, mỗi giai thả 20-40 con, tỷ lệ đực : cái = 1:1, 1:2. Nếu tiêm lúc 6 giờ tối thì 6 giờ sáng hôm sau chạch đẻ. Khi chạch đẻ xong đem các tổ đẻ đã được trứng bám nhiều đưa vào bể ấp (nếu để tổ đẻ lâu trong giai sẽ bị bố mẹ ăn trứng).

Nếu làm thụ tinh nhân tạo, trước hết mổ chạch đực lấy sẹ, cắt nhỏ, dầm vào nước muối sinh lý, sau vuốt trứng cá cho vào thụ tinh, trứng thụ tinh rắc bám dính vào tổ cá, đưa tổ cá vào bể ấp.

Ương chạch con

Diện tích bể ấp trứng: 30-50 m2, nước sâu 30-40 cm.

Mật độ ương: 300 con/m2.

Trước khi ương phải tẩy dọn, sát trùng bể ương, bón phân gây màu, sau khi thả chạch vào tiếp tục bón phân và cho ăn thức ăn.

Lượng thức ăn hàng ngày 5-8% trọng lượng chạch con. Ngày cho ăn 3-4 lần.

Khi cá đạt cỡ 5-6 cm nặng 1,5-2 g đưa ra nuôi thương phẩm.

Nuôi chạch con qua đông đến tháng 4, 5 chuyển sang ao nuôi chạch thương phẩm.

Mô hình nuôi:

Nuôi trong ao: mực nước không quá 40cm, trong ao có các mương, hố sâu 50-60cm để chạch trú ẩn. Theo Việt Linh, bà con có thể thả bèo tây để tạo chỗ trú ẩn cho cá tránh nóng, tránh rét và làm sạch môi trường nước. Khi trời rét cũng có thể sử dụng rơm rạ thả cho cá trú ẩn, đồng thời bơm nước cao từ 70-80cm để nuôi xen canh với các loại cá khác như trắm đen, cá chép để tận dụng thức ăn dư thừa. 

Nuôi trong ruộng: đáy bùn phải sạch, mức nước: 20 – 40 cm, độ dày bùn đáy: 15-20cm. Bón phân chuồng ủ hoai mục trước khi cấy lúa để tạo thức ăn tự nhiên cho chạch. Đào mương nhỏ rộng 1,2-1,5 m, sâu: 30-40 cm chạy dài quanh ruộng để cá trú nắng và tháo nước khi thu hoạch. Nuôi trong ruộng có thể đạt tỷ lệ sống 70-90%.

Thời điểm thả nuôi: tháng 3- 4 sau khi cấy lúa xong. Sau 5-6 tháng nuôi cá chạch thương phẩm đạt kích cỡ 25-40 con/kg có thể thu tỉa hoạc thu toàn bộ.

Nuôi ghép: Có thể nuôi cua kết hợp với chạch bùn nếu được cung cấp đủ thức ăn.

Chọn giống:

Giống khai thác tự nhiên: bắt bằng đơm đó, chũm; không mua giống đánh bắt bằng điện. Giống phải đồng đều 4-6 cm, không xây xát, mất nhớt.

Giống nhân tạo: Khi ép đẻ cá chạch bùn, khó khăn nhất là thời gian nuôi từ trứng ra con giống dài từ vài li đến 3cm. Chạch bùn sau khi được 3cm sẽ sống khoẻ, nuôi dễ dàng.

Nên chọn cỡ giống 1,5-2g/con

Mật độ thả nuôi: 30-50 con/m2. Hoặc thả 10-15 kg chạch giống /100 m2 ao.

Cho ăn và chăm sóc:

Thức ăn: Chạch ăn tạp, lúc nhỏ ăn động vật là chính (động vật đáy, động vật phù du) lúc lớn ăn thực vật là chủ yếu.

Cỡ dưới 5 cm chủ yếu ăn luân trùng, râu ngành, chân chèo và các động vật phù du khác. Cỡ 5 – 8cm ngoài động vật phù du, cá có thể ăn giun nhỏ và ấu trùng muỗi lắc. Cỡ 8 – 9cm cá ăn tảo khuê, thân lá cây cỏ non và hạt ngũ cốc, cỡ trên 9cm chạch chuyển sang ăn thực vật là chính.

Có thể sử dụng nhiều loại thức ăn khác nhau như: khô đậu, cám gạo, nhộng tằm, thức ăn chế biến, thức ăn công nghiệp, cá tạp, ốc xay.

Thức ăn công nghiệp dạng viên nổi dùng cho cá chạch có hàm lượng đạm từ 30-35%.

Lượng thức ăn: 5-8% trọng lượng thân

Thời gian cho ăn: Cá có tập tính ăn chủ yếu vào ban đêm, nên cho cá vào chiều tối. Cho ăn 1-2 lần / ngày.

Thường xuyên kiểm tra tốc độ sinh trưởng của cá.

Tỷ lệ sống đạt 65-80%. Nuôi trong ruộng có thể đạt tỷ lệ sống 70-90%.

Việt Linh © biên soạn

Tham khảo:

Nuôi cá chạch bùn

Cá chạch bùn có thịt thơm ngon, xương mềm nên thị trường nội địa tiêu thụ rất mạnh. Cá có nguồn gốc từ Đài Loan được đưa về Việt Nam nhân giống, tuy mới nuôi thử nghiệm vài năm nhưng kết quả khả quan. Nhiều bà con nông dân đang đầu tư SX con giống và nuôi cá thịt hướng tới xuất khẩu.

Nuôi, đẻ thành công

Ông Bùi Vĩnh Thái, người đầu tiên ở An Giang thực hiện mô hình nuôi cá chạch bùn trong ao đất mang lại hiệu quả cao. Ông còn thành công trong việc SX con giống tại cơ sở ấp Hòa Thuận, xã Hòa Bình Thạnh, huyện Châu Thành (An Giang). Hiện nay, không riêng ông Thái cho đẻ nhân tạo cá chạch bùn, nhiều viện nghiên cứu nuôi trồng thủy sản cũng nghiên cứu cho cá chạch bùn sinh sản nhằm giúp người nuôi đẩy mạnh phát triển nuôi cá thương phẩm.

Ông Thái cho biết, ông bắt đầu thả nuôi cá chạch từ tháng 4/2013 với số lượng ban đầu là 300.000 con giống trên diện tích 2.000 m2. Đến nay, ông đã tăng diện tích lên 10 ao với khoảng 5 ha. Nguồn lợi nhuận mang lại cho ông hàng chục triệu đồng/tháng. Được biết, tại các tỉnh Đồng Tháp, Hậu Giang, Cần Thơ và một số tỉnh miền Đông, nhiều hộ nuôi cũng đang mở rộng diện tích SX con giống và cá thương phẩm.

Theo kinh nghiệm của ông Thái, cá chạch bùn tuy tỷ lệ hao hụt hơi cao, nhưng dễ nuôi, mau lớn, hồ nuôi chỉ cần nước sạch, thông thoáng, không đòi hỏi phải có cánh quạt nước nên đỡ tốn kém. Thời gian nuôi từ lúc mới thả đến lúc thu hoạch mất 3 tháng rưỡi. Kích thước bình quân của một con cá trưởng thành là 15 cm, dài nhất 28 cm (25 – 30 con/kg).

Đặc biệt, cá chạch bùn khi chuyển đi xa, người ta có thể ướp nước đá cho cá ngủ đông trong khoảng 5 tiếng đồng hồ. Sau đó thả cá vào nước ngọt, cá sẽ sống lại nên rất thuận tiện cho việc chuyên chở. Nhờ có nhiều năm kinh nghiệm nuôi cá nước ngọt nên ông Thái nắm vững kỹ thuật chọn cá bố mẹ, cho cá sinh sản… Ông khẳng định: “Cá chạch bùn không những dễ nuôi mà còn phát triển nhanh, giá cả thị trường hiện rất hấp dẫn nên tôi mạnh dạn đầu tư vào mô hình này”.

Ông Thái không những SX con giống mà còn SX cá thương phẩm để cung cấp cho thị trường Cần Thơ, An Giang và các tỉnh lân cận. Từ đầu năm 2013 đến nay ông đã cung cấp hơn 42 triệu cá bột, hiện bán với giá 40 đồng/con. Nếu bán cá hương sẽ được 1.000 đồng/con. Ngoài ra ông còn đưa ra thị trường trên khoảng 1,7 tấn cá thịt với giá 300.000 đồng/kg.

Ngoài việc SX và ươm giống, ông còn làm đầu mối thu mua cá chạch của nông dân đem đi tiêu thụ các nhà hàng trong khu vực ĐBSCL. Tuy bận rộn công việc, nhưng ông Thái sẵn sàng hướng dẫn nhiệt tình, tư vấn kỹ thuật nuôi cá cho bà con nông dân, nhằm tạo điều kiện cho người nuôi phát triển ngày càng nhiều, nhằm góp phần tăng đa dạng hóa loài thủy sản nước ngọt.

Hiện nay, có một số người, trong đó có nhà hàng và quán ăn đã nhầm lẫn giữa cá chạch bùn và chạch quế. Cá chạch bùn mình dẹp, khi nấu chín xương mềm, còn cá chạch quế thịt cũng rất thơm ngon nhưng mình hơi tròn và xương cứng.

Theo tài liệu nghiên cứu của một số cán bộ thuộc Viện Nghiên cứu nuôi trồng thủy sản I, cá chạch bùn là loại mới nhập khẩu đang được nhân rộng và phát triển ở miền Trung và các tỉnh ĐBSCL. Chạch bùn có thể sống ở sông, hồ, ao và ruộng lúa, nơi có đáy bùn và nước chảy nhẹ. Hiện nay, các nhà nghiên cứu đã cho sinh sản nhân tạo thành công, kích thích bằng não thùy. Kết quả cho thấy cá cái thụ tinh đạt 70% và tỷ lệ nở đạt 60%.

Ông Thái cho biết thêm: “Trong thiên nhiên, cá chạch bùn lúc nhỏ ăn giun và ấu trùng trong đất là chính, sau đó chuyển dần sang ăn tạp. Đến giai đoạn trưởng thành, thức ăn chủ yếu của chúng là thực vật như tảo, thân lá cây, cỏ non. Đối với cá nuôi, người ta sử dụng nhiều thức ăn khác nhau, từ thức ăn chế biến đến thức ăn công nghiệp. Khi cá có chiều dài trên 5 cm, người ta thường cho ăn thức ăn dạng viên nổi, độ đạm dao động từ 38-40%”.

Theo ông Thái khi nuôi cá chạch bùn rất yên tâm và chủ động hoàn toàn nguồn thức công nghiệp, giúp cá khỏe và nhớn nhanh. Với hệ số thức ăn 1.7 sẽ cho ra 1 kg cá chạch thương phẩm khoảng 25 – 30 con.

Cá chạch bùn thường sinh sản từ tháng 4 đến tháng 10, tỷ lệ sinh sản cao nhất từ tháng thứ 6 – 8. Cá bột sau khi nở được ươm trong bể xi măng, ăn thức ăn phù du và lòng đỏ trứng. Cá hương cũng tiếp tục ươm trong bể xi măng rộng hơn và ăn thức ăn viên công nghiệp. Thường mỗi ngày cho ăn 2 lần lúc 8 giờ sáng và 4 giờ chiều.

Muốn cho cá mau lớn và đạt năng suất cao, bể nuôi và ao nuôi cần được thay nước sạch thường xuyên. Nói tóm lại, dù nuôi ở bất cứ hình thức nào, muốn thành công, người nuôi phải tuân thủ nghiêm nhặt các quy định về chuyên môn, nhất là ao nuôi phải được cải tạo và thường xuyên phòng chống dịch bệnh.

Con cá tiềm năng

Sau khi tham quan các ao cá chạch bùn của ông Thái, ông Lê Văn Hải, Phó Chủ tịch Hội Nông dân xã Hòa Bình Thạnh nhận định, đây là mô hình mới mẻ nhưng thật hấp dẫn và độc đáo được nuôi và nhân giống tại An Giang. Nó có thể giúp người nuôi mở ra một con đường phát triển SX đầy triển vọng.

Tuy nhiên, muốn phát triển bền vững, tránh điệp khúc “hàng nhiều dội chợ”, gây tổn thất cho người nuôi, các nhà chuyên môn, các ngành chức năng phải vào cuộc bằng cách hướng dẫn, tư vấn cho bà con nắm bắt được những thông tin khoa học, kinh tế cần thiết để tránh những thiệt hại về sau. Bằng kinh nghiệm nuôi trồng và SX kinh doanh, chắc bà con chưa quên những bài học xương máu về con cá tra, cá rô đầu vuông và cá điêu hồng “hễ được mùa là rớt giá”.

TS Bùi Minh Tâm, Phó trưởng Bộ môn Kỹ thuật nuôi thủy sản nước ngọt, Khoa Thủy sản, Trường ĐH Cần Thơ có ý kiến việc nuôi cá chạch như sau: “Ở ĐBSCL có nhiều loại cá chạch như chạch khoan, chạch rằn, chạch bông, chạch cơm, chạch lấu… Chúng thường sống trong ao hồ, sông rạch và thích ẩn mình dưới những lớp bùn, hoặc đeo bám theo các giề lục bình, nơi sông sâu nước chảy. Riêng cá chạch bùn (tên khoa học Misgurnus anguillicaudatus Cantor) là loại cá mới xuất hiện trên thị trường gần đây. Giá trị kinh tế cao, được nhiều người ưa dùng.

Tuy nhiên, không vì thế mà chúng ta phát triển ồ ạt, bất chấp những quy luật khách quan, có thể dẫn tới nhiều rủi ro và bất trắc sau nầy. Thực tế cho thấy, cá chạch bùn không dễ nuôi như một số người đã nghĩ. Nếu không nắm vững kỹ thuật, nhất là thức ăn, môi trường nước, cá sẽ chậm lớn, hao hụt nhiều, năng suất không cao.

Muốn đầu tư và phát triển bền vững, đạt hiệu quả, nhất thiết chúng ta cần phải lắng nghe những lời khuyến cáo của các nhà khoa học, các chuyên gia về thực phẩm, đặc biệt là ý kiến tư vấn của ngành khuyến nông khuyến ngư”.

Theo ông Tâm, việc phát triển nuôi trồng thủy sản hiện nay được Bộ NN-PTNT động viên và khuyến khích nhất là các loài thủy sản bản địa. Riêng đối với các loài thủy sản có nguồn gốc từ nước ngoài, chúng ta nên hết sức thận trọng, đi từng bước và tuyệt đối phải tuân thủ ý kiến chỉ đạo và lời khuyến cáo của ngành thủy sản và các cơ quan chức năng.

Lê Hoàng Vũ – Nông nghiệp VN, 31/12/2013

Tạp chí Khoa học 2010:15b 70-80 Trường Đại học Cần Thơ

NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC CÁ CHẠCH LẤU (MASTACEMBELUS ARMATUS)

Nguyễn Văn Triều (1)

ABSTRACT

This study was carried out from March, 2007 to March, 2008 in Cantho University. The study was focused on feeding habit and reproductive biology of Mastacembelus armatus. Fish samples of 30 fishes were collected monthly.

The results showed that Mastacembelus armatus is carnivorous fish with insect (40.6%), small trash fish (23.9%), and crustacean (16.4%) were mostly found in fish stomach. The ovary of M. armatus developed through out 6 stages (I-VI). The spawning season was from on May to August, focused on June and July yearly. Gonasdo somatic index (GSI) of female and male zig-zag eel were 3.61 and 0.21, respectively. Absolute spawning fecundity was in range of 11.209 – 45.631 eggs/female.

Keywords: Mastacembelus armatus, feeding habit and reproductive biology

Title: Study on the biological characteristics of Mastacembelus armatus

TÓM TẮT

Nghiên cứu được tiến hành từ tháng 3/2007 đến tháng 3/2008 tại Trường Đại học Cần Thơ. Nghiên cứu được tập trung vào đặc điểm sinh học dinh dưỡng và sinh sản cá Chạch lấu. Mẫu cá Chạch lấu được thu 30 con/ tháng.

Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng cá Chạch lấu là loài ăn động vật với côn trùng (40,6%), cá nhỏ (23,9%) và giáp xác (16,4%) là những loại thức ăn chính. Tuyến sinh dục của cá phát triển qua 6 giai đoạn (I-IV). Mùa vụ sinh sản là từ tháng 5 đến tháng 8, tập trung vào tháng 6 và 7. Hệ số thành thục trung bình của cá Chạch lấu cái là 3,63%, ở cá đực là 0,21%. Sức sinh sản tuyệt đối từ 11.209 – 45.631 trứng/cá cái.

Từ khóa: cá Chạch lấu, Mastacembelus armatus, dinh dưỡng, sinh học sinh sản

1 GIỚI THIỆU

Theo đánh giá của những người dân nuôi cá ở tỉnh Đồng Tháp thì Cá Chạch Lấu (Mastacembelus armatus) là loài có triển vọng phát triển. Cá có chất lượng thịt ngon, có thể chế biến được nhiều món ăn nên rất được ưa chuộng, hiện giá bán bình quân khoảng 120.000 – 180.000 đồng/kg. Cá Chạch lấu tên khoa học là Mastacembelus armatus Lacepède), có tên đồng danh là Mastacembelus favus Hora, 1923 (Rainboth, 1996). Cá phân bố ở nước ngọt và lợ nhạt, có kích thước có thể đạt tới 91 cm (Sokheng, 1999), pH thích hợp là 6,5 – 7,5 (Riede, 2004). Thức ăn chủ yếu của cá là thức ăn tươi sống như cá, giáp xác, giun, côn trùng sống đáy (Pethiyagoda, R., 1991; Rainboth, 1996). Cá thường sinh sản vào tháng 4 đến tháng 6 hằng năm (Pathiyagoda,1991). Với những đặc tính trên thì cá Chạch lấu là đối tượng nuôi rất phù hợp với điều kiện ở đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL).

(1) Khoa Thủy sản, Trường Đại học Cần Thơ

Kỹ thuật nuôi cá chạch đồng

Hiện nay chạch đồng trong tự nhiên bị suy giảm nghiêm trọng do đánh bắt tùy tiện, dùng các phương tiện hủy diệt như xung điện, dùng nhiều loại thuốc hóa chất trong nông nghiệp. Vì vậy giá chạnh thương phẩm liên tục tăng và khan hiếm, nhiều nơi gọi chạch là “sâm đất” bởi chúng có giá trị rất cao trong bồi bổ sức khỏe. Chạch ngon được xuất ngoại nên chỉ có chạnh nhỏ mới được bán trong nước. Ở đồng bằng sông Cửu Long vào thời điểm đầu năm 2013 giá 1 kg chạch là 200.000 đồng, ở miền Bắc là 150.000 đồng/kg. Trước diễn biến giá chạnh thương phẩm cao, các nhà sản xuất đã cho đẻ nhân tạo và nuôi chạch thương phẩm thành công. Chỉ sau gần 2 năm nghiên cứu, đến nay chạnh giống đã được sản xuất và nuôi thương phẩm ở nhiều nơi, cả miền Bắc và miền Nam. Chạch thương phẩm đã được bán nhiều trên thị trường trong nước với giá người tiêu dùng có thể chấp nhận được, khoảng 100.000 đồng/kg (cỡ khoảng 50 con/kg).

Để biết thêm về mô hình nuôi chạch đồng, chúng tôi xin hướng dẫn vắn tắt quy trình nuôi chạnh thương phẩm để bà con nghiên cứu áp dụng.

  1. Chuẩn bị ao, bể nuôi chạnh

Bà con có thể nuôi chạnh ở ao đất, bể xi măng, bể lót bạt. Tùy theo điều kiện đầu tư để quyết định diện tích nuôi. Nên thiết kế ao, bể có diện tích vừa phải, từ 5- 10 m2 để dễ chăm sóc, quản lý, thu hoạch. Ao, bể chủ động nước, cống lấy nước vào, tháo ra đối diện nhau là tốt nhất, đảm bảo mát về mùa hè, ấm về mùa đông.

  1. Chuẩn bị giống

Để tránh hao hụt nhiều, bà con nên mua giống cỡ lớn (khoảng 300 con/kg), chọn con giống đều cỡ, màu sắc tươi sáng, khỏe mạnh, không xây xát, không bệnh tật.

  1. Quản lý và chăm sóc

Trước khi thả phải tắm chạch giống để phòng bệnh bằng nước muối 3% thời gian từ 10-15 phút, hoặc tắm bằng povidine liều lượng 5ml/m3 nước. Mật độ thả 50-100 con/m2. Chạch dễ nuôi hơn lươn, thức ăn của chạnh đơn giản hơn. Chạnh ăn mùn bã hữu cơ, khi chạnh còn nhỏ cho ăn thức ăn có độ đạm trên 30%, sau đó giảm dần, nuôi 30 ngày sau dùng thức ăn có độ đạm 20 -25%, ngày cho ăn 2 lần (sáng, chiều tối). Trung bình 1,4 kg thức ăn cho 1 kg chạnh thương phẩm. Sau 3 tháng là có thể bán thương phẩm.

  1. Phòng bệnh và trị bệnh
  • Phòng bệnh: Chạch ít bị bệnh hơn lươn, tuy nhiên nếu để nước ô nhiễm nhiều ngày thì chạch cũng dễ bị bệnh. Chạch có thể bị nấm, đốm đỏ lở loét, bệnh đường ruột… Để phòng bệnh nên trộn thêm vitamin C, men tiêu hóa vào thức ăn cho chạch, định kỳ cho ăn 2 lần/tháng, mỗi lần 3-5 ngày liên tục. Ngoài ra còn phải cho ăn 4 đúng (đúng chất lương, đúng số lương, đúng thời gian, đúng vị trí). Chú ý thay nước định kỳ không để nước ô nhiễm.
  • Trị bệnh: Khi phát hiện chạnh bị nấm có thể tắm cho chạnh bằng các loại hóa chất sau: nước muối 3%; hoặc KMn04 liều lượng 20g/m3 nước, thời gian 10-15 phút.

Trộn kháng sinh vào thức ăn cho chạnh ăn.

  1. Thu hoạch

Khi chạnh đạt giá trị thương phẩm, trước khi xuất bán không cho chạch ăn trước 1 ngày, không dùng kháng sinh trước khi xuất bán 15 ngày. Đánh bắt cẩn thận không để chạnh xây xát, cho chạch vào thùng xốp, không cho nước, hoặc cho ít nước để chạnh không bị khô da.

Bà con cần tư vấn thêm về kinh nghiệm nuôi, liên hệ: Anh Phạm Hữu Bon tổ trưởng tổ thủy sản Trung tâm giống vật nuôi cây trồng thủy sản, thành phố Cần Thơ. Số điện thoại 0945.020.513.

Kim Văn Tiêu – TTKNQG – Khuyến nông VN, 7/5/2014

Kinh nghiệm nuôi ghép cá chạch đồng với cua đồng

Nuôi ghép chạch đồng và cua đồng trong ruộng lúa là một hướng đi mới khả quan, được nhiều người dân quan tâm do vốn đầu tư ít, dễ nuôi, hầu như không bị bệnh, thức ăn sẵn có trong tự nhiên.

  1. Đặc điểm sinh học của chạch đồng và cua đồng
  • Chạch đồng có tập tính thích sống chui rúc vào trong bùn.
  • Cua đồng bò dưới đáy mặt nước và đào hang để sống hoặc chui rúc vào các bụi, rễ gốc cây thủy sinh. Cua có khả năng bò trên cạn và di chuyển rất xa, mỗi lần lột xác trọng lượng của cua tăng từ 20-50% trọng lượng có thể.
  • Hai loài này đều có đặc điểm chung là ưa hoạt động về đêm, không thích ánh sáng mạnh nên ban ngày chỉ ở trong hang hoặc rúc dưới bùn, ít khi ra ngoài, chỉ khi trời tối chúng mới ra ngoài kiếm ăn. Thức ăn chủ yếu của chúng là tôm, tép, cá tạp, giun, ốc, ngũ cốc… Nhiệt độ nước có thể sinh trưởng và phát triển từ 20-30 độ C, tốt nhất từ 25-27 độ C, độ pH từ 6,5-8. Vào mùa mưa (từ tháng 3 đến tháng 8 hàng năm) chạch đồng và cua đồng sinh trưởng, phát triển mạnh và sinh sản nhiều. 
  1. Chuẩn bị ruộng nuôi 

Để chạch đồng, cua đồng sinh trưởng và phát triển tốt và không bị thất thoát thì phải chuẩn bị ruộng nuôi thật tốt trước khi thả giống. 

  • Chọn ruộng nuôi: Ruộng bằng phẳng, giữ nước tốt, nguồn nước dồi dào, cấp thoát nước thuận lợi, chất nước không bị ô nhiễm, chất đất là loại đất thịt. 
  • Diện tích ruộng nuôi: Tùy theo điều kiện diện tích ruộng nuôi thích hợp từ 3.000 – 5.000m2. Lúa vụ Đông Xuân sau khi thu hoạch cắt để rạ dài là lúa chét tận dụng làm thức ăn cho chạch và cua. Sau đó kích nước vào ruộng cao 0,5 – 0,7 mét. 
  • Đào mương bao quanh và mương giữa. Mương bao quanh chân bờ sâu 0,8-1,0m, rộng 3-5m. Nếu ruộng rộng, đào thêm ở giữa ruộng hình chữ “+” hoặc “#” rộng 1-1,5m, sâu 0,5-0,8m. Tổng diện tích cả 3 loại mương chiếm khoảng 15-20% diện tích đất ruộng.

Mục đích của việc đào mương trũng trong ruộng là tạo nơi trú ẩn cho chạch đồng và cua đồng khi thời tiết nắng nóng, lạnh hoặc thay đổi bất thường của môi trường. 

  • Bờ ruộng phải được làm cao và to. Chú ý nện đất chặt để tránh nước bị rò rỉ. Các cửa cống cấp thoát nước phải chắn bằng đăng tre hoặc lưới cước thích hợp, nền cống phải đầm chặt. 
  • Đặt lưới chắn xung quanh ruộng, nếu lưới bằng nilon mỏng thì phải đóng cọc cao hơn mặt bờ 40-50cm, lấy dây thép buộc nối các đầu cọc với nhau, gấp đôi tấm nilon lên dây thép cho rủ xuống đất thành 2 lớp rồi vùi sâu trong đất bờ từ 15-20cm. Nếu chắn bằng tấm nhựa hoặc fibroximăng… thì chỉ cần vùi xuống đất 15-20 cm, đầu trên cao hơn mặt đất ít nhất là 40cm, bốn góc lượn hình cung. Làm vậy để đề phòng trời mưa làm ngập bờ, chạch và cua đi ra ngoài. 
  • Trồng các loại cỏ nước phủ kín đáy mương và thả các loại cây nổi như bèo tấm, bèo lục bình, rau muống… khoảng 1/3 mặt nước. Để chạch và cua đồng trú ẩn khi thời tiết nóng hoặc rét. 
  • Nếu có điều kiện thì làm thêm bờ phụ cho chạch và cua đào hang trú ẩn, bờ phụ rộng khoảng 1m, cao hơn mặt nước lúc cao nhất từ 30-40cm, trên bờ rắc hạt điền thanh để cua và chạch tránh nắng, rét khi nhiệt độ bên ngoài môi trường thay đổi. Vì vậy bờ phụ càng rộng và chắc chắn thì sau này khi điền thanh tốt có bộ rễ phát triển gió không làm bờ bị lật đổ, đồng thời chạch đồng và cua đồng cũng ít làm ảnh hưởng đến bờ chính xung quanh ruộng nuôi. Tùy theo hình dáng và kích thước ruộng nuôi mà có thể làm bờ phụ dạng hình chữ thập hoặc hình song song. 
  • Trước khi nuôi 1-2 tuần, tiến hành tát cạn nước để diệt hết địch hại của chạch, cua và tiêu diệt mầm bệnh bằng cách bón vôi 7-10 kg/100 m2, phơi nắng 3-5 ngày, sau đó thì cấp nước vào nhưng không cho nước tràn lên ruộng, chỉ khi nào đến thời kỳ lúa sắp làm đòng mới cấp nước lên ruộng cho cua lên ruộng tìm thức ăn. 
  • Tiến hành gây màu nước bằng phân chuồng hoặc phân hóa học để tạo nguồn động vật phù du phát triển làm thức ăn cho cua giống mới thả.

Ruộng nuôi chạch đồng và cua đồng 

  1. Chọn giống 

Hiện nay trên thị trường chưa có cơ sở nào chuyên sản xuất giống nhân tạo cá chạch đồng và cua đồng. Để có được giống thả bà con có thể đặt mua gom của các thương lái. Khi mua cần chú ý: Chọn mua ở những địa chỉ tin cậy, đảm bảo chất lượng theo yêu cầu

  • Chạch đồng: khỏe mạnh, cỡ đồng đều 150-200 con/kg, sáng bóng, không mất nhớt, bơi lội hoạt bát, không bị trầy xước. Không nên mua ở chợ nếu không để ý dễ mua nhầm phải chạch đã bị kích điện, xương sống tổn thương, chạch vẹo mình, khi nuôi không lớn và làm giảm hiệu quả kinh tế. 
  • Cua đồng: khỏe mạnh, cỡ đồng đều 150-160 con/kg, không gãy càng, còng, mai sáng bóng, không bị đóng rong. 
  1. Thả giống 
  • Mùa vụ thả thích hợp là tháng 3-4 hàng năm. Thả vào lúc sáng sớm hoặc chiều mát.
  • Mật độ thả ghép chạch đồng và cua đồng: 20 con/m2 là phù hợp, trong đó
  • Chạch đồng: 16 con/m2
  • Cua đồng: 4 con/m2
    Chỉ cần thả giống 1 lần, các vụ sau không cần thả thêm vì chạch đồng và cua đồng sẽ tự sinh sản trong ruộng nuôi.
  1. Chăm sóc

Chạch đồng và cua đồng là loài có sức chống chịu với điều kiện môi trường rất tốt, hầu như không bị bệnh. Thức ăn tự nhiên rất sẵn như: ốc bươu vàng chúng ta có thể tận dụng nguồn thức ăn này rất tốt bởi hàm lượng đạm trong ốc bươu vàng khá cao. Ngoài ra có thể sử dụng thức ăn: tôm, tép, cá tạp xay, bột cá, cám gạo, cám ngô, lúa chét, bột sắn…

Chúng ta có thể tự chế biến thức ăn dạng viên hỗn hợp gồm: lúa xay + bột cá + ốc bươu vàng. Sau đó cho vào máy ép thành viên phơi sấy để cho chạch đồng và cua đồng ăn dần.

  • Sau thả giống 1-2 ngày tiến hành cho ăn. Lúc đầu cho ăn rải đều khắp ruộng, sau đó thu hẹp dần diện tích cho ăn, cuối cùng cho ăn ở 1 vài điểm cố định trong ruộng để chạch đồng và cua đồng ăn quen, thuận lợi cho quá trình thu hoạch sau này.

Cách cho ăn: Thức ăn đạm và thức ăn tinh cho ăn kết hợp với nhau, 2 ngày cho ăn một lần vào thời gian cố định chiều tối. Lượng thức ăn bằng khoảng 5% trọng lượng cơ thể cua, chạch.

Ngoài ra có thể bón thêm phân hữu cơ với lượng từ 25-30 kg/100 m2 ruộng/tháng để động vật phù du trong ruộng nuôi phát triển làm thức ăn cho chạch và cua.

Chú ý: Ở những nơi cho ăn nên đặt các sàng ăn bằng lưới mắt thật nhỏ ở dưới đáy ruộng nuôi, diện tích sàng ăn khoảng 1,0-1,5 m2 sau đó bỏ thức ăn vào sàng. Sáng hôm sau kiểm tra lượng thức ăn dư thừa để có kế hoạch điều chỉnh thức ăn cho phù hợp. Vì chạch đồng và cua đồng là loài hoạt động chủ yếu về đêm nên cho ăn vào chiều tối, cho ăn vào vị trí khu vực đánh bắt. Căn cứ vào mức nước bay hơi mà thường xuyên bổ sung thêm nước vào ruộng nuôi để giữ môi trường nước trong sạch, thường xuyên duy trì mức nước 0,5-0,7m. Ruộng nuôi tuyệt đối không được sử dụng thuốc bảo vệ thực vật.

  1. Thu hoạch

Sau thời gian nuôi khoảng 4-5 tháng có thể tiến hành thu tỉa. Sau 5-6 tháng chạch đồng đạt 20-25 gr/con, cua đồng đạt 25-30 gr/con. Có thể thu tỉa hoặc thu toàn bộ.

Trước khi thu hoạch ngừng không cho ăn 1-2 ngày.

  • Thu tỉa: đặt rọ có chứa mồi là thính hoặc ốc bươu vàng đã bỏ sạch vỏ vào vị trí cho ăn. Đặt rọ vào thời điểm chiều tối hôm trước, sáng sớm hôm sau vớt rọ thu những con to, con nhỏ thả xuống tiếp tục nuôi.
  • Thu toàn bộ sử dụng đối với thu hoạch chạch đồng: Rút cạn nước từ từ để chạch đồng bơi theo dòng nước, ở chỗ cống thoát đặt lưới hoặc rọ để thu chạch.

Bà con chỉ nên thu tỉa 1 phần, phần còn lại chọn những con to khỏe để lại nuôi tiếp để cho chúng sinh sản ngay trong ruộng lấy giống cho vụ nuôi tiếp theo.

Đặng Xuân Trường – TTKNQG, Khuyến nông VN, 11/03/2014

Nuôi thử nghiệm cá chạch lấu trong ao đất

Nhằm đưa vào thử nghiệm đối tượng thủy sản mới, có giá trị kinh tế cao tại địa phương, năm 2018, từ nguồn kinh phí sự nghiệp nông nghiệp của huyện, Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Gò Quao (tỉnh Kiên Giang) đã phối hợp với Trạm Khuyến nông huyện xây dựng chương trình nuôi thử nghiệm cá chạch lấu trong ao đất tại 03 điểm thuộc xã Vĩnh Thắng, Vĩnh Hòa Hưng Nam và Thới Quản, với mật độ 2 con/m2, trên diện tích ao 500 m2 thả 1.000 con giống kích cỡ 15 cm.

Cá chạch lấu (Mastacembelus favus) là loài cá nước ngọt có khả năng sinh sống và phát triển tốt trong môi trường nước ngọt, lợ. Cá có thân màu xanh đậm hoặc đen xám, trên thân có nhiều đốm vàng hình tròn hoặc bầu dục; vây lưng có gai, vây hậu môn và vây ngực có đốm đen nhỏ, không có vây bụng. Cá phân bố ở hầu hết các kênh rạch, ưa sống tại nơi có dòng nước chảy xiết, hàm lượng ôxy hòa tan cao. Khi còn nhỏ, thức ăn chủ yếu của cá là giun, ấu trùng côn trùng, giáp xác nhỏ. Khi lớn, cá ăn côn trùng trưởng thành, tôm tép, cá nhỏ. Ngoài tự nhiên, tăng trưởng của cá chạch lấu sau 1 năm tuổi có thể đạt 150-250 g/con, dài 18-25 cm; sau 2 năm đạt 450-500 g/con, dài 35-40 cm.

Để triển khai mô hình đạt hiệu quả, năm 2018, ngành nông nghiệp huyện Gò Quao đã tổ chức cho nông dân trong huyện đi tham quan học hỏi mô hình sản xuất giống và ương nuôi cá chạch lấu thương phẩm, tại huyện Phụng Hiệp, tỉnh Hậu Giang. Ông Huỳnh Văn Thua, nông dân thực hiện mô hình tại ấp Vĩnh Hòa 3, xã Vĩnh Hòa Hưng Nam cho biết: “Hiện tại cá thả nuôi được 06 tháng, cá đạt trọng lượng 150 g/con, phát triển tốt và ít bị hao hụt. Cá chạch lấu dễ nuôi. Ao nuôi nên chất một số đống chà để cá trú ẩn. Hàng ngày, cho cá ăn bằng thức ăn viên 40% đạm, do cá có tập tính ăn chìm nên thức ăn được ngâm nước, vê thành viên và bỏ trên sàn cách mặt nước 05 cm. Ngoài thức ăn viên, có thể sử dụng tép hoặc cá nhỏ làm thức ăn bổ sung giúp cá mau lớn. Định kỳ thay nước mới, để môi trường nước được trong sạch, tăng cường oxy cho cá”.

Cá chạch lấu là đối tượng bản địa, thích nghi rộng nhưng để nuôi cá chạch lấu thành công cần chú ý một số giải pháp kỹ thuật sau:

  • Chuẩn bị ao nuôi
  • Ao nuôi có diện tích từ 500 -1.000 m2, tát cạn, sên vét hết lớp bùn đáy dưới ao; bón vôi với liều lượng 7-10 kg/100 m2, phơi đáy ao 2-3 ngày, sau đó cấp nước vào ao qua lưới lọc, độ sâu cần đạt 1,2- 1,5 m.
  • Môi trường nước phải đảm bảo các chỉ tiêu chất lượng sau đây: Nhiệt độ nước từ 27- 320C, pH từ 7,5- 8,5, hàm lượng oxy hoà tan lớn hơn 5 mg/l.
  • Trong ao cần bố trí một số chà để cá trú ẩn. Sử dụng những loại cây không có tinh dầu như tre, trúc… phơi khô hoặc ống nhựa cắt khúc 30-50 cm, bó thành từng bó làm chà.

Hàng ngày cần theo dõi đánh giá các chỉ tiêu môi trường nước, đảm bảo điều kiện tốt cho cá phát triển

  • Chọn giống, thả giống
  • Nguồn cá giống được mua từ trại giống có uy tín, là giống sinh sản nhân tạo. Chiều dài cá đạt từ 12-15 cm, khỏe mạnh, không bị sây sát, không dị hình dị tật.
  • Mật độ thả ao: 2-5 con/m2.
  • Cá được chuyển về cho nghỉ ngơi 15 phút, sau đó pha nước muối loãng (100 gram muối + 10 lít nước) tắm cho cá 5-10 phút để sát trùng và loại bỏ ký sinh, rồi thả từ từ xuống ao nuôi.
  • Thức ăn và cách cho ăn
  • Trong quá trình nuôi, thức ăn chính là thức ăn dạng viên hàm lượng đạm từ 35% trở lên. Ngoài ra để tăng tính bắt mồi cho cá, nông dân có thể phối trộn thêm cá biển loại bỏ xương hấp chín vào thức ăn, vắt thành viên lớn thả vào sàn ăn.
  • Khẩu phần ăn cho cá:

Tháng tuổi

Khẩu phần ăn (% trọng lượng thân)

1-3

4-6

6 đến thu hoạch

5-7

3-5

2-3

  • Cách cho cá ăn: Hàng ngày cho cá ăn 2 lần vào 8h00 sáng và 17h00 chiều. Thức ăn được cho vào sàn và đặt gần đống chà nơi cá trú ẩn.
  • Chăm sóc, quản lý
  • Theo dõi đánh giá hàng ngày các chỉ tiêu môi trường nước, đảm bảo trong điều kiện tối hảo cho cá phát triển: pH từ 7,5-8,5; độ trong 30-40 cm; nước màu xanh đọt chuối, oxy > 5 mg/l.
  • Hàng ngày tiến hành kiểm tra ao vào buổi sáng, quan sát hoạt động của cá và màu nước ao nuôi, phát hiện kịp thời các hiện tượng bất thường của cá và môi trường để có biện pháp xử lý thích hợp.
  • Bổ sung vitamin C và men tiêu hóa vào thức ăn để tăng cường sức đề kháng cho cá, tăng hiệu quả sử dụng thức ăn.
  • Nên thay nước thường xuyên hoặc thay nước định kỳ để giữ cho môi trường ao nuôi trong sạch, nhằm tăng lượng oxy hòa tan, giúp cá tăng trọng nhanh và ổn định.

Nguyễn Thanh Nhanh – Trạm Khuyến nông huyện Gò Quao, tỉnh Kiên Giang, Khuyến Nông VN, 19/04/2019

Quy trình kỹ thuật sinh sản nhân tạo cá chạch lấu

Phần 1: Kỹ thuật nuôi vỗ cá bố mẹ.

Cá chạch lấu (Mastacembelus favus) là đối tượng nuôi mới tiềm năng và có giá trị kinh tế cao cho ngư dân trong khu vực Đồng bằng sông Cửu Long. Do đó việc xây dựng “Quy trình kỹ thuật sinh sản cũng như quy trình nuôi” là vấn đề cần được chú trọng giai đoạn hiện tại nhằm bảo tồn đối tượng quý hiếm của bản địa cũng như việc thúc đẩy sự phát triển đối trượng nuôi mới đầy tiềm năng và triển vọng. Vấn đề đặt ra phải xây dựng hoàn chỉnh “Quy trình kỹ thuật sinh sản nhân tạo cá Chạch Lấu” thành công để đáp ứng cho sự phát triển.

I. Thời vụ sản xuất giống 

Ở Đồng Băng Sông Cửu Long mùa vụ sản xuất bắt đầu từ tháng 5 đến tháng 9 hàng năm. Thời gian nuôi vỗ cá bố mẹ từ tháng 12 năm trước đến hết tháng 4 năm sau, gồm hai giai đoạn:

  • Giai đoạn nuôi vỗ tích cực từ tháng 12 đến đầu tháng 3.
  • Giai đoạn nuôi vỗ thành thục từ tháng 3 đến tháng 5.
  • Thời gian cho cá đẻ bắt đầu từ tháng 6 đến tháng 9.

II. Điều kiện nuôi vỗ cá bố mẹ 

  • Ao nuôi: Ao nuôi vỗ bố mẹ có diện tích 500 – 1000 m2.
  • Bể nuôi: Có thể nuôi vỗ cá trong bể xi măng hoặc bể loát bạt để nuôi vỗ cá bố mẹ. Diện tích bể nuôi giao động từ 20 – 25 m2 cao 1,2 m.
  • Môi trường nước trong quá trình nuôi vỗ phải đảm bảo các chỉ tiêu chất lượng sau đây:
  • Nhiệt độ nước từ 27 – 32 độ C.
  • Ðộ pH trong khoảng từ 6,5 – 8,5.
  • Hàm lượng oxy hoà tan lớn hơn 5 mg/l.

III. Kỹ thuật nuôi vỗ cá bố mẹ

  1. Tuyển chọn cá bố mẹ
    Cá bố mẹ được tuyển chọn đưa vào nuôi vỗ phải khỏe mạnh, không bị sây sxát, không dị hình, có trọng lượng từ 100 gr trở lên và trên 1 năm tuổi.
  2. Chuẩn bị ao nuôi vỗ
  • Cá chạch lấu có thể nuôi vỗ được ở cả 2 hình thức: Trong ao và trong bể xi-măng.
  • Đối với ao cần tát cạn, bón vôi 7 – 10 kg/100 m2, phơi đáy ao 2 – 3 ngày sau đó cấp nước vào ao qua lưới lọc, độ sâu cần đạt 1,2 – 1,5 m. Trong ao tạo giá thể cho cá trú ẩn như thả chà cây hoăc dùng ống nhựa Ø60 mm trở lên xuống đáy ao, chà bó lại thành bó và ống nhựa cắt từng đoạn có chiều dài 0,6 – 0,8 m thả xuống đáy ao, số lượng ống tùy thuộc số cá bố mẹ trong ao và bể, mỗi ống cho 3-5 con.
  • Đối với bể xi măng cần phải rửa sạch và chống rò rỉ, cấp nước vào đạt độ sâu 1,0 – 1,2 m và dùng ống nhựa làm chổ trú ẩn cho cá.
  • Mật độ nuôi vỗ 5kg cá bố mẹ/100 m2 ao; tỷ lệ cá đực/ cái nuôi vỗ từ 2/1 đến 1/1. Nuôi trong bể xi măng mật độ 0,2 kg/m2.
  1. Quản lý và chăm sóc ao nuôi vỗ cá bố mẹ 
    a) Thức ăn nuôi vỗ
    Thức ăn nuôi vỗ gồm các loại như: cá tạp, ốc (bỏ vỏ), trùn chỉ. Khẩu phần cho ăn 5 – 7% khối lượng cá nuôi trong ao. Cho cá ăn đủ nhu cầu.
    b) Cách cho cá ăn
    Hàng ngày cho cá ăn 2 lần vào buổi sáng và chiều: buổi sáng cho cá ăn vào lúc 8 giờ; buổi chiều cho cá ăn vào lúc 15 giờ. Thức ăn được cho vào sàn và đặt dưới đáy ao, bể. Đối với các loại cá tạp phải băm hoặc cắt nhỏ cho phù hợp với cỡ miệng của cá.
    c) Kiểm tra, quản lý ao nuôi
    Trong quá trình nuôi vỗ cá bố mẹ phải tiến hành các nội dung công việc sau đây:
  • Hàng ngày, tiến hành kiểm tra ao, bể vào buổi sáng, quan sát hoạt động của cá và màu nước ao nuôi, phát hiện kịp thời các hiện tượng bất thường của cá và môi trường để có biện pháp xử lý thích hợp.
  • Ðịnh kỳ hàng tháng kiểm tra một lần để xác định độ béo, tình hình bệnh tật và sự phát dục của cá bố mẹ để điều chỉnh chế độ nuôi vỗ cho phù hợp.
  • Nếu có điều kiện, thay nước thường xuyên hoặc thay nước định kỳ giữ cho môi trường ao nuôi trong sạch bằng các biện pháp sau:
  • Đối với nuôi trong ao: Thay nước ít nhất 2 lần/ tháng, mỗi lần thay từ 20 đến 30% lượng nước trong ao.
  • Đối với nuôi trong bể xi măng, thay nước 1 lần/ ngày, mỗi lần thay từ 20 đến 30% lượng nước nước trong bể.
  • Thường xuyên vệ sinh ao nuôi: vớt cỏ rác, thức ăn thừa, đảm bảo ao nuôi vỗ cá không bị nhiễm bẩn.

Phần 2: Kỹ thuật sinh sản nhân tạo cá chạch lấu

  1. Yêu cầu chung
  • Nhiệt độ nước thích hợp cho cá chạch lấu đẻ khoảng 28 – 30 độ C.
  • Cho cá đẻ trong bể xi măng hoặc composít, có thể thay nước dễ dàng
  • Mật độ thả cá trong bể đẻ: 20 – 30 cặp bố mẹ/ bể 20 m2. Mực nước sâu 0,4 – 0,5 m.
  1. Chọn cá bố mẹ cho đẻ
  • Cá khỏe mạnh không bị xây xát. Cá cái bụng to, mềm, quan sát bên ngoài có hình buồng trứng rõ ràng nằm dọc 2 bên lườn bụng. Dùng que lấy trứng xem có màu vàng nhạt, đo đường kính trứng, trung bình đạt 1, 96 ± 0,22 mm.
  • Cá đực vuốt nhẹ ở lường bụng đến gần lỗ hậu môn, thấy có sẹ màu trắng đục chảy ra.
  • Tỷ lệ cá đực/cá cái cho đẻ: 1/1 hoặc 2/1.
  1. Kích dục tố sử dụng
    a) Sử dụng kích dục tố và chất kích thích sinh sản:
    Hiện nay có 02 loại kích dục tố dùng để kích thích sinh sản nhân tạo cá chạch lấu tốt nhất là: HCG (Human Chorionic Gonadotropin) và LH-RHa (Luteneising Hormone–Releasing Hormone Analogue) kết hợp DOM (Domperidone).

b) Liều lượng kích dục tố và chất kích thích sinh sản:

  • Ðối với cá cái:
  • HCG dùng 5.200 UI/1kg cá cái.
  • LH-RHa (Luteotropin Releasing Hormoned Analog kết hợp với DOM (Dompamine): 150 μg + 10mg DOM/kg cá cái,
  • Đối với cá đực: Liều lượng kích dục tố bằng 1/3 tổng liều lượng tiêm cho cá cái.
  • Số lần tiêm:
  • HCG: Cá cái được tiêm 3 lần; lượng tiêm lần 1 là 400 UI, lần 2 là 1.200 UI và lần 3 là 3.600 UI HCG/ kg, thời gian tiêm lần 2 cách lần 1 là 24 giờ , lần 3 (quyết định) cách lần 2 từ 6 – 8 giờ. Cá đực tiêm 1 lần cùng với lần tiêm thứ 3 cho cá cái. Liều lượng kích dục tố bằng 1/3 tổng liều lượng tiêm cho cá cái.
  • LH-RHa: tiêm 1 lần cho cả cá đực và cá cái.
  • Vị trí tiêm ở gốc vây lưng của cá.
  • Thời gian cá đẻ: Trong điều kiện nhiệt độ nước 28 – 30 độ C, thời gian hiệu ứng thuốc sau khi tiêm lần quyết định từ 18 – 24 giờ.
  1. Kỹ thuật gieo tinh nhân tạo
    a) Thu sản phẩm sinh dục của cá cái và cá đực: 
  • Bắt cá cái đặt nhẹ nhàng trong vải mềm, dùng ngón tay cái bịt lỗ sinh dục cá.
  • Lấy vải mềm quấn thân cá chỉ để hở lỗ sinh dục, thấm hết nước ở bụng và đuôi cá. Sau đó, giữ đầu cá hướng lên phía trên, mở ngón tay bịt lỗ sinh dục cá rồi vuốt nhẹ vào thành bụng để trứng chảy từ từ vào bát khô sạch đã chuẩn bị sẵn. Ðể thuận tiện theo dõi, trứng của mỗi cá cái cho vào một bát riêng.
  • Ngay sau khi vuốt trứng phải vuốt sẹ vào bát đã có trứng. Thao tác giữ cá đực để vuốt sẹ tương tự như đối với vuốt trứng của cá cái.
    b) Kỹ thuật gieo tinh:
    Dùng lông cánh gia cầm quấy đều trứng và tinh dịch trong khoảng thời gian 2 – 3 phút. Sau đó, cho nước sạch vào tiếp tục quấy khoảng 5 phút rồi rải cho trứng dính đều vào khung lưới (30 x30 cm) và đem đi ấp trong bể composite có nước chảy nhẹ…
  1. Ấp trứng 
    a) Mật độ trứng ấp:
    Trứng được rải đều trên khung lưới ấp, mật độ 1.500 trứng/ khung 30 x 30cm.
    b) Phương pháp ấp trứng:
    Bể ấp trứng có thể tích 500 – 1.000 lít, có thể ấp được 10 – 12 khung trứng bằng cách treo các khung dựng đứng quanh thành bể. Cho nước chảy nhẹ vào bể kết hợp với sục khí. Nước ấp trứng phải qua lọc bằng vải mịn hoặc lọc cát để hạn chế sinh vật và địch hại lọt vào bể.
    c) Thu cá bột sau khi trứng nở:
    Ở nhiệt độ nước 28 – 30 độ C, sau khi ấp khoảng 46 – 55 giờ trứng sẽ nở thành cá bột, khi trứng đã nở hết thì ta lấy các khung giá thể ra, tiếp theo hút các trứng hư ra khỏi bể. Cá bột mới nở rời khỏi khung lưới và bám vào giá thể ngay hoặc nằm ở đáy bể một thời gian và sau đó cũng bám vào giá thể. Trong 4 ngày đầu, cá bột bám vào giá thể và sống bằng noãn hoàng; từ ngày thứ 5, cá bột đã hết noãn hoàng, vẫn bám vào giá thể nhưng di chuyển nhanh nhẹn và tìm bắt thức ăn. Khi cá hết noãn hoàng thì chuyển sang bể ương.
  2. Ương cá bột lên cá giống
    a) Điều kiện bể ương:
  • Bể ương bằng composit có thể tích 2 m3 (2.000 lít) trở lên, được tẩy rửa sạch sẽ.
  • Giá thể cho cá bám vào trong những ngày đầu làm bằng dây nilon bó thành bó, sau 20 ngày dùng ống nhựa có đường kính 2,2 – 3,4 cm làm giá thể.
  • Môi trường nước trong quá trình ương nuôi: phải đảm bảo các chỉ tiêu chất lượng sau đây:
  • Nhiệt độ nước từ 27 – 32 độ C.
  • pH trong khoảng từ 6,5 – 8,5.
  • Hàm lượng oxy hoà tan lớn hơn 5 mg/l.
    b) Mật độ ương:
    Mật độ ương trong bể composit là 1.000 – 1.500 cá bột/ bể composite 2.000 lít. Sau 30 ngày thì san thưa ra 200 con/bể 2.000 lít ương cho đến ngày thứ 60.
    c) Thức ăn dùng để ương:
    Lòng đỏ trứng luộc, động vật phù du, trùng chỉ và cá tạp xay nhuyễn, cho cá ăn bằng lòng đỏ trứng luộc cần bóp nhuyễn và lọc qua vải màn hai lớp rồi hoà tan trong nước để rải đều trên mặt bể ương. Lượng cho ăn như sau:
  • Trong 10 ngày đầu, cứ 1.000 – 1.500 cá bột dùng 1/4 lòng đỏ trứng và bổ sung thêm 15 – 20 g Moina mỗi ngày, cho cá ăn ngày 3 lần.
  • Trong 10 ngày tiếp theo cứ 1.000 – 1.500 cá bột dùng 1/3 lòng đỏ trứng và bổ sung thêm 20 – 25 g Moina mỗi ngày, cho cá ăn ngày 3 lần.
  • Sau 20 ngày tuổi cho cá ăn bằng trùn chỉ bổ sung thêm trứng nước (Moina) 25 g/ngày cho đến ngày 30, từ ngày 40 cho ăn bằng trùn chỉ theo nhu cầu, sau 40 ngày cho ăn trùn chỉ có bổ sung thêm cá tạp xay nhuyễn cho đến ngày 50 – 60 thì chuyển nuôi thịt.

Nguồn: Sưu tầm

An Giang: Ương giống và nuôi thương phẩm cá chạch lấu

Ngày 22/5/2013, Sở KH&CN tỉnh An Giang tổ chức hội đồng khoa học nghiệm thu đề tài nghiên cứu khoa học “Ương giống và nuôi thương phẩm cá chạch lấu”. Hội đồng do TS. Nguyễn Văn Kiểm (Khoa Thủy sản- Trường Đại học Cần Thơ) làm chủ tịch Hội đồng.

  • Chủ nhiệm đề tài: ThS. Phan Phương Loan, Giảng viên Trường Đại học An Giang.
  • Cơ quan chủ trì: Trường Đại học An Giang.
  • Thời gian thực hiện: 2010-2013.
  • Địa điểm thực hiện đề tài: Xã Mỹ Khánh, Thành phố Long Xuyên.
  • Mục tiêu đề tài: Xây dựng quy trình công nghệ ương giống và nuôi thương phẩm cá chạch lấu, góp phần chủ động sản xuất và cung cấp con giống cá chạch lấu có chất lượng cho người sản xuất trong các mô hình nuôi (bè và ao đất) và làm cơ sở khoa học cho việc phát triển đa dạng loài nuôi.
  • Các nội dung chính của đề tài: Nghiên cứu các biện pháp kỹ thuật ương giống cá chạch lấu trong điều kiện thức ăn và mật độ khác nhau; Nghiên cứu các biện pháp kỹ thuật nuôi thương phẩm cá chạch lấu trong ao đất và bè với thức ăn và mật độ khác nhau; Khảo sát các yếu tố môi trường nước ảnh hưởng đến quá trình ương và nuôi thương phẩm cá chạch lấu; Phân tích hiệu quả kinh tế mang lại từ mô hình nuôi.
  • Các kết quả đạt được:

1- Nghiên cứu kỹ thuật ương cá chạch lấu giống: Nội dung này thực hiện hai nghiệm thức: a) Ương cá chạch lấu trong điều kiện khác nhau về mật độ (500 con, 1000 con, 1500 con/m2); b) Ương cá chạch lấu trong điều kiện khác nhau về thức ăn (nghiệm thức cho ăn hoàn toàn bằng trùn chỉ, nghiệm thức cho ăn 50% trùn chỉ + 50% thức ăn công nghiệp, nghiệm thức cho ăn 50% cá tạp + 50% thức ăn công nghiệp 40% protein). Tỷ lệ cá ương nuôi sau 60 ngày tuổi đạt 40%.

2- Nghiên cứu kỹ thuật nuôi thương phẩm cá chạch lấu: Nội dung này thực hiện hai mô hình: a) Nuôi trong ao đất thời gian nuôi là 12 tháng với nhiều nghiệm thức khác nhau; b) Nuôi trong bè thời gian 7 tháng với nhiều nghiệm thức khác nhau. Kết quả tỷ lệ cá sống dao động từ 50-60%.

3- Qua báo cáo của tác giả và các nhận xét của thành viên hội đồng cho thấy: Về quy trình kỹ thuật ương nuôi cá giống chạch lấu là tốt chấp nhận được, tuy nhiên cũng cần cụ thể thêm những số liệu trong quá trình theo dõi, cho ăn, khẩu phần ăn cho từng giai đoạn cá giống. Về nuôi thương phẩm cần thêm thời gian dài thực tiễn để chứng minh tính hiệu quả kinh tế, do đây là loài nuôi mới hoàn toàn, cho nên chưa thể khẳng định được.

Trần Văn Đông – Sở KH&CN An Giang, 23/05/2013

Nuôi cá chạch lấu lồng bè

Ông Võ Văn Thọ ở ấp 1, xã Khánh Bình, huyện An Phú (An Giang) đã nuôi được 4 bè cá chạch lấu trên sông Bình Di.

Ông Thọ cho biết, cá chạch lấu dễ nuôi và có giá trị kinh tế cao nên đã đầu tư nuôi mỗi bè 2.000 con. Ông thả con giống loại 200 – 300 gram/con vào tháng 5 – 6 âm lịch và thu hoạch vào tháng 2 – 3 năm sau. Thức ăn chính của cá chạch lấu là cá, tép.

Theo ThS Phan Phương Loan, Bộ môn Thủy sản, ĐH An Giang, bộ môn đã ương thành công giống cá chạch lấu và được tỉnh hỗ trợ kinh phí nghiên cứu đề tài khoa học SX giống nhân tạo cá chạch lấu. Nếu ngư dân có nhu cầu nuôi sẽ được cung cấp đầy đủ con giống và kỹ thuật để đạt hiệu quả.

Nông nghiệp VN – 29/10/2012

Đặc điểm sinh học cá chạch lấu

NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC CÁ CHẠCH LẤU (MASTACEMBELUS ARMATUS)

Nguyễn Văn Triều (1)

ABSTRACT

This study was carried out from March, 2007 to March, 2008 in Cantho University. The study was focused on feeding habit and reproductive biology of Mastacembelus armatus. Fish samples of 30 fishes were collected monthly.

The results showed that Mastacembelus armatus is carnivorous fish with insect (40.6%), small trash fish (23.9%), and crustacean (16.4%) were mostly found in fish stomach. The ovary of M. armatus developed through out 6 stages (I-VI). The spawning season was from on May to August, focused on June and July yearly. Gonasdo somatic index (GSI) of female and male zig-zag eel were 3.61 and 0.21, respectively. Absolute spawning fecundity was in range of 11.209 – 45.631 eggs/female.

Keywords: Mastacembelus armatus, feeding habit and reproductive biology

Title: Study on the biological characteristics of Mastacembelus armatus

TÓM TẮT

Nghiên cứu được tiến hành từ tháng 3/2007 đến tháng 3/2008 tại Trường Đại học Cần Thơ. Nghiên cứu được tập trung vào đặc điểm sinh học dinh dưỡng và sinh sản cá Chạch lấu. Mẫu cá Chạch lấu được thu 30 con/ tháng.

Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng cá Chạch lấu là loài ăn động vật với côn trùng (40,6%), cá nhỏ (23,9%) và giáp xác (16,4%) là những loại thức ăn chính. Tuyến sinh dục của cá phát triển qua 6 giai đoạn (I-IV). Mùa vụ sinh sản là từ tháng 5 đến tháng 8, tập trung vào tháng 6 và 7. Hệ số thành thục trung bình của cá Chạch lấu cái là 3,63%, ở cá đực là 0,21%. Sức sinh sản tuyệt đối từ 11.209 – 45.631 trứng/cá cái.

Từ khóa: cá Chạch lấu, Mastacembelus armatus, dinh dưỡng, sinh học sinh sản

1 GIỚI THIỆU

Theo đánh giá của những người dân nuôi cá ở tỉnh Đồng Tháp thì Cá Chạch Lấu (Mastacembelus armatus) là loài có triển vọng phát triển. Cá có chất lượng thịt ngon, có thể chế biến được nhiều món ăn nên rất được ưa chuộng, hiện giá bán bình quân khoảng 120.000 – 180.000 đồng/kg. Cá Chạch lấu tên khoa học là Mastacembelus armatus Lacepède), có tên đồng danh là Mastacembelus favus Hora, 1923 (Rainboth, 1996). Cá phân bố ở nước ngọt và lợ nhạt, có kích thước có thể đạt tới 91 cm (Sokheng, 1999), pH thích hợp là 6,5 – 7,5 (Riede, 2004). Thức ăn chủ yếu của cá là thức ăn tươi sống như cá, giáp xác, giun, côn trùng sống đáy (Pethiyagoda, R., 1991; Rainboth, 1996). Cá thường sinh sản vào tháng 4 đến tháng 6 hằng năm (Pathiyagoda,1991). Với những đặc tính trên thì cá Chạch lấu là đối tượng nuôi rất phù hợp với điều kiện ở đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL).

(1) Khoa Thủy sản, Trường Đại học Cần Thơ. Tạp chí Khoa học 2010:15b 70-80 Trường Đại học Cần Thơ

Nuôi cá chạch quế

Ở đồng bằng sông Cửu Long ngoài cá chạch đồng (chạch bùn – Misgurnus anguillicaudatus Cantor) thuộc họ cá chạch (Cobitida); còn có chạch sông (chạch lấu – (Mastacembelus favus).

Cũng thuộc họ cá chạch, hiện tại còn có cá chạch quế (Macrognathus aculeatus) với đặc điểm thịt dai và ngọt cộng với xương mềm (xương sụn), chế biến được rất nhiều món ăn ngon và khi thưởng thức, ăn hết không bỏ gì cả nên rất được ưa chuộng trong các quán ăn, nhà hàng, đáp ứng thị hiếu của thực khách.

BS Phó Đức Thuần cho biết, Trong đông y, chạch vị ngọt, tính bình có tác dụng bổ khí huyết chống lão suy, tráng dương (là thức ăn quý của người già), thanh nhiệt trừ thấp, chữa các bệnh về mật, tụy, trĩ… Nhớt của chạch có tác dụng tiêu viêm, kháng khuẩn mạnh.Đặc biệt cá chạch cùng một số dược liệu khác chữa các bệnh về gan, như: viêm gan cấp, viêm gan mạn, viêm gan vàng da, ung thư gan. Theo Tây y, cá chạch có tới 17 acid amin thiết yếu nên dễ hấp thụ khi ăn. Cá chạch được xếp vào nhóm thực phẩm có màu đen, có nhiều công dụng chống oxy hóa. Nhớt của cá chạch có tác dụng tiêu viêm, kháng khuẩn mạnh…. (Theo Sức Khỏe & Đời Sống)

Tương tự như cá chạch đồng, nhưng chạch quế cũng có những đặc điểm sinh học riêng.

Cá chạch quế thân tròn, dẹt bên, nhất là gần đuôi; khi trưởng thành dài khoảng 15cm. Đầu nhỏ, hơi nhọn, mắt nhỏ, miệng thấp có râu.

Da mỏng, dưới da có nhiều tuyến tiết chất nhờn nên rất trơn nhẵn. Vảy nhỏ, nằm sâu dưới da nên khó thấy, khiến nhiều người tưởng cá chạch là da trơn, không vảy. Vây lưng không có gai cứng; vây ngực và vây bụng ngắn; vây đuôi rộng.

Cá có màu vàng, nâu hoặc xám đen, màu lưng xẫm hơn bụng. Trên thân có nhiều chấm, mỗi chấm do rất nhiều chấm nhỏ hợp thành.

Đặc biệt là cá chạch quế đã được thuần hóa, có thể sử dụng hoàn toàn thức ăn công nghiệp, có thể nuôi với nhiều hình thức: trong ao, bể lót bạt/xi-măng, nuôi bè… Đây là điều kiện rất thuận lợi cho phát triển nghề nuôi với hình thức thâm canh, đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm theo nhu cầu của thị trường.

Nếu nuôi cá chạch quế đúng kỹ thuật thì sau 3 tháng nuôi có thể tiến hành thu hoạch với kích cỡ 30 – 40 con/kg. Với giá thành sản xuất từ 75.000- 80.000đ/kg và giá bán dao động từ 150.000 – 180.000 đồng/kg, thậm chí là 220.000 – 250.000 đồng/kg (tùy vào thời vụ) thì mô hình nuôi cá chạch quế quả là đáng được nhân rộng.

Tuy nhiên, khi phát triển đối tượng này người nuôi nên thận trọng, nhất thiết phải có liên kết và hợp đồng tiêu thụ để tránh rủi ro cung vượt cầu. Chính vì thịt ngon, giá trị dinh dưỡng và có tác dụng hỗ trợ điều trị bệnh cao nên để tránh cá chạch nói chung và các chạch quế nói riêng trở thành mặt hàng khan hiếm trên thị trường, các nhà khoa học đã nghiên cứu nuôi và cho sinh sản nhân tạo thành công. Do đó, việc phát triển các mô hình nuôi cá chạch quế sẽ là hướng nhiều triển vọng đa dạng hóa các đối tượng thủy đặc sản, không những thêm một sản phẩm thủy sản nuôi trồng có tác dụng về mặt y học mà còn thỏa mãn nhu cầu thị hiếu của người tiêu dùng.

  • Nhu cầu về giống chạch quế chất lượng cao xin liên hệ với Trại giống Thủy sản Cồn Dông – Trung tâm giống NN và Chi cục Thủy sản Vĩnh Long để được tư vấn kỹ thuật

ThS. Phạm Thị Thu Hồng – CCTS Vĩnh Long

Những điều cần lưu ý khi nuôi cá chạch sụn

Trong thời gian gần đây, có một loài cá chạch được phát triển nuôi ở nhiều nơi ở đồng bằng sông Cửu Long. Đặc điểm nổi bật của loài cá chạch này là có xương mềm (xương sụn). Có thể do có đặc điểm này nên nó được gọi là cá chạch sụn. Có một số thông tin cho rằng loài cá chạch này có nguồn gốc từ Đài Loan (nên còn có tên gọi là cá chạch sụn Đài Loan). Ngoài ra, loài cá này còn có tên gọi khác là cá chạch bùn hay chạch quế.

Qua theo dõi một số thông tin chuyên ngành thì loài cá chạch có xương mềm (xương sụn) này có tên khoa học là Macrognathus aculeatus, nhưng có tài liệu lại ghi tên khoa học là Misgurnus anguillicaudatus. 

Theo Quyết định số 57/2008/QĐ-BNN ban hành ngày 02/05/2008 của Bộ Nông nghiệp và PTNT về việc Ban hành danh mục giống thủy sản được phép sản xuất, kinh doanh thì trong 199 loài cá nước ngọt được phép sản xuất, kinh doanh thì không có giống cá chạch nào có tên là cá chạch sụn hoặc cá chạch quế với tên khoa học là Macrognathus aculeatus hoặc Misgurnus anguillicaudatus. Chỉ có các giống cá nuôi nước ngọt được phép sản xuất, kinh doanh là:

  • Cá Chạch (Mastacembelus),
  • Cá Chạch bông (Chạch lấu) (Mastacembelus (armatus) favus),
  • Cá Chạch khoang (Mastacembelus circumceintus),
  • Cá Chạch lá tre (còn gọi là Chạch gai) (Macrognathus aculeatus),
  • Cá Chạch rằn (Mastacembelus taeniagaster),
  • Cá Chạch sông (Mastacembelus armatus),
  • Cá Chạch khoang (còn gọi là cá heo mắt gai) (Pangio kuhlii).

Như vậy, theo Quyết định số 57/2008/QĐ-BNN thì cá chạch có tên khoa học Macrognathus aculeatus hoặc Misgurnus anguillicaudatus là loài cá chạch không có tên trong danh mục giống thủy sản được phép sản xuất, kinh doanh ở Việt Nam.

Bên cạnh đó, do cá chạch có xương sụn (sau đây gọi là cá chạch sụn) là loài cá mới xuất hiện trên thị trường và có đặc điểm là xương mềm khác với một số loài cá chạch đã có mặt ở thị trường trước đây nên nó gây sự hiếu kỳ cho người tiêu dùng.

Và loài cá này nhanh chóng có mặt ở nhiều quán ăn, nhà hàng với giá bán trên dưới 300.000 đ/kg. Với giá bán cao nên một số hộ nuôi thủy sản đã mạnh dạn đầu tư nuôi thương phẩm loài thủy sản mới này trước tình hình một số đối tượng nuôi thủy sản khác kém hiệu quả.

Nhưng do thị trường tiêu thụ có giới hạn nên một số hộ nuôi cá chạch sụn hiện nay đang gặp khó khăn trong tiêu thụ. Theo thông tin từ một số hộ nuôi cá chạch sụn ở tỉnh Đồng Tháp thì hiện nay giá bán chỉ còn 100.000 – 120.000 đ/kg nhưng có hộ nuôi vẫn không có thương lái đến mua.

Với những thông tin, các hộ nuôi thủy sản nếu có ý định phát triển nuôi loài cá này thì cần tham khảo thông tin thị trường để tránh gặp phải trường hợp tiêu thụ khó khăn như nuôi cá rô đầu vuông hoặc cá lăng nha đã xảy ra trong thời gian qua. Thiết nghĩ, mạng lưới khuyến ngư cần có những thông tin về thị trường tiêu thụ và đầu ra của loài cá này để có những khuyến cáo kịp thời nhằm tránh những thiệt hại do thua lỗ cho người nuôi. Hiện nay loài cá chạch với đặc tính có xương mềm này có nhiều tên gọi khác nhau như là cá chạch sụn hoặc cá chạch bùn, cá chạch đồng hay còn gọi là cá chạch quế và có khi còn gọi là cá chạch sụn Đài Loan, có thông tin cho là cá chạch bùn còn gọi là cá chạch quế nhưng cũng có thông tin cho là cá chạch bùn và cá chạch quế có hình dáng và cấu tạo xương khác nhau. Vì vậy, rất cần các nhà khoa học có thêm những thông tin về định danh, nguồn gốc và các đặc điểm hình thái phân loại các loài cá chạch nêu trên để xác định là các tên gọi trên là cùng một loài hay là nhiều loài khác nhau để tránh nhầm lẫn cho người tiêu dùng và gây thiệt hại cho người nuôi trong việc lựa chọn giống cá chạch để nuôi.

Trang Trường Nhẫn – An Giang, 8/5/2014

Các tin có liên quan