Kỹ thuật nuôi cá bóp (cá giò)

Kỹ thuật nuôi cá bóp (cá giò) Rachycentron canadum (Linnaeus, 1766)

Nuôi cá bóp cho thu nhập cao: Có hai kiểu lồng nuôi phổ biến là lồng vuông bằng gỗ, sắt, quây lưới, thể tích 30 – 180 m 3 , được dùng nuôi ở vũng vịnh kín sóng gió; loại thứ hai là lồng nhựa chịu lực HDPE hình tròn (thể tích 300 m 3 trở lên), có thể nuôi được ở những vùng biển hở có sóng gió lớn.

Vị trí tốt cho việc nuôi lồng cá biển:

  • Độ sâu phải bảo đảm đáy lồng cách đáy biển ít nhất 2-3m.
  • Tránh nơi sóng to, gió lớn như sóng cao trên 2m và tốc độ dòng chảy 1m/giây vì có thể làm hư hỏng lồng, trôi thức ăn, làm cho cá hoạt động yếu gây chậm lớn và sinh bệnh.
  • Cần tránh những nơi nước chảy quá yếu hay nước đứng mà có thể dẫn đến cá chết do thiếu oxy, thức ăn thừa, mùn bã cũng tích lũy ở đáy lồng gây ô nhiễm.
  • Tốc độ chảy thích hợp từ 0,2-0,6m/giây.
  • Đảm bảo hàm lượng oxy từ 4-6mg/lít, nhiệt độ 25-30 độ C, độ mặn từ 27-33 %o.
  • Cần tránh xa những nơi gây ô nhiễm dầu, ô nhiễm chất thải công nghiệp, nước thải sinh hoạt và tàu bè. Nơi có thể xảy ra hồng triều.

Trở ngại trong nuôi lồng cá biển:

Trong nuôi lồng cá biển, dù có nhiều ưu điểm, song, vẫn còn trở ngại trước mắt sau: 

Bẩn lồng: Lồng nuôi cá bị dơ bẩn nặng trong quá trình nuôi là vấn đề khó có thể tránh khỏi, đặc biệt là ở các vùng nhiệt đới. Chua and Tend (1980) đã ghi nhận lại rằng, do sự gây dơ bẩn nhanh chóng của các sinh vật như hào, giun, rong, tảo … mà làm lồng có mắc lưới 37 mm ở eo biển Penang bị giảm lưu thông nước đến 60% sau 2 tuần ngâm trong nước và đến 87% sau 1 tháng. Lồng có mắc lưới 12,7 mm lưu thông nước giảm 93% sau 3 tuần hoạt động. 

Nguồn giống: Hiện tại, nguồn giống cung cấp cho nghề nuôi cá lồng vẫn còn dựa chủ yếu vào khai thác tự nhiên. Tuy nhiên, sản lượng khai thác không thể đáp ứng được nhu cầu con giống để mở rộng sản xuất hơn. Hơn nữa do tỷ lệ con đực (cá mú) trong quần thể tự nhiên ít hơn 5%, việc thu gom cá đực cho nghiên cứu và sản xuất giống cũng bị hạn chế. 

Thức ăn: Do việc nuôi cá lồng bị phụ thuộc vào nguồn thức ăn là cá tạp, khả năng cung cấp sẽ bị động và vì thế cho ăn không đều. Thức ăn là cá tạp không đảm bảo đầy đủ dinh dưỡng cho cá nuôi, và cá tạp thối bẩn cũng dễ gây ra bệnh cho cá. 

Chất lượng nước thay đổi: Việc nuôi cá lồng còn bị ảnh hưởng mạnh bởi sự thay đổi dòng chảy sóng gió, và các yếu tố khác như độ mặn, pH, độc tố do nhiễm bẩn, tảo nở hoa… Vì thế, trước khi nuôi, cần xem xét và chọn vị trí thích hợp. 

Địch hại: Nhiều quan sát cho thấy rằng nuôi cá trong lồng có nhiều địch hại như rắn biển mực, cá dữ phá lồng hay vào lồng gây hại cho cá nuôi, chim cũng là địch hại nguy hiểm cho cá khi lồng không được bảo quản kỹ. 

Bệnh cá: Cá biển nuôi lồng thường mắc một số bệnh ký sinh và vi khuẩn.

Các vấn đề cần lưu ý để đảm bảo sức khỏe cho cá trong nuôi lồng:

  • Chọn giống loài nuôi ít mẫn cảm với bệnh tật
  • Chọn vị trí cẩn thận
  • Cá giống khoẻ mạnh và kích cỡ hợp lý
  • Thường xuyên theo dõi, chăm sóc cá nuôi để chuẩn đoán tình trạng sức khoẻ cá
  • Mật độ nuôi vừa phải 
  • Không cho cá ăn quá thừa cũng như quá thiếu
  • Thức ăn phải tươi, không có mầm bệnh 
  • Loại bỏ cá chết ra khỏi lồng và hủy cá
  • Ngăn ngừa địch hại
  • Vệ sinh dụng cụ thường xuyên
  • Thao tác nhẹ nhàng khi đánh bắt cá

Nguồn: ĐH Cần Thơ

Công nghệ sản xuất giống cá giò

Cá giò đã được nuôi phổ biến trong lồng bè ở vùng biển các địa phương Hải Phòng, Quảng Ninh, Nghệ An và Vũng Tàu. Chúng có tốc độ sinh trưởng nhanh, từ con giống cỡ 20 -25g/con sau 1 năm nuôi có thể đạt 4 – 5kg/con. Ðây là đối tượng có rất nhiều triển vọng đối với nghề nuôi biển ở nước ta. Hiện nay, hầu hết các lồng nuôi chỉ sử dụng con giống từ nguồn sinh sản nhân tạo vì sự khan hiếm con giống loài này ở tự nhiên. Chính vì vậy, nhu cầu con giống đang ngày càng gia tăng ở nhiều địa phương.

Từ năm 1997 – 1999 Viện Nghiên cứu Hải sản đã tiến hành nghiên cứu sinh sản cá giò và đã thành công, sản xuất được cá giò giống và biên soạn dự thảo quy trình sản xuất vào năm 2000 (Ðề tài nghiên cứu cấp Nhà nước). Từ năm 2001 đến nay, được sự tài trợ của Hợp phần SUMA và Dự án NORAD, Viện Nghiên cứu Nuôi trồng thuỷ sản I tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện quy trình tại các địa điểm Hải Phòng, Quảng Ninh, Nghệ An và đã thu được nhiều kết quả. Hiện nay, quy trình sản xuất giống cá giò đã ổn định và được đơn giản hoá để áp dụng rộng rãi, kể cả tại các cơ sở không có điều kiện đầu tư.

Nuôi vỗ: Cá bố mẹ được nuôi vỗ trong lồng lưới. Trong điều kiện nuôi vỗ, cá giò ở tuổi thứ 2 có thể thành thục tuyến sinh dục.

Sinh sản: Cho cá đẻ trong bể xi măng hoặc trong giai, ấp trứng và ương ấu trùng trong bể composite hoặc bể xi măng.

Trứng được đẻ trong bể xi măng, kể cả tiêm hoặc không tiêm hoocmôn, cá giò thường đẻ vào ban đêm, tập trung vào thời gian từ 21 – 24 giờ. Trứng được thu ngay sau khi đẻ, tách riêng và ấp ở nhiệt độ 28-30oC. Sau 24 – 28 giờ, trứng sẽ nở thành cá bột có chiều dài 4 – 4,2mm.

Thức ăn cho ấu trùng cá: ở ngày tuổi thứ 3, cá bắt đầu ăn sinh vật phù du cỡ nhỏ như luân trùng, ấu trùng hầu hà, nauplius của copepoda; tiếp đến là loại cỡ lớn như copepoda trưởng thành, artemia ấu trùng và trưởng thành, sau đó có thể luyện chúng ăn thức ăn hỗn hợp. Giải quyết thức ăn tươi sống cho ấu trùng cá: nuôi tảo thuần trên túi ni lông; nuôi luân trùng thâm canh trên bể nhỏ; gây nuôi sinh vật phù du trên ao đất vùng nước lợ. Vì vậy, việc áp dụng quy trình sản xuất giống cá giò đã dễ; dàng, thuận lợi và có điều kiện mở rộng.

Kết quả: Tỷ lệ cá giống tính từ khi nở cỡ 12-15cm đạt 4-5%, thời gian ương từ 50-60 ngày.

Ðịa chỉ liên hệ: Viện Nghiên cứu Nuôi trồng thuỷ sản I Ðình Bảng-Từ Sơn – Bắc Ninh; Trạm Nghiên cứu Nuôi trồng thuỷ sản Cát Bà.

Kinh nghiệm nuôi cá bóp cho thu nhập cao

Cá bóp (cá giò), là một trong những loài cá biển nuôi có tốc độ tăng trưởng nhanh, cá được nuôi chủ yếu bằng lồng trên biển, tạo ra sản lượng lớn phục vụ thị trường trong nước và xuất khẩu. Có hai kiểu lồng nuôi phổ biến là lồng vuông bằng gỗ, sắt, quây lưới, thể tích 30 – 180 m 3 , được dùng nuôi ở vũng vịnh kín sóng gió; loại thứ hai là lồng nhựa chịu lực HDPE hình tròn (thể tích 300 m 3 trở lên), có thể nuôi được ở những vùng biển hở có sóng gió lớn. Cỡ mắt lưới dùng cho lồng nuôi tăng dần theo sự tăng trưởng của cá (a = 1,5 – 3 cm).

Vốn đầu tư nuôi mỗi bè cá bớp khoảng 100 triệu đồng (đóng bè, mua cá giống, mua thức ăn nuôi cá). Mỗi bè có diện tích 16 m 2 , quy mô nuôi 250 con cá bớp có trọng lượng ban đầu từ 0,4 đến 0,5 kg. Thức ăn ưa thích của chúng là các loài cá, tôm, cua nhỏ. Trong quần đàn, cá cái thường lớn nhanh hơn cá đực, có thể đạt 4 – 6 kg sau một năm nuôi. Cá thành thục sau 2 – 3 tuổi, cỡ 6 – 10 kg, cá cái thường thành thục muộn hơn cá đực; mùa sinh sản từ tháng 4 – 9, cao điểm vào tháng 6 -7. Cá thường đẻ vào lúc hoàng hôn và có thể đẻ 15 -20 lần trong mỗi mùa sinh sản. Sức sinh sản cá cái từ vài trăm nghìn đến hàng triệu trứng mỗi con, trứng cá thuộc dạng trôi nổi và nở tốt ở độ mặn 30 – 32%o, nhiệt độ thích hợp 24 – 28 0 C.Thương lái đến tận nơi thu mua với giá dao động từ 100 nghìn đến 120 nghìn đồng/kg. Theo tính toán, mỗi bè cá bớp sẽ cho thu nhập hơn 50 triệu đồng/vụ nuôi, hộ thả nuôi bốn bè cá bớp thu nhập hơn 200 triệu đồng/vụ nuôi. Điểm thuận lợi là cá bớp có thể nuôi quanh năm với kỹ thuật nuôi đơn giản, cá ít bị bệnh. Thức ăn nuôi cá bớp chủ yếu là các loại cá tạp được mua từ các chủ tàu cá trên biển.

Ngoài ưu điểm tăng trọng nhanh, cá bớp còn có tính thích nghi cao, kháng bệnh tốt. Cá bớp thương phẩm hiện được nuôi phổ biến bằng hình thức nuôi nhỏ lẻ để đáp ứng nhu cầu thực phẩm cho các thành phố lớn trong nước, đồng thời cũng được nuôi công nghiệp với sản lượng lớn.

NGUYỄN THU HIỀN – Nhân dân, 05/08/2014

Phòng trị bệnh cho cá mú, cá giò, cá hồng mỹ

Bệnh do virus

Đây là bệnh nguy hiểm nhất thường xảy ra đối với cá sông(cá mú) giai đoạn ấu trùng và chuyển biến thái.

Triệu chứng: cá bơi mất phương hướng, nổi lập lờ trên mặt và thường chết hàng loạt. Các cơ quan bị nhiễm thường gồm não bộ và mắt. Đối với bệnh do virus cá thường có tỷ lệ chết cao và nhanh.

Phòng trị: chưa có biện pháp chữa bệnh, chủ yếu là phòng bệnh.

Một số biện pháp phòng bệnh cần áp dụng là: kiểm tra virus cho đàn cá bố mẹ và cá giống để có giống sạch bệnh, hạn chế lây truyền theo chiều dọc. Đảm bảo môi trường nuôi trong sạch, tiệt trùng các bể và các dụng cụ khác trước khi sử dụng để hạn chế lây truyền theo chiều ngang. Cung cấp đầy đủ chất dinh dưỡng cho cá, tránh làm sốc cá khi vận chuyển và thả cá giống, nuôi với mật độ vừa phải, tránh thả cá quá dày tăng khả năng kháng bệnh cho cá.

Bệnh do vi khuẩn

Dấu hiệu thường gặp là: lở loét, vây bị rữa, xuất huyết dưới da, có khối u, màu sắc đậm, mắt đục, mắt lồi có xuất huyết hoặc không. Bệnh này thường xảy ra với cá Mú và có Hồng Mỹ, cá thường chết ở đáy.

Nguyên nhân: Do vi khuẩn tồn tại trong nước biển gây nên, khi nào điều kiện môi trường xấu làm suy giảm sức đề kháng, vi khuẩn sẽ xâm nhập vào cá và gây thành bệnh.

Phòng bệnh: Duy trì mật độ cá thích hợp trong hệ thống ương nuôi, thức ăn nuôi hoặc nhân tạo phải được bảo quản tốt. Định kỳ tắm nước ngọt khi có nguy cơ nhiễm bệnh cao.

Trị bệnh: Dùng kháng sinh Oxytetracyclin tắm với liều lượng 50-100gr/m3 nước trong 1 giờ. Dùng liên tục trong 7-10 ngày.

Bệnh do ký sinh trùng

Thường gặp ở cá giống của cả 3 loài. Các cơ quan bị nhiễm thường là mang và các bề mặt thân.

Biểu hiện: Mang có màu nhạt, cá yếu trong thời kỳ nhiễm bệnh. Ký sinh trùng sẽ phá huỷ các mô của ký chủ, tạo dịch nhầy bám trên mang gây khó khăn cho hô hấp của cá. Khi bị nặng cá có thể chết hàng loạt.

Nguyên nhân: Do loại vi trùng bánh xe Trichodia sp sống ký sinh trong mang và da cá.

Điều trị: Tắm cá với dung dịch Formalin 70-150ppm trong 30-60 phút, sục khí mạnh hoặc tắm cá với dung dịch formalin 25ppm trong 1-2 ngày kèm sục khí mạnh.

NTNN, 8/2006 

Các tin có liên quan