Kỹ thuật nuôi cá bống tượng

Kỹ thuật sản xuất giống cá bống tượng (Oxyeleotris marmoratus Bleeker)

  1. Điều kiện để môi trường thích hợp cho CBT phát dục phát triển.
  • Nhiệt độ nước 28-31 độ C.
  • pH = 6,5 -8
  • Oxy hòa tan 3-4mg/l
  • Nước cấp sạch và chủ động cấp thoát.
  1. Thời gian vụ và chuẩn bị ao ương:
  • Thời gian nuôi vỗ cá cha mẹ từ tháng 12-1 dl.
  • Cá cha mẹ phải khỏe mạnh, không dị hình, không nhiễm bệnh, độ tuổi từ 1 tuổi trở lên, trọng lượng trên 200g. Cá không thương tật, mất nhớt, cá không bị mắc câu, mắc lưới, chích điện. Trước khi thả cá nuôi vỗ phải tắm cá bằng nước muối 2% trong 3-5 phút.
  • Ao nuôi vỗ 500-1000m vuông, ao có hình chữ nhật, dài gấp 3-4 lần chiều rộng, mức nước sâu 1,0-1,2m. Cải tạo ao triệt để như cải tạo ao khác, cần lưu ý xâm các hang để cá đẻ vào hang, trang bằng đáy ao. Bón vôi bột 7-10kg/100m vuông ao, phơi đáy ao 3-5 ngày, lọc nước từ từ vào.
  1. Thả cá cha mẹ và chăm sóc:
  • Mật độ cá cha mẹ ở ao từ 0,2-0,3kg/m vuông ao. Nếu nuôi riêng cá đực 0,5kg/m vuông, cá cái 0,2kg/m vuông ao. Nếu nuôi vỗ đực cái chung tỷ lệ 1/1.
  • Cho cá ăn bằng cá tươi sống khẩu phần ăn 3-5% trọng lượng thân/ngày. Cá tươi chưa bị ươn thối, ốc, tép, lòng gà, … cắt vừa miếng ăn của cá, cho thức ăn vào sàn đặt cố định trong ao, cần xem thừa thiếu để điều chỉnh cho thích hợp. Cứ 50 m vuông/ một sàn ăn. Cho ăn 2 lần sáng, chiều. Có cá tươi sống (cá hường, trôi, cá 7 màu, …) thả chung với cá cha mẹ, thả 10% so với trọng lượng cá cha mẹ, sau 5 ngày kiểm tra tăng giảm thức ăn.
  • Hàng ngày cần kiểm tra không để thức ăn dư làm dơ nước, bệnh cá, … Ao được trao đổi nước hàng ngày càng tốt, hoặc theo định kỳ nước thủy triều mỗi tuần một lần, lượng nước thay đổi 20-30%.
  1. Kiểm tra độ thành thục của cá:

Cá đực có gai sinh dục nhỏ, ngắn, đầu nhọn, hình tam giác. Khi cá đã thành thục, vuốt nhẹ gần gaisinh dục sẽ có sẹ trắng chảy ra. Cá cái có gai sinh dục lớn hơn, dài, đầu gai sinh dục tròn, có màu đỏ ửng, bụng cá to tròn. Nếu dùng que thăm trứng thấy trứng đều, hơi rời, kích thước 0,5-0,6mm lá cá đã sẵn sàng đẻ.

  1. Cho cá đẻ:

a. Cho CBT đẻ ở ao và ương ở ao

  • Ao được cải tạo, diệt tạo tốt, cho cá cha mẹ vào nuôi vỗ, mật độ nuôi có thể 5-10kg CBT/100m vuông ao.

– Đặt giá thể xuống ao (gạch tàu, mê bồ), đặt ở bờ ao nghiêng 45 độ cách đáy ao 20cm.

– Đến nước rong, cho nước chảy vào ao nuôi mạnh, cá kích thích tự sinh đẻ và trứng nở tự phát triển ở ao.

  • Trong thời gian này: Gây màu nước tạo thức ăn cho cá, cho cá con ăn thức ăn nhân tạo như ương cá con. Cá lớn vẫn tiếp tục cho ăn thức ăn cỡ lớn vừa, cá phát dục đẻ tiếp trong ao.
  • Khi thị trường có giá, nhử bắt cá lớn bán, cá con tiếp tục nuôi dưỡng, cuối năm có cá giống 50-200g/con.

b. Cho cá đẻ ở ao:

Cho cá đẻ tự nhiên trong ao: Hàng tháng cho cá đẻ tập trung vào con nước rong. Đặt tổ (giá thể) bằng gạch tàu xung quanh bờ gần đáy ao. Tổ này cách tổ kia 2-3m, số tổ bằng 1/3 lượng cá cái, giá thể đặt nghiêng góc 45 độ và cách đáy ao 20-30cm. Hàng ngày kiểm tra giá thể 1-2 lần để vớt trứng tránh cá tạp khác ăn trứng.

  • Cho cá đẻ đồng loạt trong ao, thu được nhiều trứng phải dùng kích thích tố: Liều lượng sử dụng cho 1kg cá cái là 1-2mg đối với não thùy, và 250-300UI đối với HCG, liều lượng dùng cho cá đực 1/3-1/2 cá cái. Sau khi tiêm kích dục tố, thả cá vào ao đã đặt sẵn giá thể, thông thường sau 10-12 giờ tiêm là cá đẻ.

Cả hai phương pháp này phải lợi dụng nước mới, sạch để kích thích cho cá đẻ. Cần xâm chặt các hang để tránh cá đẻ vào hang.

c. Cho cá đẻ nhân tạo:

Giống như phương pháp trên, nhưng đến thời điểm cá rụng trứng, tiến hành vuốt trứng, vuốt tinh cá đực rồi tiến hành thụ tinh nhân tạo, sau đó đem rải trứng lên giá thể và đem ương. Có thể sau khi thụ tinh thì khử trứng dính bằng dung dịch tananh và ấp trứng bằng bình Weys.

  1. Ấp trứng:
  • Dụng cụ ấp, bể nhựa, thuỷ tinh, xi măng, bể vòng, bình Weys, vv…
  • Dụng cụ ấp phải được rửa sạch và sát trùng bằng vôi hoặc chlorine, sau đó rửa lại bằng nước sạch.
  • Nước dùng để ấp phải trong, sạch, không có mầm bệnh và lọc qua vải mouseline hoặc lưới phiêu sinh.
  • Môi trường ấp trứng nhiệt độ thích hợp 28-30 độ C, oxy hòa tan > 5mg/l, pH 7-7,5 và không có sinh vật hại trứng (động vật phù du nhóm cyclops, bọ gạo, …)
  • Mật độ ấp 1.000.000 – 1.500.000 trứng/m khối nước. Qua kinh nghiệm thực tiễn thì ấp trứng theo phương pháp nước tĩnh có sục khí là tốt nhất, vì kích thước cá bột rất nhỏ và rất yếu dễ mẫm cảm với điều kiện môi trường, giữ hàm lượng oxy bằng sục khí nhiệt độ nước bằng Heater.
  • Mỗi ngày thay nước 2 lần, mỗi lần 50-80% lượng nước và lấy các giá thể ra khi trứng đã nở trên 90% và rút cá bột sang các bể khác để chăm sóc.
  • Thời gian nở của trứng từ 34-82 giờ tùy nhiệt độ và phương pháp ấp.
  • Cá sau khi nở 2-6 ngày được đưa sang bể ương.
  1. Ương cá bột lên cá hương giống

a. Ương trong ao đất

a1. Ương cá bột lên cá hương

  • Chuẩn bị ao:

Ao ương có diện tích 200-500m vuông, mức nước sâu 0,8-1,0. Trước khi ương cá ao được cải tạo triệt để như các ao ương cá khác, cần vét sạch bùn đáy, lấp các hang, dọn sạch cây cỏ, sửa bờ – đập, bộng có lưới dầy 2a = 0,5-0,7mm lọc nước. Nếu còn sót cá dữ diệt bằng dây thuốc cá 2kg/100m khối nước.

Đáy ao được trang bằng, thấp dần về cống thoát nước. Vôi bột 7-10kg/100m vuông, phơi nắng ao 2-5 ngày.

Lấynước vào ao phải qua lưới lọc kỹ. Nếu ao có bọ gạo diệt bằng dầu lửa trước khi thả cá, sau đó xả lớp nước mặt, thả cá.

  • Mật độ thả: 200-300 con/m vuông. Nên thả cá vừa lúc hết noãn hoàng (3 ngày tuổi). Thả cá vào sáng sớm chiều mát, nhiệt độ nước 28-30 độ C, hàm lượng oxy hòa tan 4-5mg/l, pH = 6,5-7,5.
  • Chăm sóc cá ương:

Cá sau khi thả phải cho ăn ngay:

  • 10 ngày đầu cho ăn 5 lòng đỏ trứng và 0,5 kg bột đậu nành/100 m vuông ao trong ngày. Ngày ăn 5 lần.
  • 15 ngày tiếp theo 6-8 trứng và 0,6-0,7 kg bột đậu nành/100 m vuông ao trong ngày. Cho ăn ngày 4 lần.
  • Từ ngày 26-40: cho ăn trùn chỉ, cá, tép, ốc xay nhuyễn. Lượng thức ăn trong ngày 0,5-1,5kg/ngày/100 m vuông ao. Cá đạt 2-3cm.
  • Cá sau 20 ngày tuổi có thể ăn được phù du động vật lớn như chi giác, luân trùng, chân chèo, có thể gây nuôi thức ăn tự nhiên trong ao bằng bột đậu nành (2,5g bột đậu nành/1m khối nước mỗi ngày).
  • Đặt gần sát đáy ao một số ống nhỏ, ống tre, nhựa, sành để cá chui vào trú ẩn. Khi kiểm tra thì bịt 2 đầu bộng đưa lên. Ương tốt thì tỷ lệ sống 38-51%

a2. Ương cá hương thành cá giống 8-10cm.

  • Để có cá 8-10cm cần ương cá thời gian 3,5-4 tháng tiếp. Mật độ ương 75-150 con/ m vuông. Kỹ thuật ương và chuẩn bị ao như phần ương cá bột lên cá hương.
  • Thức ăn là cá, tép, ốc, lòng gà vịt heo, … băm nhỏ, dùng sàn cho ăn.
  • Ngày cho ăn 2 lần. Thức ăn được đặt vào sàn cố định. Khẩu phần thức ăn: tháng thứ nhất 10%, tháng thứ hai 8%, tháng thứ ba còn 5-6% so với trọng lượng cá. Thường xuyên kiểm tra tốc độ điều chỉnh lượng thức ăn cho thích hợp.
  • Nước trong ao cần được thay thường xuyên, tối thiểu 1 tuần thay 2 lần nước. Khi cá đạt 8-10cm chuyển sang nuôi cá lứa. Tỷ lệ sống 35-44%.

a3. Nuôi cá lứa:

  • Ao diện tích 200-500m vuông, nước sâu 1-1,2m, ao được chuẩn bị như ao ương cá giống, cần loại bỏ địch hại cá vào ao.
  • Mật độ thả 2-5con/ m vuông.
  • Thức ăn: Cá tươi sống hoặc ốc, cá tép băm nhỏ cho vào sàn ăn, khẩu phần ngày 3-4%.
  • Cá nuôi được 2 tháng cho cá trôi, hường, 7 màu (cỡ cá 1-2cm) vào làm thức ăn trực tiếp. Cứ 7-10 ngày thả thức ăn 1 đợt 10% trọng lượng cá.
  • Cần thay nước ao thường xuyên theo thủy triều, ít nhất 2 lần/ tuần (bơm nước). Sau 5-6 tháng ương cá đạt cỡ 60-70g/ con, chuyển sang nuôi cá thịt. Tỷ lệ sống 61-70%.

b. Ương cá bột thành cá hương giống trên bể xi măng, bể đất lót bạt:

b1. Ương cá bột lên cá hương (1,5-2cm):

  • Bể ương phải rửa sạch và tẩy trùng chlorine, mực nước trong bể 0,6-0,8m, nước vào bể được lắng cặn, lọc kỹ, có lưới che mặt bể nhằm ngăn bọ gạo nhảy vào. Nước được lọc qua lưới phiêu sinh động vật.
  • Mật độ ương 1.000-1500 con/m vuông
  • Thức ăn:
  • Tuần lễ đầu: Lòng đỏ trứng và bột đậu nành, mỗi loại 50g/10.000 con cả trong ngày. Ngày cho ăn 4-5 lần.
  • Tuần thứ hai: Mỗi loại thức ăn trên 75g/10.000 cá/ngày.
  • Tuần thứ ba: Bột đậu nành, trứng vịt lòng đỏ 10g/ngày/10.000 cá và đồng thời cho ăn trứng nước (moina) 50g/10 m khối nước/ ngày.
  • Tuần thứ tư: trứng nước 100g/10m khối nước/ ngày và cho ăn thêm trùn chỉ 100g/ngày/ 10.000 cá.
  • hàng ngày xi phong nước dưới đáy bể, loại chất thải, chất cặn, thay 20% nước mỗi ngày. Sục khí liên tục suốt quá trình ương. Tỷ lệ sống 38-88%.

b2. Ương cá hương lên cá giống (8-10cm):

  • Bể có diện tích 15-20m khối, bể được chuẩn bị như ương cá hương. Mức nước sâu 0,6-0,8m.
  • Mật độ ương 75-150 con/m vuông.
  • Thức ăn: cá xay, trùn chỉ
  • Tháng đầu 10% trọng lượng thân cá/ ngày, trong đó cá xay 30%, trùn chỉ 70%.
  • Tháng thứ hai 8-9% trọng lượng thân cá/ ngày trong đó cá xay 50%, trùn chỉ 50%.
  • Tháng thứ ba: 6-7% trong lượng thân cá/ ngày trong đó cá xay 70%, trùn chỉ 30%.
  • Tháng thứ tư: 5% trong lượng thân cá/ ngày trong đó cá xay 85 %,trùn chỉ 15%.
  • Hàng ngày xi phong đáy bể để loại bỏ chất cặn, chất thải trong nước. Lượng nước thay 20-30%/ ngày. Sục khí vào ban đêm. Thường xuyên theo dõi và điều chỉnh khẩu phần thức ăn hàng ngày cho phù hợp. Tỷ lệ sống 68-80%.

– Ương ở ao và ở bể: Thay nước hàng ngày 10-20%, có sục khí, nếu không có sục khí phải giảm mật độ ương xuống còn 50-100 con/ m vuông. Cần có lưới bao để loại các địch hại của cá vào ăn cá. Cần theo dõi hoạt động của cá mà có biện pháp xử lý kịp thời.

Kỹ thuật nuôi thủy đặc sản nước ngọt – Dương Tấn Lộc – NXB TPHCM

Kỹ thuật nuôi cá bống tượng thương phẩm (Oxyeleotris marmoratus Bleeker)

  1. Nuôi CBT ở ao:

a. Chọn ao nuôi CBT:

Có vị trí phải gần nơi có nguồn nước sạch dồi dào, cung suốt thời gian nuôi cá (nước pH 7-8,3, nước không bị nhiễm độc, nước có cây), ao có nước lưu thông tốt thì nuôi mật độ nuôi càng cao. Đất phải giữ được nước, đất không có phèn tiềm tàng. Ao có nước thủy triều lên xuống hàng ngày nuôi cá càng tốt. Ao có diện tích 50-2000m vuông tốt nhất 300-400m vuông, nước sâu trung bình 1,5-1,8m.

b. Cải tạo ao nuôi CBT:

  • Sên vét sình bùn còn đến đáy trơ, nơi không có nước phù sa, đáy ao còn lớp bùn loãng 0,1m.
  • Xâm chặt các hang, mội, tu sửa bờ đập cao hơn mực nước cao nhất hàng năm 0,5m.
  • Ao có bộng, đầu cấp nước vào, đầu thoát nước ra càng tốt. Nếu bộng ở về một phía thì có bộng dưới thoát nước đáy ao ra, bộng trên lấy nước từ mặt sông vào hoặc có thể làm một bộng nhựa ở sát đáy ao có co điều tiết nước theo yêu cầu.
  • Bón vôi bột 7-15kg/100 m vuông ao tùy đất ao phèn nhiều ít, phơi nền đáy ao được 3-7 ngày càng tốt.

c. Giống CBT:

  • Chọn giống CBT tốt: cá đều cỡ, cá khỏe mạnh, không thương tật, dị hình, cá không bị chích điện, mắc câu, mắc lưới.
  • Đầu và mình cá cân đối, màu sắc sáng rõ. Cá không có vết trầy, vết do các vật bám, nguyên đuôi và vi, cá còn nguyên nhớt. Bụng và rốn cá không đỏ. Cá không có ký sinh trùng đeo bám. Lật ngửa cá lên thì thấy cá phồng mang, đuôi xòe. Cá đang ở trong nước thì nằm sát đáy. Ngâm cá vào xanh metylen thì không có vết thấm màu.

Chọn giống CBT tốt để nuôi có ý ngĩa rất quan trọng cho thành công nuôi cá, nếu còn cá yếu, cá bệnh sẽ lây lan cả đàn cá nuôi. Khi đem CBT về, không nên thả thẳng vào nơi nuôi mà tiếp tuyển chọn lần cuối: Cho các vào một phạm vi nhỏ một góc ao mương, thời gian 10-15 ngày, cho cá ăn đủ, kiểm tra cá khỏe, tốt thì thả nuôi chung với nhau.

  • Cỡ CBT đều cỡ: 50-70g, 80-100g, 110-150g, 160-200g nuôi chung một nơi cá lớn đều hơn.
  • Mật độ cá nuôi 3-10 con/m vuông: Nơi nước lưu thông liên tục 8-10 con/m vuông, nơi nước lưu thông theo thủy triều 4-5 con/m vuông, nơi có nước lưu thông ít 1-2 con/m vuông. Cá trước khi thả vào ao được tắm bằng nước muối 2-3g/ lít 10-15 phút hoặc formol 25ml/m khối nước, thuốc tím 20g/m khối nước 15-30 phút, nếu còn ký sinh trùng gỡ bằng tay.
  • Trong ao nuôi CBT còn thả nuôi ghép cá tép làm thức ăn ở tại chỗ cho cá:
  • Ương nuôi tép ở ao nuôi CBT.
  • Ương nuôi cá sặt bướm, cá bảy màu chung với CBT.
  • CBT sống ở đáy, thích ăn các loài cá sống ở đáy: cá trôi Ấn Độ, cá hường. Thả thử 10% cá sống làm thức ăn, sau 5 ngày cá trôi và cá hường không còn, riêng cá mè Vinh còn một phần. Nếu các giống cá trên giá thành sản xuất 5000-7000đ/kg, hệ số thức ăn là 6 thì nuôi CBT vẫn còn lời.

d. Cho CBT ăn:

  • Nuôi ghép cá tép tạo thức ăn ở tại cỗ cho CBT.
  • CBT thích ăn thức ăn tươi sống, thức ăn ương thối cá không ăn, cá có ướp chất hóa học cá thường bị bệnh, cắt thức ăn vừa cỡ cho cá ăn, bỏ ruột.
  • Tùy thực tế mà tăng giảm lượng thức ăn, cho ăn thức ăn vào sàn, kiểm tra sau 1 giờ, cho cá ăn ngày 3 lần sáng, chiều và tối.
  • Cỡ cá nhỏ hơn 10g/con, tỷ lệ % thức ăn so với trọng lượng cá 8-12.
  • Cỡ cá 10-12g/con, tỷ lệ % thức ăn so với trọng lượng cá 6-10.
  • Cỡ cá 20-50g/con, tỷ lệ % thức ăn so với trọng lượng cá 4-8.
  • Cỡ cá 50-100g/con, tỷ lệ % thức ăn so với trọng lượng cá 3,5-6.
  • Cỡ cá 100g/con, tỷ lệ % thức ăn so với trọng lượng cá 3-5.

e. Quản lý chăm sóc CBT nuôi:

  • Thường xuyên thay nước sạch cho CBT, loại bỏ nước dơ: nếu sử dụng nước thủy triều thì khi nước ròng 2/3 sông chênh lệch nước ao và sông lớn, rút bộng ra nước chảy mãnh thải các chất dơ từ đáy ao ra sông. Khi nước lớn 2/3 sông, lấy nước mới vào, nước sông lớn đã hòa loãng giảm độ dơ, lấy nước sạch vào ao, kích thích cá phat triển. CBT nuôi ở nước tốt lớn nhanh hơn nước xấu, nuôi ở nước lưu thông lớn nhanh hơn nước tĩnh 24-29% và nước lưu thông nhiều nuôi mật độ càng cao.
  • Đảm bảo chất lượng thức ăn là động vật cho CBT là tươi, không ướp hóa chất, số lượng cho ăn đủ, không để thức ăn dư.
  • Tạo điều kiện cho cá bắt mồi liên tục, ngày và đêm: cá thường sống ở đáy làm thức ăn tự nhiên cho cá hoặc đưa cá sống từ đáy ao sang mé ao, bằng tạo mé cỏ tối nước nước dầy ở từng đoạn mương ao (thả lục bình ở nơi yên tĩnh). Khi cá đã sống ở mé ao, cá giảm bệnh, cá tép con ban ngày trú vào rong cỏ sẽ làm mồi ăn trực tiếp cho CBT. Nuôi CBT mà cá không có đớp mồi ban ngày là điều kiện sống ở ao mương chưa tốt.
  • CBT là cá dữ nhưng nhát, ban ngày nằm sát đáy ao, hay hốc nên dễ bệnh ký sinh trùng (mỏ neo, rận cá,…) làm cá chậm lớn. Dùng lá xoan bó thành bó treo ở đầu cống nước ra vào hoặc dùng Dipterex (Dipterex la thuoc thu y thuy san da duoc bo thuy san cam su dung trong san xuat kinh doanh thuy san theo quyet dinh 07/2005/QD-BTS ngay 24/02/2005) liều lượng 0,7-10g/m khối nước tắm cá 10-15 phút, sau đó cho nước mới vào, cứ 3 ngày làm một lần đến khi cá hết bệnh.
  • Nuôi CBT ở ao nếu tạo điều kiện cho cá ăn và nước tốt, lưu thông thì cá lớn như nuôi ở bè, cá ít bệnh so với bè.

f. Thu hoạch CBT:

  • Thu tỉa thì dùng lọp, thả mồi bắt.
  • Thu cuối vụ thì tát cạn, CBT thường lặn sâu vào đáy bùn có khi đến 1m, khó bắt. Cần tát cạn vào chiều mát, mò bắt sơ bộ CBT có ở ao, sau đó dùng chuối cây trang ao cho bằng, cho nước vào 5cm, nửa đêm và gần sáng CBT ngóc nằm ở mặt bùn, dùng đèn soi bắt. Có nơi còn dùng dòng nước chảy bắt cá vào đêm.
  1. Nuôi CBT ở ao gắn với bè lồng:

Do điều kiện nuôi ở từng nơi, nuôi ở lồng thì vào mùa khô lượng nước ở sông rạch thấp, nước thường bị ô nhiễm, nuôi CBT thường dễ bị bệnh và cá chậm lớn, thời gian này lồng bè thường được sửa chữa và nuôi loại cá khác. CBT thịt được nuôi ở ao vào thời gian này, cá đạt cỡ 200-300g. Khi nước ở sông rạch tốt, đưa cá nuôi từ ao mương ra lồng bè nuôi vỗ béo để cá lớn nhanh, sạch, bán được giá cao. Cần có kết hợp chặt chẽ nuôi CBT ở ao và lồng bè là nâng cao hiệu quả của nuôi CBT. Kỹ thuật như phần nuôi ở ao và ở lồng bè.

  1. Nuôi CBT ở ruộng lúa:
  • Ruộng lúa nuôi cá trắng (mè trắng, chép trôi, mè vình, rô phi, hường …) các loại cá này chủ yếu ăn rong cỏ, mùn bả hữu cơ, sinh vật phù du. Chưa có loại cá ăn tép, cá tạp, động vật nhỏ có ở trong nước, khi đó loại cá tép con ngày có ở trong ruộng lúa rất nhiều. Khi chuẩn bị vụ lúa Đông Xuân mỗi ha có từ vài chục đến vài trăm kg cá tép vụn có thể làm thức ăn tốt cho CBT.
  • Mật độ thả ghép: 1 con/5-10m vuông ruộng.
  • Tạo điều kiện cho CBT ăn mồi tự nhiên ó ở ruộng: từng đoạn mương bao, chọn nơi êm, thả lục bình dầy làm nơi tối nước để CBT sống, cá tép tự nhiên vào cỏ trú, làm mồi ăn tự nhiên cho CBT.
  • Cuối vụ thu hoạch cá trắng, có sản lượng cao, giá trị thấp, song giá trị CBT nuôi ghép lại cao hơn hẳn cá trắng nuôi chính.
  1. Nuôi CBT ở lồng bè.

a. Chọn nơi nuôi CBT:

  • Nước sông rạch, hồ chứa sạch, có dòng chảy đều, nước tốt suốt thời gian nuôi, lưu tốc nước 0,2-1m/giấy. Nơi có đủ nguyên liệu làm thức ăn cho cá.
  • Cần tránh: Nơi nước nông cạn, nước không chảy, không có gió. Nơi nước chảy quá mạnh, sóng to, gió lớn, tàu bè qua lại nhiều, có tiếng động mạnh và cản trở giao thông. Nơi có nguồn nước nhiễm bẩn thuộc nông nghiệp, chất thải từ đồng ruộng, công nghiệp, nước phèn, nước đen. Nơi khúc quanh cửa sông, mùn bả hữu cơ tích tụ nhiều. Nơi có quá nhiều rong cỏ. Nơi có quá nhiều lồng bè đặt gần nhau.

b. Thiết kế lồng bè:

  • Nuôi CBT nên làm lồng bè loại nhỏ: 1×1,5×1,2m 3x4x1,5m dễ xử lý quá trình nuôi. Nguyên liệu có thể bằng tre gỗ.
  • Bè đóng kín 3 mặt: đáy và 2 bên hông, mặt trước và mặt sau đóng lưới hoặc nẹp tre, gỗ có kẽ thưa.

c. Thời vụ thả cá:

  • Tùy môi trường nước và giống CBT có ở từng nơi mà thời vụ thả cá nuôi có thay đổi, thông thường từ tháng 6-7 đến tháng 12.
  • Cỡ cá theo quy cỡ của sản xuất cá giống hay bắt tự nhiên: 50-70g, 80-100g, 160-200g. Mật độ thả từ 20-80 con/ m vuông, thông thường 25-40 con/ m vuông.
  • Chất lượng giống cá trước khi thả phải thật tốt, cá đều cỡ, cá được khử trùng bằng nước muối 3-4%, tắm trong 15-20 phút hoặc Malachite green (thuốc này đã bị cấm sử dụng theo QĐ 20/2003/QĐ-BTS) một phần triệu.

d. Thức ăn:

  • Tận dụng thế mạnh thức ăn có ở địa phương: tôm tép, cá nhỏ, trùng, ốc, cua, … cho cá ăn trực tiếp. Thức ăn phải tươi, không được muối hóa chất. Khi nguồn thức ăn này giảm, giá cao, có thể thay một phần bằng thức ăn hỗn hợp.

Công thức 1:

  • Bột cá : 30-35%
  • Cám, bột gạo, mù, bắp: 55-60%
  • Dầu cá : 7-10%
  • Bột lá gòn : 3-5%

Công thức 2:

  • Bột cá : 30-35%
  • Cám, bột gạo, mù, bắp: 50-60%
  • Trùn đất băm nhỏ : 7-10%
  • Bột lá gòn : 3-5%

Lượng thức ăn hàng ngày 5-10% trọng lượng cá nuôi trong bè.

Thời gian cho ăn vào sáng sớm và chiều tối.

Thức ăn cho vào sàn, treo lơ lửng trong lồng bè, cách mặt nước 40-50cm. Mỗi bè lồng có 1-3 sàn ăn.

Có thể nuôi cá sống: cá săt, cá hường, cá trôi, rô phi, cá 7 màu, ốc, nhái làm thức ăn cho CBT.

e. Chăm sóc quản lý:

  • Cho cá ăn đủ, đều, không để thức ăn dư thối.
  • Hàng tuần cọ rửa lồng bè một lần và cọ vét thức ăn dư rơi vãi, phù sa ở đáy bè.
  • Nếu cá bị bệnh trùng mỏ neo, dùng lá xoan bó thành bó để dưới đáy bè, nước lá xoan tiết ra làm trùng rơi khỏi cá.
  • Nếu cá bị bệnh tuột nhớt, cuốn nhớt làm cá chết hàng loạt và nhanh chóng: cần chú ý nguồn nước qua bè nuôi chất phải tốt, không làm xây xát cá khi chuyển về bè. Thời kỳ đầu bệnh có vết trắng ở đuôi, sau đó lan dần toàn thân cá. Phòng bệnh không nên nuôi cá mật độ quá dầy, không làm xây xát cá. Dùng vôi bột 1-2kg/ m khối nước treo ở đầu nguồn nước: trị: ngâm cá trong clorua vôi nồng độ 1ppm. Tắm cá bằng Treptomycine 25mg/l trong 30 phút đến 1 giờ. Có thể dùng cao su bịt hai đầu bè cho thuốc vào bè tắm cá.

f. Thu hoạch:

  • Cá nuôi sau 5-7 tháng đạt cỡ trên 400g/con thì thuhoạch.
  • Hàng tháng nên đánh tỉa cá đạt tiêu chuẩn một lần. cá chưa đat nên tiếp tục nuôi và bổ sung giống.
  • Cuối vụ thu hoạch tổng thể, vệ sinh bè lồng, chuẩn bị cho vụ nuôi sau.

Kỹ thuật nuôi thủy đặc sản nước ngọt – Dương Tấn Lộc – NXB TPHCM

Kỹ thuật nuôi cá bông tượng

  1. Xây dựng ao:
  • Ao nuôi nên đặt gần nguồn nước đế cấp và thoát dễ dàng.
  • Vùng đất ít bị nhiễm phèn.
  • Gần nhà để dễ quản lý và chăm sóc.
  • Diện tích ao thích hợp từ 200-500m2, sâu 1,2-1,5m
  1. Cải tạo ao:
  • Sên vét bùn đáy, lấp kín hang hốc, lỗ mọi.
  • Rào lưới xung quanh bờ ao, phòng tránh cá thoát ra ngoài.
  • Bón vôi bung CaO từ 7-10kg/100m2 để nâng pH đất, diệt tạp và mầm bệnh.
  • Diệt cá dữ bằng dây thuốc cá với liều lượng 1kg/70m3 nước. Sau đó lấy nước vào qua túi lọc bằng vải KT.
  • Kiểm tra pH, khi pH đạt 7-8 thì tiến hành bón phân gây màu bằng:
  • Phân vô cơ: DAP + Urê (tỉ lệ 1:1) với liều lượng 2kg/1.000m2
  • Phân hữu cơ: phân chuồng đã ủ hoai (với 2-3% vôi CaO) liều lượng 80 kg/100m2

Sau khi bón phân khoảng 5-7 ngày thấy nước có màu xanh đọt chuối non (độ trong 40-50cm) thì tiến hành thả giống.

  1. Thả giống:

Chọn cá khoẻ mạnh, kích cỡ đồng đều, màu sắc tươi sáng, bơi lội linh hoạt, cơ thể không xây xát. Cá giống cỡ 10-12 con/kg, thả mật độ từ 2-3 con/m2.

Nên thả giống lúc sáng sớm hoặc chiều mát. Cá mới mua về trước khi thả cần tắm qua dung dịch muối có nồng độ 2% trong thời gian 5-10 phút để loại trừ kí sinh và sát trùng vết thương do xay xát trong quá trình đánh bắt và vận chuyển.

  1. Chăm sóc và quản lý:
  • Thức ăn sử dụng cho cá là thức ăn tươi sống (tôm, tép, cá, thịt, ốc, hến…) được cắt nhỏ để cho cá dễ ăn (thức ăn cần được rửa sạch).
  • Cho cá ăn 2 lần/ngày vào lúc sáng sớm (6-7h) và chiều mát (18-19h), lượng thức ăn mỗi ngày bằng 3-5% tổng trọng lượng đàn cá trong ao.
  • Dụng cụ cho cá ăn là sàng tre đan thưa, nhẵn hoặc bằng sàng lưới cước được đặt cách mặt nước 40-50cm.
  • Sau khi cho cá ăn khoảng 30phút đến 1giờ kiểm tra lại sàng ăn để xem khả năng cá ăn mồi, qua đó điều chỉnh lượng thức ăn cho phù hợp ở lần kế tiếp.
  • Phải chà rửa sàng ăn mỗi ngày để tránh nấm, sinh vật ký sinh, vi khuẩn bám có thể ảnh hưởng xấu đến sức khoẻ của cá.
  • Thường xuyên kiểm tra bờ, cống, chống rò rĩ và mưa tràn bờ thất thoát cá. Cần kiểm tra pH của ao nhất là sau những trận mưa lớn.
  • Hàng ngày thăm ao vào lúc sáng sớm quan sát hoạt động của cá và kiểm tra môi trường nước để có biện pháp xử lý kịp thời.
  • Thường xuyên thay nước mới để đảm bảo nước tốt. Lượng nước thay khoảng 20% lượng nước có trong ao.
  1. Phòng bệnh:

Định kỳ 10 ngày dùng vôi bột với liều lượng 5g/m3 hoà nước tạt để ngừa bệnh cho cá.

Thường xuyên bổ sung vitamine C để tăng sức đề kháng cho cá và định kỳ trộn tỏi vào thức ăn với liều lượng 4-5g/kg thức ăn để phòng bệnh đường ruột cho cá.

KS. Nguyễn Thị Thy Nga – Khuyến ngư Kiên Giang, 3/5/2006

Nuôi cá bống tượng trong bồn để nâng cao năng suất

Nuôi cá trong bồn có nhiều thuận lợi hơn so với nuôi trong ao đất. Trên cùng một diện tích, nuôi cá trong bồn tuy đầu tư chi phí ban đầu có cao hơn nhiều nhưng năng suất cao hơn gấp nhiều lần so với nuôi trong ao đất.

Mặt khác, nuôi trong bồn còn có nhiều điểm thuận lợi khác như: Dễ quản lý bồn bể và cá nuôi, nhờ sự chủ động địa điểm và quy mô nuôi. Nhờ không phải phụ thuộc vào thời tiết nên chủ động mùa vụ thả nuôi.

Nuôi trong bồn nhờ mực nước cạn nên có thể dễ dàng quan sát được sự ăn mồi của cá mà tăng giảm lượng thức ăn cho phù hợp, hạn chế ô nhiễm nguồn nước cũng như tiết kiệm mồi. Dễ dàng phát hiện, ngăn chặn và xử lý khi cá có biểu hiện bệnh.

Nhờ nuôi cách biệt với nền đáy nên ngăn chặn được sự thẩm lậu của vật chất hữu cơ vào trong đất. Sử dụng nguồn nước ít hơn do đó thải nước cũng ít hơn, nên hạn chế ô nhiễm môi trường. Cần ít công chăm sóc hơn so với nuôi trong ao, do đó chi phí lao động rẻ hơn. 

Lựa chọn địa điểm nuôi cá bống tượng trong bồn là nơi có nguồn nước sạch, cung cấp nước thường xuyên, vị trí xây nơi yên tĩnh, chủ động việc cấp và thoát nước, thuận tiện giao thông. Tốt nhất là nơi có nguồn nước chảy tự nhiên như sông, suối. Đảm bảo đạt nhiệt độ của nước 25 – 270C, hàm lượng oxy hòa tan 5mg/l, độ pH 7,5 – 8,5.

Thiết kế bể/bồn nuôi có diện tích tốt nhất từ 100m2 trở lên, hình vuông, hình chữ nhật hoặc hình tròn được xây bằng gạch, bên trong láng nhẵn. Độ sâu của bể/bồn 1,5 m, bên trong láng xi măng nhẵn, trên thành bể/bồn xây gờ ngang 10 cm để cho cá khỏi đi.

Có hệ thống cống cấp thoát nước riêng biệt. Ống cấp nước cách mặt bể/bồn 50 cm, tốt nhất nên thiết kế bể nuôi có nước chảy ra vào thường xuyên, trang bị máy bơm nước tự động tắt mở khi nước đầy. Nước bể/bồn nuôi ở dạng nên lắp thêm giàn phun mưa để tạo thêm oxy mỗi buổi sáng.

Để tránh tạp chất gây ô nhiễm, cho nước qua một bể lọc (có cát, than, sỏi…) chiếm 20 – 30% diện tích bể. Trên bể/bồn có mái che, lưới để giảm ánh nắng rọi vào nhiều. Đối với bể/bồn mới xây, ngâm phèn chua 100 g/m2, ngâm 2 lần, 2 ngày/lần, sau đó chà bằng bẹ chuối, phơi nắng 30 ngày, cấp và xả nước 3 – 4 lần.

Thái Hà – Chất lượng Việt Nam

Nuôi cá bống tượng ở miền Bắc

Sau 6 năm nghiên cứu và đưa vào nuôi thử nghiệm, vừa qua Trung tâm Giống thuỷ sản (Sở Thuỷ sản Hải Phòng) đã chính thức nhân nuôi thành công giống cá bống tượng tại miền Bắc. Theo đánh giá ban đầu, cá hoàn toàn có thể sống, thích nghi và phát triển được trong môi trường nóng, lạnh thất thường của miền Bắc với tốc độ lớn bằng 2/3 so với cá nuôi ở các tỉnh phía Nam…

Ông Nguyễn Văn Đán- Phó Giám đốc Trung tâm Giống thuỷ sản Hải Phòng cho biết, bống tượng là một loài cá thuộc dạng cá dữ thường được nuôi phổ biến ở các tỉnh miền Tây Nam bộ do chúng rất thích nghi với điều kiện nóng ấm quanh năm ở đây. Tuy nhiên, nếu biết cách thay đổi một vài khâu kỹ thuật cho phù hợp thì cá cũng có thể hoàn toàn sống và sinh trưởng được tại miền Bắc.

Kể từ năm 1998, các cán bộ ở Trung tâm đã bắt đầu nhập giống từ miền Nam ra với mục đích nghiên cứu sự thích nghi của cá trong điều kiện khí hậu nhiệt đới lạnh khác gì so với khí hậu miền Nam. Theo ông Đán, ban đầu cá tỏ ra rất thích nghi vào mùa hè, nhưng tới mùa đông nhiều con tỏ ra chậm lớn, thậm chí xuất hiện tình trạng bỏ ăn do thời tiết quá rét. Do đó, để nuôi được cá các cán bộ ở đây đã tiến hành thay đổi cách nuôi theo các bước sau:

Thiết kế ao nuôi

Ao nuôi cá bằng ao đất bình thường, có kè gạch bốn xung quanh thành ao. Đất trong ao tốt nhất là đất sét hoặc đất pha sét để giữ được nước, đảm bảo đất không bị nhiễm phèn, đặc biệt phải thông thoáng… Diện tích ao thông thường rộng 200- 500m2, xây theo hình chữ nhật, chiều dài lớn gấp 3 lần chiều rộng, độ sâu thích hợp 1,5- 2m. Khi xây ao nên bố trí làm thêm các hang hốc nhân tạo cho cá trú ngụ bằng cách xếp đá tạo nhiều kẽ hở. Dưới đáy ao cần tạo một lớp bùn dày khoảng 20cm cho cá chui xuống.

Chăm sóc

Bống tượng là loài cá sử dụng thức ăn hoàn toàn bằng động vật, chủ yếu là các loại cá con, cá nhỏ hay tôm, tép… tuyệt đối không ăn thực vật. Thông thường mỗi ngày cần cho cá ăn một lần với lượng thức ăn bằng 5- 7% so với trọng lượng cơ thể của chúng. Thức ăn phải được băm nhỏ, sạch sẽ không bị nhiễm bệnh.

Chống rét cho cá

Đây là khâu quan trọng nhất trong quá trình nuôi cá tại miền Bắc. Thông thường nếu về mùa hè thì không vấn đề gì, nhưng tới mùa rét (xuất hiện từ tháng 10 năm trước đến tháng 4 năm sau) phải hết sức đề phòng cá bị chết rét. Cách chống rét được các cán bộ ở Trung tâm sử dụng là dùng bạt để che chắn gió lọt vào trong ao hoặc tạo các giá bèo sát bờ tạo thành nơi cho cá trú ngụ…

Cho cá sinh sản

Mùa sinh sản của cá tại miền Bắc thường được bắt đầu từ tháng 4 đến tháng 7, bởi đây là thời kỳ có điều kiện khí hậu thích hợp nhất cho cá. Hiện sau một thời gian thử nghiệm các cán bộ ở Trung tâm Giống thuỷ sản Hải Phòng vẫn đang cho cá bống tượng sinh sản một cách tự nhiên. Tuy nhiên, theo ông Nguyễn Văn Đán, rất có thể trong thời gian tới Trung tâm sẽ chuyển sang phương pháp sinh sản nhân tạo vì nếu để cá sinh sản tự nhiên tỷ lệ hao hụt cá con tương đối nhiều.

Thu hoạch và cải tạo ao nuôi

Khi cá đạt trọng lượng trung bình mỗi con từ 0,3- 0,5kg/con thì bắt đầu thu hoạch. Nếu muốn bắt cá dễ dàng phải tát cạn hết nước ở trong ao, tránh tình trạng cáá có thể chui xuống bùn. Sau khi thu hoạch, phải tiến hành cải tạo ao theo các bước, bắt hết cá dữ còn sót lại trong ao. 10 ngày trước khi nuôi tiếp vụ khác phải tu sửa lại bờ ao cho chắc chắn, nạo vét bùn không để dày quá 20cm, dọn sạch cỏ xung quanh ao. Tiếp đó, dùng vôi bột để phòng bệnh cho cá với liều lượng 7- 10kg/1.000m2, đối với ao nhiễm phèn nặng thì phải cao hơn, đồng thời kết hợp bón bổ sung thêm phân chuồng vào ao theo tỷ lệ 30- 40 kg/1.000m2 .

Liệu nông dân miền Bắc có thể nuôi cá?

Bống tượng là loài cá có giá trị kinh tế rất cao với giá bán lên tới 70.000- 120.000 đồng/kg, vì thế ông Đán khẳng định người nông dân ở miền Bắc hoàn toàn có thể nuôi được, nhưng chi phí đầu tư tương đối lớn. Với 100 con đang được nhân nuôi hiện nay trong thời gian tới trung tâm sẽ tiếp tục mở rộng số lượng con giống để giúp bà con đưa vào nuôi thả đại trà.

NTNN, 1/4/2004

Dự án nuôi công nghiệp cá bống tượng (Oxyeleotris marmoratus Bleeker)

DỰ ÁN SẢN XUẤT VÀ NUÔI CÁ BỐNG TƯỢNG THƯƠNG PHẨM CÔNG NGHỆ CAO VÙNG NƯỚC LỢ 

I. MỤC ĐÍCH

Trong những năm gần đây, các hoạt động về nuôi trồng thuỷ sản. Đặc biệt là nuôi trồng thuỷ sản nước lợ ở các vùng ven biển nước ta nói chung và đồng bằng sông Cửu Long nói riêng, càng trở lên năng động. Từ nhiều hình thức nuôi, nuôi quảng canh, nuôi công nghiệp. Đối tượng nuôi mang tính chất truyền thống như Tôm Sú, Tôm Bạc Chân Trắng. Chủ yếu là các loại tôm.

Riêng các loại cá mặc dầu vẫn thích nghi được với vùng nước lợ, song chưa được chú trọng trong nghề nuôi. Từ lâu chỉ là đối tượng khai thác.

Cá Bống Tượng là một loại cá có giá trị kinh tế cao. Thịt thơm ngon và là đối tượng xuất khẩu quan trọng. Đây là loại cá thích nghi được, nuôi rất kinh tế hấp dẫn cho các vùng nước lợ ở nước ta, đặc biệt là ở các khu vực hạ lưu sông, có độ mặn dao động từ 4 đến 15 phần ngàn, chúng sống rất tốt và phát triển ít xảy ra hội chứng lở loét, so với nuôi trong điều kiện nước ngọt thuần. Tuy nhiên từ lâu nghề nuôi cá Bống Tượng của bà con hiện đang trong giai đoạn bắt đầu, với những hình thức nuôi tự phát và sử dụng với nguồn giống tự nhiên, nuôi trong ao đầm, trong bè ở những vùng nước ngọt như La Ngà Đồng Nai, nuôi bè An Giang, ao đầm Tân Thành Cà Mau. Những thông tin kỹ thuật về nuôi Bống Tượng hãy còn quá hiếm hoi.

Vì thế nhằm phổ biến những hiểu biết cơ bản về đặc điểm sinh học và kỹ thuật nuôi loài thuỷ sản quý hiếm này, trong điều kiện nước lợ. Chúng tôi đã nỗ lực đối phó với nhiều thử thách, không ngừng tìm hiểu và nuôi khảo nghiệm để biết sự thích nghi của loài cá này, trong môi trường nước lợ và đã cho kết quả mong muốn. Trong khi nghề nuôi Tôm nước lợ còn nhiều lận đận , để tận dụng ngoài vụ Tôm. Tám tháng còn lại của ao đầm Tôm, mà nuôi cá Bống Tượng luân canh với Tôm, để cải thiện môi trường ao nuôi, hạn chế mầm bệnh của Tôm, cách ly mầm bệnh tồn tại trong ao cho vụ tới.

Đồng thời cũng là biện pháp ngăn ngừa bệnh cho Tôm nuôi. Với phương châm “NGƯ DÂN NUÔI TÔM SÚ , PHÒNG BỆNH TÔM LÀ NUÔI BỐNG TƯỢNG”

II. GIẢI PHÁP ĐƠN THUẦN NHƯNG KHOA HỌC:

Để dễ dàng thực hiện ứng dụng cho ao nuôi Tôm, quy trình nuôi cải tiến này, sau khi thu hoạch Tôm xong , vệ sinh xử lý ao rồi nuôi tiếp cá Bống Tượng mà không làm đảo lộn tập quán của bà con ngư dân. Đây là bước đi khá phù hợp nhất, trong nuôi Tôm luân canh. Thực hiện khẩu hiệu làm kinh tế trên đất Nông Nghiệp Đô Thị, thu nhập 6 tỷ/ha (20 tấn x 300.000.000đ = 6.000.000.000đ)

Với lợi thế của nguồn nước không bị ô nhiễm thuốc bảo vệ thực vật, khu vực Phước Long B – Q9, cùng với biện pháp lọc sinh học và xử lý nước thải, chúng tôi mở rộng sản xuất cá giống Bống Tượng đủ loại để cung cấp, phục vụ bà con nuôi luân canh Tôm Sú cho cả nước. Dự án thực hiện với mục đích vì bức xúc của phong trào nuôi thuỷ sản nước lợ đang phát triển. Đồng thời cung cấp con giống quý hiếm, có giá trị cao, cho người dân vùng Nông Nghiệp Đô Thị. Tận dụng nguồn nguyên liệu dồi dào, đa dạng từ cá tạp rẻ tiền, chúng tôi chuyển đổi thành cá Bống Tượng hàng hoá có giá trị cao.

III. THỰC HIỆN DỰ ÁN: MÔ TẢ DOANH NGHIỆP

TRẠI SẢN XUẤT GIỐNG VÀ NUÔI THƯƠNG PHẨM CÁ BỐNG TƯỢNG VỚI CÔNG NGHỆ CAO.

Chuyên sản xuất các loại thủy đặc sản quý hiếm. Sở trường là cá Bống Tượng. Từ các loại giống 3 – 4cm, 12-15cm… và cá thương phẩm 400g – 800g/con.

Qua nuôi khảo nghiệm tại vùng nước lợ, loài cá Bống Tượng đã thích nghi và phát triển tốt, không bị hội chứng lở loét trong quá trình nuôi, so với vùng nước ngọt. Giai đoạn đầu. Cá bột được sinh sản và ương nuôi tại trung tâm giống Thủy sản Phước Long sau 20 ngày cá đạt 1 – 2cm chuyển về thuần lợ.

Đem so sánh để nuôi được 01 tấn sản phẩm cá Bống Tượng tại vùng nước lợ nói chung và huyện Cần Giờ, Nhà Bè Tp.Hồ Chí Minh nói riêng, chỉ cần tiêu tốn từ 6 – 8 kg cá tạp để thu về 1kg Bống Tượng thành phẩm. Với trữ lượng cá tạp phong phú của diện tích mặt nước vùng cửa sông ao đầm Tôm tại Cần Giờ, trại đầu tư nuôi cá Bống Tượng thương phẩm và sản xuất cá giống Bống Tượng tại chỗ, để cung cấp cho địa phương và các vùng nước lợ lân cận. Với lợi thế thiên nhiên ưu đãi và tiềm năng của Cần Giờ, thực tế cho thấy nếu nuôi cá Bống Tượng hàng hoá, dùng thức ăn là cá tạp và nuôi thêm cá mồi (rô phi) phục vụ làm thức ăn cho cá Bống Tượng, chi phí giá thành đầu vào 1kg thành phẩm không quá 30.000đ/1 vụ nuôi. Trong khi giá trị đầu ra thương phẩm là 300.000đ/1kg. Nếu đưa khoa học kỹ thuật vào ứng dụng, bằng quy trình kỹ thuật nuôi cá Bống Tượng thương phẩm, với quy trình nuôi tuần hoàn, hoàn toàn theo hướng dẫn. Năng suất sẽ đạt trên 20 tấn/ha là đối tượng nuôi rất lý tưởng và triển vọng đồng thời cũng để luân canh cùng Tôm Sú cho môi trường nuôi bền vững.

Nói chung nghề nuôi cá Bống Tượng luân canh Tôm Sú được xem là một giải pháp sáng tạo, một bước đột phá cho nghề nuôi trồng thủy sản nước lợ.

Để thực hiện dự án có hiệu quả, nên xem đây là một đề tài khoa học, một nhân tố tích cực trong ngành thủy sản. Cần liên kết hơn nữa, để cùng nhau tạo điều kiện tốt, ứng dụng mô hình nuôi tuần hoàn, hoàn toàn để nuôi loài cá quý hiếm này, thu ngoại tệ để làm giàu cho đất nước.

Chúng tôi rất mong được sự hưởng ứng và tham gia của các nhà khoa học trong lĩnh vực nuôi cá nói chung, nuôi cá Bống Tượng nói riêng. Sửa đổi, bổ xung quy trình nuôi chuẩn xác và hiệu quả hơn nữa.

Đây là nguyện vọng chân thành và tha thiết của tác giả và cũng là người rất tâm đắc với loài cá quý hiếm này! Tác giả một lần nữa cần được sự giúp đỡ, hỗ trợ của các nghành chức năng và các nhà khoa học, nghiên cứu cho quy trình ngày càng hoàn thiện hơn. 

IV/ MÔ TẢ THỊ TRƯỜNG:

Sản phẩm Bống Tượng chủ yếu là tiêu thụ cho xuất khẩu, cá hàng hoá từ 400g -800g là thực phẩm. Làm món ăn không thể thiếu được của 1,3 tỷ dân Trung Quốc và các nước ASEAN rất ưa chuộng. Đó là tính đặc biệt của thị trường không bao giờ thoả mãn giữa cung với cầu. Để có được những thông tin thị trường, chúng tôi đã thăm dò và được biết hiện nay Chính phủ Trung Quốc, kêu gọi người dân nên nuôi loài cá quý hiếm này để tự cung cấp cho tiêu dùng trong nước. Họ bỏ kinh phí cho các viện, trường sinh sản nhân tạo cá giống Bống Tượng cung cấp cho ngư dân. Nhưng kết quả chưa đạt, vì nhiều lý do khách quan. Điển hình hàng năm vẫn còn sang Việt Nam nhập giống về nuôi và tiếp tục thu mua cá hàng hoá ở Việt Nam.

Trở lại khía cạnh của thị trường sản phẩm Bống Tượng. Tại sao Trung Quốc chưa nuôi được cá Bống Tượng, mặc dầu công nghệ quy trình kỹ thuật nuôi trồng thủy sản của họ rất cao. Song vì thời tiết khắc nghiệt, bởi mùa đông quá lạnh của khí hậu Trung Quốc loài cá này quá ngưỡng chịu đựng, nên không thể sinh trưởng và phát triển. Muốn khắc phục được điều kiện thời tiết để nuôi cá Bống Tượng tại Trung Quốc thì có khác gì tăng giá thành sản phẩm (làm lò sưởi để nuôi cá, nhà ấm để trồng rau) vì thế như đất nước Việt Nam là từ đèo Hải Vân trở vào Nam, thiên nhiên ưu đãi thời tiết. Nên chỉ cần ta năm được quy trình kỹ thuật nuôi Bống Tượng thì sẽ hái được ra tiền. Cổ nhân có câu: Mình nên làm ra sản phẩm nào, mà xã hội cần. Chớ không nên làm ra sản phẩm đó, mình biết lam, ma xã hội đã thừa! Để nhận xét thêm về thị trường của cá Bống Tượng. Được sự tiêu thụ của thị trường Trung Quốc, thì người nuôi rất yên tâm sản xuất. Bởi lẽ, Trung Quốc là cường quốc đứng số I về thương mại với 1,3 tỷ dân số. Đứng thứ 6 về kinh tế, thu hút đầu tư 1.200 tỷ USD. Rõ ràng là miếng bánh béo bở cho doanh nghiệp nào, sản xuất ra sản phẩm mà thị trường Trung Quốc có nhu cầu, ưa chuộng. Nói cách khác, mặt hàng nào Trung Quốc tiêu thụ là mặt hàng đó có giá cao, thậm chí giá của siêu lợi nhuận!. Đi đôi với nhu cầu tiêu dùng, với lợi thế được sự quan tâm chăm sóc của lãnh đạo hai nước về Tối Huệ Quốc cho mua bán mậu dịch, như sản phẩm Bống Tượng càng dễ dàng xâm nhập thị trường vô tận của Trung Quốc (Thiên Thời, Địa Lợi, Nhân Hoà).

Trên đây là những nhận xét khách quan về lợi ích kinh tế xã hội và đất nước. Bằng tấm lòng quyết tâm tha thiết, muốn nêu lên đây để bà con ngư dân có cơ hội lựa chọn. Thiết nghĩ đây không phải là một dự án nói lên mưu cầu lợi ích cá nhân, hay kêu gọi, thuyết phục để được sự hỗ trợ vốn, đồng thời luôn tiện tiêu thụ con giống hay giới thiệu mặt hàng, để bán sản phẩm của mình làm ra.

IV. MÔ TẢ VỊ TRÍ:

Địa điểm trang trại của dự án được bố trí giai đoạn đầu: Từ cá bột lên cá hương tại trại thủy đặc sản Phước Long (Tp. Hồ Chí Minh) với nguồn nước không ô nhiễm thuốc trừ sâu, và hơn 1 ha diện tích mat nước rất thuận lợi để ương cá giống Bống Tượng. Có nguồn nước lợ tự nhiên với độ muối dao động từ 20-25 phần ngàn .Và nguồn nước ngọt khai thác từ giếng ngầm. Khi cần nước ngọt để chủ động dung hoà độ mặn là sử dụng để ương nuôi cá bột và sinh hoạt hàng ngày trữ lượng không đáng kể.

Giai đoạn 2: Được nối tiếp bằng cách thuần nước lợ cho cá giống Bống Tượng và chuyển sang, nuôi cá thịt tại vùng cửa sông thuộc huyện Cần Giờ, Nhà Bè TP.HCM. Cách tính nếu đưa vào ứng dụng quy trình kỹ thuật nuôi cá Bống Tượng 50% diện tích của địa phương (diện tích nuôi trồng thủy sản 6990ha) ta sẽ có sản lượng và doanh số như sau: 3.500ha x 20tấn x 20.000USD = 70.000.000 USD (Bảy mươi triệu USD).

Về mặt thuận lợi nữa là thức ăn cho cá giống, cá nuôi rất phong phú và đa dạng, giúp cho trại sản xuất được hạ giá thành sản phẩm (điển hình nếu địa điểm của trại giống bố trí xa nguồn thức ăn. Chỉ trông nhờ vào thức ăn công nghiệp và ấu trùng ARTEMIA thì giá thành 01 sản phẩm là 350đ/01 con giống cỡ 3 -> 4 cm. thời gian ương là 55 ngày tuổi)

Riêng địa điểm vùng nước lợ mà trại đã đặt địa điểm, thức ăn tự nhiên rất dồi dào nếu tận dụng sẽ giảm được 30% -> 40% chi phí thức ăn và rút ngắn được thời gian ương nuôi 40 -> 45 ngày.

Đồng thời vị trí trại được thiết kế theo dạng dã chiến. Nên việc mở rộng sản xuất rất đơn giản vì có sẵn diện tích sử dụng rất nhiều, trên 4ha mặt nước. Dành 20% bố trí hồ bạt nổi để ương con giống. Diện tích còn lại để nuôi cá thương phẩm và nuôi cá tạp làm thức ăn tươi sống cho cá Bống Tượng thịt, cá Bống Tượng giống.

Đây là một lợi thế, nếu ta biết tận dụng, khai thác nguồn thức ăn tự nhiên này cho hợp lý, để cung cấp cho cá Bống Tượng. Biết trân trọng nó và bảo vệ nguồn lợi vô tận này, để phục vụ nuôi trồng sẽ mang lại hiệu quả kinh tế cho ngư dân. Đây là tiền đồ sáng sủa trong nuôi trồng thuỷ sản thu ngoại tệ cho nước nhà. 

VI. SẢN PHẨM CẠNH TRANH:

Dự án sản xuất nuôi cá Bống Tượng, cá biệt là không có sự cạnh tranh. Bởi lẽ sự khó tính của loại cá Bống Tượng thường hay xảy ra dịch bệnh, rủi ro cũng nhiều. Nếu người nuôi ít am hiểu về quy trình kỹ thuật thì nuôi ít thành công.

Như đã nêu ở phần trên, hiện nay ngư dân đang nuôi cá Bống Tượng chỉ nuôi dưới dạng tự phát, không có biện pháp phòng trừ dịch bệnh. Nên tỷ lệ sống rất thấp thì bao giờ đáp ứng được nhu cầu. Riêng về con giống thì hiện nay, nơi sản xuất chỉ đếm được trên đầu ngón tay, thì lấy đâu ra sản phẩm để cạnh tranh. Song song với sự độc nhất vô nhị của sản phẩm Bống Tượng. Kế đến là kỹ thuật sinh sản nhân tạo cá Bống Tượng nếu ứng dụng quy trình đơn thuần, thì tỷ lệ sống rất thấp < 5%. Nếu ta biết cách ương cá bột biết cách sử dụng đưa thức ăn tự nhiên cho cá bột, đồng thời tạo sinh khối tảo, biết gây nuôi ấu trùng ROTIFER thì mới có tỷ lệ sống cao. So với nhu cầu hiện nay, con giống nhân tạo còn rất ít chỉ đáp ứng chưa được 2% thị trường.

VII . SỬ DỤNG NGUỒN VỐN VAY VÀ HIỆU QUẢ MONG ĐỢI

VỐN SỬ DỤNG CHO DỰ ÁN : 2.000.000.000VNĐ

PHÂN BỔ CHO SẢN XUẤT KHẢ NĂNG SINH LỢI

  1. CƠ SỞ HẠ TẦNG: 140.000.000đ
  2. TRANG THIẾT BỊ: 133.000.000đ
  3. VỐN LƯU ĐỘNG: 1.446.000.000đ 

VIII. DOANH THU

Tổng cộng: 20.450.000.000đ (cá thịt: 20 tấn ; cá giống: 12.000.000 con). Bao gồm:

1/ Sản lượng cá thịt: 20 tấn

Hệ số sản phẩm:

– Cá loại I : 400g -> 800g 12 tấn x 250.000.000đ = 3tỷ

– Cá loại II : 300g -> 390g 05 tấn x 200.000.000đ = 1 tỷ

– Cá loại III : 200g -> 29000g 03 tấn x 150.000.000đ = 450 triệu

2/ Sản lượng cá giống: 12.000.000 con

  • Kích cỡ 3-4cm 10.000.000 con x 800đ = 8 tỷ
  • Loại 12cm – 15cm 2.000.000 con x 4.000đ = 8tỷ

PHÂN TÍCH KHÁCH QUAN NGHỀ NUÔI CÁ BỐNG TƯỢNG THƯƠNG PHẨM:

Nhìn chung, nghề nuôi cá Bống Tượng đòi hỏi người quản lý cao hơn các nghề nuôi thủy sản khác. Hơn nữa nghề này cũng đòi hỏi hình thức và kỹ năng quản lý hoàn toàn khác nhau. Đặc biệt là ứng dụng quy trình kỹ thuật thâm canh, với mô hình sử dụng nước tuần hoàn, hoàn toàn. Khả năng tài chánh nhiều hoặc ít, diện tích ao hồ từ 100-1.000m2 đều thực hiện ứng dụng được.

Theo phân tích tài chánh cho thấy lãi ròng của các vụ nuôi theo dõi được đã cho lãi 309,9% rõ ràng là một nghề nuôi trồng siêu lợi nhuận, điều này chứng minh hoàn toàn giá trị thương mại của nó. Vốn lưu động khá cao chiếm khoảng 70% tổng chi phí trong khi đó các hạng mục của trang thiết bị và vốn cố định 30%.

Mặc dù vốn lưu động tuy cao, nhưng lợi nhuận của quá trình sản xuất càng cao hơn so với các đối tượng nuôi khác. Do đó với một trang thiết bị như máy bơm nước, máy quạt Oxy?. Dụng cụ đầu tư cho quy trình nuôi thâm canh tuần hoàn tạo mọi điều kiện môi trường tối ưu cho cá, cũng là một sự phát động, vận dụng quy trình kỹ thuật công nghệ cao, thiết thực nâng cao tỷ lệ sống, dẫn đến sản lượng cá cũng gia tăng tương ứng. Riêng hiện nay chưa có nơi nào, hoặc nhà nuôi trồng thủy sản nào? Ứng dụng quy trình này để nuôi cá Bống Tượng, giám nghĩ, giám đầu tư cho loài cá có giá trị kinh tế cao! Mặc dù đó là một trong nhiều quy trình sản xuất tiên tiến, khoa học và hiệu quả cao nhất, không ảnh hưởng về môi trường sinh thái chung, để sản xuất luôn được bền vững trong quy trình nuôi tuần hoàn, có phương án xử lý nước thải và chất thải trong quá trình nuôi là biện pháp tối ưu! Cho môi trường nuôi kế đến là tạo dòng chảy nhẹ bằng máy quạt cho cá Bống Tượng là bí quyết thành công để làm ra nhiều sản phẩm siêu lợi nhuận.

Sau đây là bản so sánh hiệu quả kinh tế giữa nuôi Tôm Sú công nghiệp và nuôi cá Bống Tượng công nghệ cao trên cùng một diện tích như nhau (1ha).

Để có1kg cá thương phẩm Bống Tượng cần tiêu tốn 8 kg cá tạp đủ loại. Với năng suất 20 tấn/1ha ta cần 160 tấn cá tạp, giá 1kg cá tạp 6.000 đồng thì giá thành chi phí thức ăn là: 48.000 đồng.

Nếu tạo được nguồn thức ăn bằng cách nuôi cá mồi mỗi ký cá nuôi 4.000 đồng thì chi phí giá thành là 32.000đồng/1kg sản phẩm. Giá bán các thương phẩm Bống Tượng trung bình là: 250.000đ/1kg – 48.000đ/lãi = 202.000đ

Đối với Tôm Sú năng suất nuôi công nghiệp 5.000kg/1ha ta cần 10 tấn thức ăn công nghiệp cao cấp giá 20.000đ/1kg thì giá thành 1kg sản phẩm Tôm là 40.000đ với giá bán Tôm thương phẩm hiện nay trung bình là:

60.000đ/kg – 40.000đ/lãi = 20.000đ, vậy hiệu quả kinh tế của hai loại nuôi:

– Cá Bống Tượng = 250.000đ – 48.000đ = 202.000 x 20.000kg = 40.400.000.000đ/1ha.

– Tôm sú = 60.000đ – 40.000đ = 20.000 x5.000kg = 1.000.000.000đ/1ha.

KỸ THUẬT NUÔI VÀ QUẢN LÝ SỨC KHOẺ

Tác giả: NHỮNG BÍ ẨN NUÔI CÁ BỐNG TƯỢNG THÀNH CÔNG

QUY TRÌNH CÔNG NGHỆ SẢN XUẤT CÁ BỐNG TƯỢNG

Quy trình công nghệ:

Công tác chuẩn bị: Ao hồ bể ương, dụng cụ thiết bị, cá bố, cá mẹ, thức ăn, thuốc thú y

CHỌN CÁ BỐ MẸ:

Dung dịch Formol –> Xử lý cá (vệ sinh)

Tạo mưa nhân tạo –> Kích thích hưng phấn 

Tiêm kích thích tố –> Cho cá đẻ

Thu hoạch trứng –> Đưa vào bể ấp

  1. ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC BỐNG TƯỢNG: 

PHÂN LOAI:

BỘ : PRECIFORMES

HỌ : OXYLEOTRIDAE

GIỐNG : OXYLEOTRIS

LOÀI : OMARMORATUS BLEEKER

Cá giống ở nước ngọt hoặc nước lợ 15 phần ngàn nếu được thuần hoá từ từ. Cá có tập tính sống tầng đáy, ban ngày ít hoạt động và thường vùi mình dưới bùn ban đêm hoạt động bắt mồi tích cực, cá ưa ẩn náu nơi cây cỏ ven bờ, hang hóc và rình bắt mồi. Khi gặp nguy hiểm cá có thể vùi mình vào sâu trong bùn 01m và sống được nhiều giờ. Đặc biệt cá có thể sống nhiều ngày không ăn không hoạt động trong điều kiện nước được giữ trong nơi chật hẹp (lu, chậu, bể nhỏ) hoặc nơi không có nước ngập thấm nó. Khi lượng oxy hoà tan thấp cá có hiện tượng phùng mang nổi đầu trên mặt nước.

  1. THỨC ĂN BỐNG TƯỢNG:

Cá có tập tính ăn động vật chủ yếu. Từ ngày thứ 4 sau nở cá đã hết noãn hoàn và bắt đầu ăn động vật phù du. Kích thước nhỏ (Trùng Rotifer) và các hạt mịn như bột, trứng, sữa, đậu nành?.Đến ngày thứ 10 chúng ăn được giáp xác thấp như : Monia, Dapnia, Ấu trùng Artemia. Từ ngày 20 trở đi chúng ăn được trùng chỉ. Sau một tháng chúng bắt đầu có tính ăn của loài ăn: Tép, cá con vừa miệng. Cá Bống Tượng là loài cá dữ ăn thịt nhưng không rượt đuổi con mồi, mà chỉ nằm bất động rình sẵn bắt con mồi, người ta ví cá Bống Tượng bắt mồi như loài mèo dưới nước. Còn cá lóc (Channastriata) bắt mồi như loài chó dưới nước (rượt đuổi con mồi).

Nuôi trong ao, trong lồng cá ăn thêm các loài thức ăn khác như: các loại hạt và thức ăn chế biến?

  1. SINH TRƯỞNG BỐNG TƯỢNG:

So với nhiều loài cá khác, Bống Tượng có độ tăng trọng chậm từ cá bột đến cá hương, (1.5-2cm) mất 01 tháng, đến cá giống (8-10cm) phải mất 03 tháng nữa. Muốn đạt cỡ 100g phải nuôi thêm 03 – 04 tháng. Trong tự nhiên cá có trọng lượng 100-200g là đã có 01 năm tuổi. Để đạt cỡ cá thương phẩm 400g /1con trở lên phải nuôi từ 10-12 tháng trong ao hoặc bè (xem bảng chi tiết).

  1. SINH SẢN CÁ BỐNG TƯỢNG:

Trong tự nhiên cá thành thục sau 01 năm mùa vụ đẻ bắt đầu từ 04 tháng kéo dài đến tháng 10 nuôi vỗ cho đẻ nhân tạo cá có thể thành thục sớm hơn, nếu nuôi tốt cá đẻ quanh năm. Cá đẻ tập trung vào tháng 4, 5, 6, 7, 8 và giảm dần vào các tháng cuối năm. Cá đẻ nhiều lần trong năm (trung bình 5-6 lần). Sức sinh sản rất cao từ 10 – 30 nghìn cá thể trứng 100g/thể trọng. Cá có tập tính bắt cặp khi sinh sản, cá đẻ trứng dính thành ô tròn trên giá thể hoặc các gốc cây, hang hốc ven bờ.

QUY TRÌNH KỸ THUẬT 

I. AO NUÔI: Diện tích 1.000m2

Ao được thiết kế hình vuông, chữ nhật. Tốt nhất nên chọn ao hình Ovan, sâu từ 1.2-1.5m có cống cấp và thoát nước chủ động, bờ ao cao 60cm, chắc chắn, không rò rỉ. Ao được cải tạo: đáy ao được đào nghiêng về phía cống thoát (Nếu sử dụng ao cũ, nên nạo vét chỉ dữ lại lớp bùn từ 20-30cm) rải vôi cải tạo 10-15kg/100m2 phơi đáy ao vài ngày trước khi thả cá. Lấy nườc từ ao lắng đã qua xử lý.

CHẤT LƯỢNG NƯỚC SỬ DỤNG CHO NUÔI CÁ BỐNG TƯỢNG

CÁC YẾU TỐ

MỨC ĐỘ

Nhiệt độ

26-32 C

PH

7.0-8.5

Oxy hoà tan

>3mg/1lít

NH3 (Amoniac)

< 0.02 mg/lít

Nitrite

< 0.1 mg/lít

H2 S

< 0.02 mg/lít

Dầu thô

< 0.05 mg/lít

Độ cứng (CaCO3)

100 – 200 mg/lít

Carbonic (Carbon dioxide)

15 – 30 mg/lít

Độ mặn

<15 phần ngàn

II.CÁ GIỐNG:

Sử dụng con giống sinh sản nhân tạo (kích cở 3-4cm) cá khỏe, đồng đều, có màu sắc sáng, không có mầm bệnh. Mật độ thả 10-15 con/m2. Chia ra hai giai đoạn chăm sóc (xem thực hiện).

III.THỨC ĂN:

Thức ăn nuôi Bống Tượng chủ yếu là động vật tươi sống. Nhưng nhờ ứng dụng và đưa các hệ thống kích thích (máy quạt, dung dịch dẫn dụ?) cá nuôi vẫn ăn các thức ăn chế biến. Điều quan trọng là thức ăn phải đủ chất lượng để cá sinh trưởng tốt.

CÔNG THỨC I

Phân chuồng -> Thực vật phù du -> cá mè trắng -> sản phẩm Bống Tượng 

(Phân vi sinh hữu cơ).

CÔNG THỨC II

Cá các loại

Thức ăn Công nghiệp: –> Cá xay -> Bống Tượng

Ốc bươu vàng

CÔNG THỨC III

Cám tổng hợp cao cấp + Dung dịch dẫn dụ = Bống Tượng

Chọn thức ăn lý tưởng để nuôi cá Bống Tượng có ưu điểm như: sẵn có, rẻ tiền, có chất lượng dinh dưỡng, hấp dẫn cá ăn mồi, là đã có tính toán và cũng là tiền đề cho sự thành công.

Chúng tôi đã nuôi thử nghiệm và đã có thông số kỹ thuật. Nhận thấy hai công thức trên là hiệu quả nhất. Đưa nguyên liệu là cá mè trắng làm thức ăn chủ yếu để nuôi Bống Tượng.

Để tạo ra sinh khối cá mè trắng ta chỉ cần tốn thêm diện tích mặt nước (ao xử lý, ao chứa) còn thức ăn chuyển đổi thành cá mè thì không tốn kém (phân chuồng, phân vi sinh). Mặt khác cá mè là loài cá không có sự cạnh tranh, thức ăn môi trường, không có cảnh cá lớn hiếp cá bé (ông bà ta đã rút ra kinh nghiệm về cá mè trắng và có câu ca dao ?cá mè một lứa?). Do vậy để dự trữ thức ăn tươi sống cho cá Bống Tượng, ta chỉ cần theo dõi trữ lượng ao nuôi cá mè, mà có cách, đánh tỉa, thả bu,? hàng tháng, hàng tuần. Có kế hoạch thả bổ sung giống cá mè để cung cấp nguyên liệu cho cá Bống Tượng (được biết giống cá mè thả bổ sung có kích cỡ nhỏ hơn cá đang nuôi, song cá bổ sung vẫn tăng trọng bình thường) đó là đặc tính của loài cá mè: vừa bơi, vừa thở vừa lấy thức ăn.

IV. THỰC HIỆN CHĂM SÓC:

Sau khi đã chuẩn bị xong ao hồ, lấy nước vào ao đến mức quy định (1,2-1,5m) tiến hành thả cá, cá giống được thả vào sáng sớm hoặc chiều mát. Đêm đến từ 22h cho vận hành máy quạt đến rạng 7h hôm sau, để cung cấp oxy và kích thích cá ăn mồi.

Mặc dầu cá Bống Tượng là loài cá có cơ quan hô hấp phụ, chịu đựng được nơi có lượng oxy hoà tan thấp. Nhưng ao nuôi có sử dụng hệ thống quạt, ngoài việc cấp oxy còn tạo ra dòng nước chảy nhẹ cho ao cá. Một điều thật là lý thú! Khi ta quan sát đàn cá nuôi trong ao, khi có dòng chảy nhẹ từ máy quạt, tất cả cá nuôi đều hướng vào dòng chảy, con thì bắt mồi, con thì xoè cả kì vi tỏ ra hưng phấn, con thì phóng mình bơi ngang, bơi dọc tỏ ra rất thích thú.

Chúng tôi theo dõi và so sánh hai ao nuôi có cùng mật độ, một diện tích như nhau, sau bốn tháng nuôi, ao trang bị máy quạt có đàn cá tăng trọng gấp hai lần ao không có máy quạt? Tại sao lại xảy ra bí ẩn về tăng trọng giữa hai đàn cá. Được biết, cá Bống Tượng là loài cá sống và bắt mồi, lấy thức ăn ở tầng đáy (xem đặc điểm). Vì vậy điều kiện đáy ao có ảnh hưởng rất lớn đến loài cá này tăng trọng. Để nói thêm tác dụng của máy quạt oxy, đối với nền đáy ao nuôi cá Bống Tượng như đã nêu trên phần đặc điểm, tập tính tự nhiên của loài cá Bống Tượng là ít khi bơi lội, năng động như các loài cá khác. Nhưng chúng hầu như lúc nào cũng nằm bất động dưới đáy ao rình bắt mồi, lấy thức ăn.

Để cá nhanh lớn trong quá trình nuôi Bống, không còn cách nào khác hơn là tạo điều khiện tối ưu cho cá, nên ứng dụng công nghệ nuôi tuần hoàn. Sử dụng máy quạt oxy để duy trì nền đáy ao tốt, không chỉ là làm cho chất thải gom lại ở giữa ao trong suốt vụ nuôi, hoặc có điều kiện thì hút chất thải gom lại ở giữa ao theo định kỳ.

Bằng ngược lại ta nuôi bình thường, không có biện pháp vệ sinh, lâu ngày đáy ao có những vùng tích tụ chất cặn bã (thức ăn thừa, phân các loài vật?) sẽ gây bất lợi cho cá vì nhiều lý do:

Sự tích lũy chất lắng tụ này sẽ làm tiêu hao oxy, chúng lại còn sinh ra nhiều NH3 và H2S. Nếu ao nuôi không còn chỗ nào sạch. Buộc lòng cá phải sống và bắt mồi ở vùng bị tích tụ chất thải. Như vậy chúng phải chịu sự tổn thương cục bộ, và nguy cơ xâm nhập của nhiều tác nhân gây bệnh, đồng thời làm cá mất đi hứng thú bắt mồi, trong khi cá đang đói ăn, thậm chí không ăn, gầy còm đi? ảnh hưởng tăng trọng và mất đi đề kháng, cá dễ nhiễm bệnh cũng do nguyên nhân ao quá ô nhiễm gây nên!

Một khi môi trường nước ao và đáy ao nuôi được cải thiện, cá nuôi có thể tự hình thành hệ thống miễn dịch tự nhiên và tăng trưởng tích cực (có sự so sánh nhiều lần trong thực tiễn).

Với quy trình nuôi cá Bống Tượng ứng dụng công nghệ cao với cá giống sản xuất nhân tạo khâu chăm sóc được chia ra làm hai giai đoạn như sau:

GIAI ĐOẠN I:

Cá giống thả mật độ hợp lý, kích cỡ từ 3-4 cm, thời gian đầu thức ăn sử dụng cho cá là trùng chỉ, cá, ốc xay. Thức ăn bỏ vào sàn ăn, nếu ao diện tích 1000 m2 cần 6-8 sàn ăn. Lượng thức ăn được ăn hàng ngày từ 10 -12% trọng lượng cá. Nên thay từ 20-25% lượng nước trong ao/ngày. Kiểm tra thức ăn thừa, thiếu, loại bỏ thức ăn dư thừa, chùi giữa sàn ăn, nên ta dễ dàng kiểm tra và cân đong.

Trong quá trình nuôi như ta đã nêu trên, ta nên duy trì nguồn nước ao luôn sạch, thức ăn nên nấu chín, hoặc rửa sạch bằng dung dịch muối ăn tự nhiên cho cá nuôi (nuôi ghép các loại như :cá KILLY, tép rong ,lòng tong,cá trâm?). Khi chế biến thức ăn nên lưu ý thức ăn sao cho vừa miệng cá, khi cá tăng trọng không xay hay băm nhỏ thức ăn khi cá đã lớn và ngược lại. Sau 3-4 tháng nuôi cá đã đạt trọng lượng từ 40-70g/ con (dài từ 10-12).

Giai đoạn nay:nếu ao nuôi co nuôi ghépcá mồi,nhất là loại mang đẻ như:trân châu,bình tích-vì loài cá nay đẻ con,nên cung cấp thức ăn trực tiếp cho cá con bống tưọng rất tốt,tang trọng nhanh

GIAI ĐOẠN II:

Khi cá đạt được kích cỡ từ 10-12 cm cá rất phàm ăn và nhanh lớn, lúc này ta tiến hành để thu hoạch để phân đàn cá trong ao. Nên để cá mới thu hoạch ?khỏe lại? (ít nhất là 6 giờ). Sau đó lọc, phân cỡ, tắm xử lý, để thả nuôi tiếp (xem mục xử lý con giống).

Thức ăn giai đoạn II của cá Bống Tượng vẫn là cá tép, ốc còn tươi sống, được chế biến hoặc xay nhuyễn (lưu ý kích cỡ vừa miệng cá). Khẩu phần ăn hàng ngày 7-10% tổng hợp trọng lượng đàn cá. Cho ăn ngày 2 lần sáng ? lượng thức ăn trong ngày. Chiều ăn hết phần còn lại. Thức ăn hàng ngày được trộn thêm Premix 1-2% và chất dẫn dụ, để cá bắt mồi tích cực.

Hằng ngày cho cá ăn đầy đủ lượng chất theo dõi mức ăn của cá để điều chỉnh cho phù hợp. Định kỳ vệ sinh đàn cá và môi trường (như giai đoạn I). Hằng ngày thường xuyên theo dõi hoạt động của cá. Khi cá có biểu hiện bất thường thì nên xem xét cẩn thận lại toàn bộ quá trình chăm sóc quản lý, kiểm tra bằng cách bắt vài con (5 đến 10 con) để quan sát và kiểm tra lại toàn bộ các khâu xác định lại chính xác các nguyên nhân và biện pháp xử lý đúng và kịp thời. Một trong những biểu hiện bất thường của cá.

– Nổi đầu một vài con ở ao nuôi.

– Cá ăn mồi chậm và thức ăn của cá giảm 30% lượng thức ăn trong điều kiện bình thường.

– Cá bỏ ăn (ăn rất ít) đột ngột.

– Trong ao có hiện tượng cá chết dù chỉ một vài con. Thông thường cá mới nhiễm bệnh thì có một trong nhiều biểu hiện như trên. Nên xử lý ngay thời điểm này, vì hiện nay bệnh trên cá Bống Tượng rất đa dạng và phức tạp. Mặt khác rất khó xử lý trong trường hợp cá chết nhiều, trong trường hợp này nếu có xử lý thì hiệu quả không cao và tốn kém nhiều. Vì cá mất khả năng đề kháng (Hội chứng bệnh) (Xem trang phòng trị). 

V. HIỆU QUẢ NUÔI BỐNG TƯỢNG:

Tính hạch toán kinh tế cho ao nuôi 1.000m2.

Sản lượng cá thu hoạch 2.000kg Bống Tượng thương phẩm.

Để tăng trọng 1kg Bống Tượng. Qua nuôi thử nghiệm hoặc nuôi đại trà tiêu tốn thức ăn như:

– Cá tạp đủ loại tươi sống 6 – 8 =1kg.

– Ốc Bươu Vàng, cá tạp 10 -12 =1kg

Cùng thức ăn và môi trường nước tốt thì cá có hệ số chuyển đổi thức ăn theo tỷ lệ thuận. Nếu chúng ta ứng dụng đúng quy trình kỹ thuật phòng trị bệnh nghiêm ngặt thì chi phí giá thành nuôi kg Bống Tượng không vựơt quá 20.000đ/kg so với công thức cá Mè Trắng. Công thức II từ cám tổng hợp nuôi cá tạp và lấy cá tạp nuôi Bống Tượng thì giá thành sẽ thấp gấp đôi (40.000đ/kg). Tùy điều kiện và nơi sản xuất mà áp dụng. Nói cách khác nếu cung cấp đầy đủ thức ăn cho cá trong ao, mà cá tiêu thụ được (Kích thích cá ăn) thì cá nhanh lớn, đồng thời cũng là thức ăn đủ dinh dưỡng, đủ số lượng mới giúp cá tăng trưởng và tăng khả năng đề kháng với bệnh tật (Xem chi tiết bảng đầu tư thức ăn các loại) như đã nêu trên. Cá Bống Tượng đã thể hiện toàn bộ hoạt động dời sống của chúng, để ta có cơ sở mà đáp ứng.

Đó cũng là những bí ẩn đem lại thành công trong nuôi cá Bống Tượng. Với tiêu chí: Người nuôi cá Bống Tượng phải có đức tính cần cù, có sức khỏe tốt, chăm chỉ học hỏi kinh nghiệm, yêu nghề không ngại gian khó có quyết tâm cao, nghiêm túc thực hiện quy trình nuôi thâm canh với mô hình tuần hoàn thì sẽ đem lại kết quả mong muốn.

QUY TRÌNH KỸ THUẬT NUÔI THÂM CANH CÁ BỐNG TƯỢNG THƯƠNG PHẨM.

(ỨNG DỤNG MÔ HÌNH TUẦN HOÀN HOÀN TOÀN) 

KẾ HOẠCH SẢN XUẤTtrên DT tai Nông trường Song Hậu: 13.230 M2 (D1-D2)

THIẾT KẾ SỬ DỤNG:

  • Ao nuôi cá 50% = 6.341 m2(D1)
  • Ao lắng nước thải 10% = 1.500m2 (D2)
  • Ao xử lý nguồn nước cấp 10% = 1.500m2(D2)
  • Ao chứa 30% = 4.000m2(D2)

Sơ đồ ao nuôi tuần hoàn:

Thiết kế vị trí:

Yêu cầu khác:

– Cống đầu nguồn và hệ thống dẫn nước sang ao lắng (1).

– Ao xử lý có cống thông từ ao lắng dẫn sang (2)

– Ao chứa có cống thông từ ao sử lý dẫn sang (3)

Ao nuôi được trang bị hệ thống dẫn nước đến ao lắng (khi thay nước ta vận hành máy bơm đưa nước từ ao chứa sang ao nuôi, lượng nước thay thế nước cũ mỗi ngày = 20%. Nước cũ ao nuôi sẽ tự chảy về ao lắng và tiếp tục tuần hoàn.

Nhà cửa văn phòng

Thông số kỹ thuật: Phân vi sinh B10 LANT. Làm phân xúc tác ủ phân chuồng để làm nguyên liệu thức ăn cá Mè trắng.

YÊU CẦU KỸ THUẬT:

  • Hệ thống bơm nước cần có máy lớn để cung cấp nước cho ao chứa không quá 6 giờ trong vòng một con thủy chiều và bơm lấy nước ở tầng giữa, qua lưới lọc.
  • Ao chứa nước thì rất hữu ích để điều kiện môi trường ao nuôi nhất là ở nơi có nguồn nước không ổn định. Ngoài tác dụng trữ nước, ao chứa nước còn có chức năng như một hệ thống lọc sinh học. Ao chứa cần xây dựng có cao trình phù hợp trong điều kiện bình thường cũng có thể cấp nước tới các ao nuôi bằng cách tự chảy (không phải bơm) thì rất tốt.

– Ao chứa khi đưa vào sử dụng cấp nước đầy vào ao, sau đó xử lý. Chức năng của ao gồm lắng: Nước được lắng để loại các chất vẩn và để các chất hữu cơ phân hủy thời gian ngắn nhất là 3 ngày (Phụ thuộc vào chất lượng nước và các chất vẩn) sau khi lắng, tiến hành bón bột tẩy (Clorine) để diệt cá tạp và động vật không xương sống khác (Dịch hại)

(Xem sử dụng thuốc xử lý): 1. FRESHDREAM; 2.DEOYUCCA

GIẢI TRÌNH: Mục tiêu chính của việc thiết kế ao tốt (Hình dạng) là cho phép quản lý chất thải một cách hiệu quả. Chất thải được gom tụ lại ở giữa ao nhờ sự tác động của máy quạt Oxy. Máy quạt có chức năng chính là cung cấp Oxy cho cá và các sinh vật trong ao, đồng thời còn xáo trộn các phiêu sinh vật ở đáy ao tiếp cận ánh sáng mặt trời, khuyếch tán Oxy vào nước và loại bỏ khí độc (NH3 vàH?2S ) từ khu vực đáy ao ra ngoài. Đồng thời kích thích cá nuôi bắt mồi tích cực, không bị áp lực môi trường xấu.

Với mô hình tuần hoàn tạo sự an toàn tối đa cho ao nuôi và để quản lý duy trì nguồn nước tốt cho ao nuôi, đồng thời sử dụng mô hình kết hợp (Nuôi cá làm thức ăn nguyên liệu). Hạn chế tối đa sự tiếp xúc với nguồn nước có chất lượng kém ở bên ngoài, có thể hạn chế được ảnh hưởng của môi trường xung quanh, chủ động và khắc phục sự xấu đi của các điều kiện môi trường để sản xuất ổn định.

  • SƠ ĐỒ VẬN HÀNH AO NUÔI CÁ: Vận hành liên hoàn (Xem mục vận hành chăm sóc ao cá).

B/ VẬT TƯ SỬ DỤNG CHO HA – DT AO NUÔI TUẦN HOÀN.

  • Máy dầu D12 công suất 300m3/h 4 cái
  • Máy quạt Oxy 2HP Đài Loan 3 cái
  • Ống nhựa phi 5 cm 110 m
  • Xi măng xây dựng 20 bao
  • Sắt xây dựng 100kg
  • Tấm nhựa tổng hợp PE 400kg
  • Lao động xây dựng ao 8.000m3
  • Vốn cố định tùy DT và nhu cầu sử dụng mà trang bị máy móc. 
Stt Hạng mục Đơn vị Số lượng Đơn giá Thành tiền
  Máy dầu Cái 04 8.000.000 32.000.000
  Máy quạt Oxy Cái 03 6.450.000 19.350.000
  Ống nhựa M 110 30.000 3.000.000
  Xi măng Bao 20 50.000 1.000.000
  Sắt Kg 100 18.000 1.850.000
  Tấm nhựa M2 400 7.000 2.800.000
  Khối lượng xây dựng M3 8.000 7.000 56.000.000

Cộng: 116.000.000 đ

Vốn lưu động:

Giống: 60.000 con x800 = 48.000.000đ

Thức ăn: 36 tấn x 8.000 = 288.000.000đ

Công lao động: 700.000 x4 x16 = 4.480.000đ

Kỹ thuật: = 10.000.000đ

KHTSCĐ: = 13.000.000đ

Lãi ngân hàng: = 50.000.000đ

Điện, nguyên liệu: = 23.000.000đ

Bảo trì: = 13.620.000đ

Chi khác : = 10.000.000đ

Người lập dự án: HỒ VĂN THẮNG – Trung Tâm giống Thủy đặc sản Phước Long, TP. Hồ Chí Minh, 10/2005

Một số đặc điểm của cá bống tượng (CBT) (Oxyeleotris marmoratus Bleeker)

  • CBT là loài đặc trưng của vùng nhiệt đới. Cá tự nhiên bắt gặp ở: Việt Nam, Thái Lan, Malaysia, Brunei, Lào, Sumatra, Campuchia. CBT là loại thủy đặc sản có giá trị kinh tế cao, được nhiều nước nuôi cung cho yêu cầu. Ở miền Nam Việt Nam cá xuất hiện ở hệ thống sông Cửu Long, Đồng Nai, Vàm Cỏ.
  • Trong tự nhiên, cá phân bố khắp các loại thủy vực: sông rạch, mương ao, ruộng, … Cá sống thích hợp ở môi trường nước không bị nhiễm phèn, pH = 7, song chúng có thể chịu đựng pH=5.
  • Nhiệt độ thích hợp nhất cho cá phát triển 26-32 độ C, cá cũng có thể chịu đựng nhiệt độ nước 15-41,5 độ C.
  • Cá sống ở nước ngọt, song có thể chịu đựng đến độ muối 15‰.
  • Cá cần có dưỡng khí trên 3mg/l, song cá có thể chịu đựng ở môi trường dưỡng khí thấp vì cá có cơ quan hô hấp phụ.
  • CBT có tập tính sống ở đáy, ban ngày thường vùi mìnhxuống bùn, hang hốc, bộng, khi gặp nguy hiểm cá có thể chúi xuống bùn sâu đến 1m, có thể sống ở đó hàng chục giờ. Môi trường nước yên tĩnh, có cỏ cây thủy sinh làm giá đỡ, cá có thể sống ở mé bờ gần mặt nước, cá ăn mồi sống tự nhiên. CBT thường hoạt động vào đêm, nơi có điều kiện thuận lợi cá hoạt động cả ban ngày.
  • CBT trưởng thành có bộ máy tiêu hóa biểu hiện cho loài cá dữ điển hình. Miệng lớn răng hàm dài và sắc, tỷ lệ của chiều dài của ruột trên chiều dài thân 0,7. CBT ăn động vật, chủ yếu là : cá, tôm, tép, cua, trùn, ấu trùn, côn trùng, thủy sinh… Tuy nhiên CBT khác với cá lóc, cá lóc chủ động đuổi mồi bắt, CBT rình bắt mồi. CBT ăn mạnh về đêm hơn ngày, nước rong ăn mạnh hơn nước kém, nước lớn ăn mạnh hơn nước ròng, CBT thích ăn tép, cá tươi, không thích ăn vật ươn thối.
  • CBT sinh sản lần đầu sau 9-12 tháng tuổi. Mùa sinh sản tự nhiên kéo dài từ tháng 3-11, tập trung từ tháng 5-8. Mức sinh sản của CBT 150.000-200.000 trứng/kg cá cái. Cỡ cá 150g có số trứng nhiều nhất 270.000, cỡcá 250g có 58.700, cỡ cá 350g có 76.000 trứng. Cá tái phát dục khoảng 30 ngày sau. Trứng cá có dạng hình quả lê, trứng dính. Bãi đẻ của cá nằm ở ven bờ và sâu trong nước nơi có cây cỏ thủy sinh hay các gốc thân cây chìm trong nước.
  • Trong điều kiện nhiệt độ 26-30 độ C; trứng CBT sau khi đẻ 25-26 giờ thỉ nở, lúc này có chiều dài 2,5-3mm.
  • Sau khi nở một ngày, chiều dài cá đạt 3,8mm, cá chuyển động thẳng đứng và từ từ buông mình chìm xuống đáy.
  • Cá nở sau 2 ngày, chiều dài 3,8-4mm, mắt có sắc tố đen. Xuất hiện vi ngực, cá vận động thẳng đứng.
  • Cá 3 ngày dài 4-4,2mm, túi noãn hoàng tiêu biến.
  • Cá 12 ngày đã xuất hiện đầy đủ vây.
  • Cá 18 ngày tuổi hình thành vảy và có hình dáng của cá trưởng thành.
  • Cá 30 ngày tuổi dài khoảng 13mm.
  • Cá 45 ngày tuổi dài khoảng 21 mm.
  • Cá 60 ngày tuổi dài khoảng 30mm.
  • Cá 75 ngày tuổi dài khoảng 41mm.
  • Cá 90 ngày tuổi dài khoảng 53mm.

So với các loài cá khác, CBT có tốc độ tăng trưởng chậm từ ở giai đoạn cá dưới 100g, cá từ 100g trở lên tăng trưởng khá hơn.

Ở giai đoạn từ cá bột đến cá hương, cá phải mất thời gian 2-3 tháng mới đạt chiều dài 3-4cm. Từ cá hương cần phải nuôi 4-5 tháng cá đạt kích cỡ giống cá 100g/con. Để có cỡ 100g từ lúc đẻ phải mất thời gian nuôi 7-9 tháng. Trong tự nhiên, những cá còn sống sót sau khi nở phải cần khoảng 1 năm để có thể đạt cỡ từ 100-300g/con. Để có cá thương phẩm 400g trở lên, cá giống có trọng lượng 100g, phải nuôi ở ao từ 5-8 tháng, ở bè 5-6 tháng.

Kỹ thuật nuôi thủy đặc sản nước ngọt – Dương Tấn Lộc – NXB TPHCM

Kinh nghiệm chọn cá bống tượng giống

Cá bống tượng là loài lớn nhất trong họ cá bống. Cá sốngnhiều ở các nước có khí hậu nhiệt đới nóng ẩm. Ở nước ta cá sinh trưởng và phát triển tốt, đặc biệt là khu vực đồng bằng sông Cửu Long, quanh năm khí hậu nắng nóng và mưa nhiều rất thích hợp với cá bống tượng.

Trước đây người nuôi cá bống tượng thường mua cá giống ở chợ, nguồn cá này được bắt bằng hình thức cào hoặc đặt lợp, vì thế chất lượng không được đảm bảo và số lượng cũng ít, người nuôi cá bống tượng ít khi chọn được nguồn cá giống như ong muốn. Hiện nay, ngành thủy sản đã sản xuất được cá bống tượng giống bằng phương pháp nhân tạo. Xin giới thiệu cách chọn cá bống tượng giống, nhằm giúp bà con nông dân trong nghề nuôi cá bống tương trong ao hoặc trong lồng bè.

Kinh nghiệm chọn đúng giống

Nếu trông bên ngoài, cá bống tương giống với loài cá bống khác, nhất là trong thời kỳ còn nhỏ. Nhưng chúng có đặc điểm không thể lầm lẫn được trong họ nhà bống là dưới đuôi có hình chữ V màu đen.

Kinh nghiệm nhìn bề ngoài

Cần chọn những con cá có kích cỡ đều nhau. Nếu trong đàn cá có kích cỡ khác nhau, chứng tỏ không phải chúng cùng sinh ra một nguồn hoặc chế độ dinh dưỡng không đều. Nếu thả những con cá có kích thước khác nhau thì rất khó cho vấn đề chăm sóc và rất bất lợi cho cạnh tranh thức ăn trong đàn. Trọng lượng trung bình trong đàn cá từ 50-100g/con là thích hợp nhất (không nên quá 5% số lượng cá lớn hơn hoặc nhỏ hơn trọng lượng trung bình đó). Cá giống khi lật ngửa ra thấy vảy bụng và lưng phải đều, các tia vi còn nguyên, cá nhiều nhớt, màu lưng của cá hơi xám, da bóng, mang phùng ra thật to và các tia vi xòe ra hết cỡ, đó là con giống tốt.

Kinh nghiệm theo dõi lúc bơi

Nếu thả cá vào chậu nước sạch, chúng bơi rất nhanh, theo dõi các tia vi hoạt động đều, đó là cá giống khỏe. Cần chú ý những con cá khi bơi lờ đờ, thỉnh thoảng chúng ngưng hoạt động tia vây hoặc nằm ngửa, có thể là cá bị cào điện hoặc bị bệnh, cần phải loại bỏ vì khi thả chúng xuống ao chúng cũng sẽ chết và lây bệnh cho cả đàn. Ngoài ra cũng cần chú ý nhưng con cá khi thả vào chậu, chúng nhào lộn dữ dội, đây có thể là những con cá bị sán lá ký sinh.

Kinh nghiệm theo dõi những vết bệnh

Có thể lấy ngẫu nhiên 100 con trong đàn, rồi thả vào keo thủy tinh chứa nước sạch. Nhìn thật kỹ xem có nhiều con bụng dưới bị sưng đỏ không, có thể là chúng đang bị nhiễm bệnh ghẻ do vi khuẩn Aeromonasssp. Hoặc là do trùng mỏ neo (Lemea) hoặc dưới đuôi có thấy một chùm trắng giống bông gòn, có thể là do nấm thủy mi tấn công. Trùng mỏ neo hoặc nấm thủy mi có thể nhìn thấy bằng mắt thường. Trung bình trong đàn không được quá 2% số con bệnh thì mới có thể chấp nhận được.

Trên đây là những yếu tố cần thiết cho cách chọn cá bống tượng giống. Cách chọn này có thể áp dụng khi phải mua giống trôi nổi cũng như nguồn cá giống trong trại. Nhưng cũng cần nhớ là uy tín nơi bán cá giống quan trọng. Bà con nông dân nên chọn những cơ sở bán cá giống có uy tín từ trước tới nay để mua cá giống.

KS. Phương Thanh (Trại cá giống Trà Nóc – TP. Cần Thơ) – KHPT, 9/04/2004 

Cách chọn cá bống tượng 

Khi nuôi cá bống tượng, trước hết phải chọn con giống có kích cỡ đều nhau. Nếu không, thời gian nuôi thả giống buộc phải kéo dài, và như vậy sẽ ảnh hưởng đến kết quả thu hoạch cá.

Khi chọn giống cá nên chọn cá có trọng lượng từ 100-120g/con. Nên chọn con giống có đuôi xoè rộng, nhiều nhớt và nhất là không bị trầy xước, bệnh tật. Nếu phát hiện cá có những biểu hiện trên thì loại bỏ ngay. Có thể tắm cho cá bằng nước muối pha với tỉ lệ 2% trong khoảng 4-6 phút. Chỉ nên thả cá trong lồng với mật độ 80-100 con/m2.

Trong thời kỳ đầu, nên cho cá ăn các loại cá nhỏ như cá linh, cá cơm, cá lòng tong cắt nhỏ. Hoặc dùng tép, giun làm thức ăn. Lượng thức ăn hàng ngày nên giữ ở mức 3-5% trọng lượng cá nuôi trong lồng. Thời điểm tốt nhất để cho cá ăn là lúc 6-7 giờ tối. Mỗi ngày chỉ cho ăn một lần.

Hàng tuần, nên cho cá ăn thêm các loại vitamin C, Tetracycline, Premix bằng cách tán nhỏ, trộn vào thức ăn để tăng sức đề kháng và phòng bệnh cho cá nuôi.

Với cá giống cỡ nhỏ từ 50-70g/con, thu hoạch trong thời gian từ 8-10 tháng nuôi. Còn đối với giống cá lớn, từ 100-150g/con có thể thu hoạch sau 7 tháng nuôi.

Đặc biệt cá bống tượng rất nhạy cảm với thời tiết. Những khi thời tiết xấu, mặc dù đến giờ ăn nhưng cá nổi lên rất ít. Ngược lại, khi thời tiết tốt, đến giờ ăn cá nổi lên rất đều.

NTNN 14/4/2004

Phòng trị bệnh cá bống tượng

Cá bống tượng nuôi trong ao hay trong lồng bè thường bị các loại bệnh phổ biến là đốm đỏ, trùng mỏ neo và bệnh tuột nhớt. Khi cá bị các bệnh này thì chữa trị như sau:

  1. Bệnh đốm đỏ: Nguyên nhân là do môi trường sống bị thay đổi, cá bị sây sát trong quá trình vận chuyển, đánh bắt, vi khuẩn xâm nhập và gây ra bệnh. Cá kém ăn, bơi chậm chạp, các phần dọc theo thân, đuôi, tia vi xuất hiện các đốm đỏ, vết loét.

Trị bệnh: Dùng thuốc Sulphamit 10-16 g trộn vào thức ăn cho 100 kg cá, ăn 2-3 lần. Cũng có thể tắm cho cá bằng nước muối nồng độ 4%o trong 10 phút có sục khí.

  1. Bệnh trùng mỏ neo: Trùng bám trên thân cá ở các gốc vây ngực, vây hậu môn; nếu nặng toàn thân trùng mỏ vào hút máu làm cho cơ thể cá tấy sưng.

Cách trị: Dùng lá xoan (sầu đông) bó thành từng bó để dưới đáy hoặc thùng bè, lều lồng với lượng 0,6 kg lá/kg cá. Cá sẽ chúi vào bó lá, nước lá xoan đắng sẽ làm cho trùng mỏ neo rời khỏi thân cá.

  1. Bệnh tuột nhớt: Khi cá bị bệnh này thường chỉ thay đổi môi trường. Thay nước trong ao, di chuyển lồng nuôi sang nơi khác. Cũng có thể cách ly cá bị bệnh cho khỏi lây lan.

Phòng ngừa các bệnh trên:

  • Khi chọn cá nuôi cần thận trọng, chỉ sử dụng những con khỏe mạnh và được rửa qua thuốc tím với nồng độ 20 g/m3 nước trong thời gian 15-30 phút để diệt nguồn gốc các mầm bệnh trước khi thả nuôi.
  • Trộn thức ăn với ít muối hoặc 5 g thuốc kháng sinh cho 1 kg thức ăn và cho cá ăn 10 ngày một lần.
  • Thường xuyên theo dõi cá, khi thấy cá có dấu hiệu của bệnh phải phân lập nuôi riêng và chữa trị.

Có thể dùng vôi bột, lá xoan để trong bao, treo ở cống cấp nước, chúng sẽ tan ra góp phần diệt một số nấm, khuẩn gây bệnh cho cá.

KS. Phương Thanh – Nông nghiệp VN, 12/03/2009

Một số bệnh phổ biến thường gặp ở cá bống tượng

  1. Bệnh ngoại ký sinh:
  • Nguyên nhân và triệu chứng: Bệnh do các sinh vật rất nhỏ bám vào mang, da của cá để hút máu hoặc chất dinh dưỡng gây nên những vết thương, xuất huyết. Khi bị bệnh màu sắc cá trở nên nhợt nhạt, cá thích tập trung ở nơi có đường nước chảy vào. Bệnh xuất hiện khi mật độ nuôi dầy, điều kiện vệ sinh kém, mưa kéo dài, thời tiết lạnh.
  • Phòng trị bệnh:
  • Phòng: thả nuôi mật độ vừa phải, tránh để ao bị ô nhiễm.
  • Trị: dùng formol tạt xuống ao với nồng độ 20-25ml/m3.

2/- Bệnh đốm đỏ

  • Nguyên nhân và triệu chứng: do vi trùng Pseudomonas punotata hay Aeromonas hydrophila. Thân và vùng bụng bị xuất huyết, vảy dựng lên, các gốc vây xuất huyết và ứ nước vàng. Bụng cá trương to, chứa dịch và đỏ bầm. Ở một số cá bệnh mắt, hậu môn lồi ra, một số vây cá bị rách xơ xác dần dần bị rụng, bên trong thịt ứ máu và mủ. Cá lội lờ đờ, chậm chạp, ít ăn hoặc bỏ ăn.
  • Cách phòng: không nuôi mật độ quá dày, cho ăn đầy đủ về số lượng và chất lượng, môi trường ao nuôi luôn giữ ổn định và sạch sẽ. Định kỳ 15 ngày tạt vôi bột CaCO3với lượng 1-2kg/100m3 (vôi hoà tan trong nước tạt đều khắp ao).
  • Trị bệnh: Sử dụng kháng sinh Neomycine 4g/100kg cá bệnh và Vitamine C 3g/100kg cá bệnh, thuốc được trộn vào thức ăn, cho ăn liên tục từ 5-7 ngày.

3/- Bệnh nấm thuỷ mi

  • Triệu chứng: khi nấm mới ký sinh, mắt thường khó nhìn thấy, phần cuối của sợi nấm đâm sâu vào thịt cá, phần đầu sợi nấm lơ lửng trong nước. Khi bệnh phát triển nhiều trên thân cá xuất hiện những đám bông màu trắng. Cá có cảm giác ngứa ngáy, thân cá gầy, đen sẫm. Nấm ngày càng phát triển, tạo điều kiện thuận lợi cho vi khuẩn xâm nhập làm bệnh nặng thêm.

– Phòng bệnh: tạo điều kiện sống thuận lợi cho cá, nhất là vào những lúc trời lạnh, giữ môi trường trong sạch, không để cá bị suy dinh dưỡng (thiếu ăn), không nuôi mật độ quá dầy hoặc làm cá bị xây xát.

  • Trị bệnh: Dùng thuốc tím (KMnO4) tạt xuống ao liều 3-5g/m3 nước, hoặc dùng dung dịch muối ăn 3% tắm cá trong 15 phút.

4/- Bệnh lở loét (Hội chứng lở loét)

  • Nguyên nhân: do nhiều nguyên nhân kết hợp như siêu vi (virus), vi khuẩn, nấm thuỷ mi, nấm nội Aphanomyces, giáp xác ký sinh, môi trường nước quá dơ bẩn, nhiệt độ thay đổi…
  • Triệu chứng: Cá ít ăn hoặc bỏ ăn, hoạt động lờ đờ, bơi nhô đầu lên mặt nước, da cá nhợt nhạt và xuất hiện các vết loét dần dần lan rộng có thể ăn sâu đến xương. Cơ quan nội tạng hầu như không bị thương tổn.
  • Phòng và trị bệnh:
  • Phòng bệnh: Luôn giữ môi trường sạch, định kỳ dùng vôi bột, các hoá chất xử lý đáy ao. Khi trong khu vực xảy ra dịch bệnh cần hạn chế thay nước hoặc nước phải được khử trùng trước khi đưa vào ao nuôi.
  • Trị bệnh: Dùng thuốc tím 3g/m3 kết hợp với muối ăn 0,3kg/m3 tạt xuống ao. Đồng thời trộn kháng sinh cho ăn liên tục từ 5-7 ngày với liều Oxytetracyline (hạn chế sử dụng) 2g/kg thức ăn, bổ sung vitamin C 3g/kg thức ăn.

5/- Bệnh mất nhớt

  • Nguyên nhân và triệu chứng bệnh: dễ xuất hiện khi cá bị xây xát, bị sốc do đánh bắt vận chuyển hoặc do môi trường thay đổi đột ngột. Khi bị bệnh khắp da cá có một lớp nhớt dày bao phủ. Cá tách đàn, bơi lội yếu ớt. Cá kém ăn hoặc bỏ ăn. Trên thân từng vùng bị trắng. Bệnh nặng xuất hiện các vết loét ăn sâu vào cơ là cơ hội để nấm và ngoại ký sinh phát triển. Bệnh nặng cá chết chìm xuống đáy ao.
  • Phòng bệnh: Tránh các yếu tố gây sốc cho cá, định kỳ hoặc trước những cơn mưa to tạt vôi bột CaCO3 với liều 1-2kg/100m3 vào ao nuôi.
  • Trị bệnh: dùng formol 25ml cho 1m3 nước, ngâm cá để diệt nấm và ngoại ký sinh, sau 24 giờ thay 1/2 nước rồi dùng lặp lại thuốc với liều trên một lần nữa. Phối hợp trộn kháng sinh Rifamycin vào thức ăn với liều 4viên/100kg cá bệnh, dùng liên tục từ 5-7 ngày.

KS. Nguyễn Thị Thy Nga – Khuyến ngư Kiên Giang, 3/5/2006

Bí quyết mới nuôi cá bống tượng – Cho ăn một lần cá “nhịn” ba tháng

Cá bống tượng được xem là đối tượng nuôi đạt hiệu qủa kinh tế cao, giá cả thương phẩm thường ở mức cao, loại 300-400g/con được các vựa thu mua giá trên 100.000 đồng/kg, loại từ 0,5kg/con trở lên giá 160.000-240.000 đồng/kg tùy theo thời giá. Loài cá này rất dễ nuôi, tùy điều kiện chăm sóc, sau 15 tháng nuôi cá đạt trọng lượng 0,5-0,8kg/con. Tuy nhiên vấn đề mà người dân còn ngại nhất là trong ba tháng đầu rất khó kiếm thức ăn cho cá, nay vấn đề này đã được “Vua” cá Tám Tiếu (Tiền Giang) giải quyết hiệu qủa bằng bí quyết thật đơn giản: Nuôi cá bạc đầu làm mồi.

Cá bạc đầu có rất nhiều trong tự nhiên, sống tập trung thành đàn, cá sinh sản rất nhanh và liên tục. Nếu nuôi trong ao có cho thức ăn như cám, cặn bã… sau hai tháng nuôi, 300 con giống ban đầu sinh sản đủ nuôi 1000 con cá bống tượng trong 2-3 tháng. Cá bạc đầu là thức ăn được cá bống tượng ưa thích, với mồi ăn này sau ba tháng nuôi cá đạt trọng lượng trên 100g/con.

Quy trình nuôi cá bạc đầu làm mồi cho cá bống tượng thực hiện như sau: Trước khi thả nuôi cá bống tượng, thả cá bạc đầu xuống ao trước. Ao 100m2 có thể thả khoảng 1kg cá bạc đầu làm giống (Nếu muốn rút ngắn thời gian nuôi cá bống tượng có thể thả cá bạc đầu với số lượng lớn cho mau sinh sản), khi cá sinh sản dày đặc bắt đầu thả cá bống tượng vào nuôi. Ban đầu cá bống tượng chỉ ăn được cá bạc đầu con, khi ăn được cá bạc đầu bố mẹ thì cá bống tượng đạt trọng lượng khoảng 100g, giai đoạn này cá bống tượng đã qua giai đoạn khó nuôi và khó tìm mồi.

Trước đây người nuôi cá bống tượng vất vả giai đoạn ba tháng đầu, phải tìm nguồn thức ăn là trùn chỉ, tép xay chi phí cao nhưng cá phát triển không đều. Như vậy từ nay người nuôi cá bống tượng có giải pháp mới tiết kiệm chi phí, cá phát triển ổn định trong ba tháng đầu, lại khỏi bỏ công tìm thức ăn (chỉ cho ăn một lần trong ba tháng!). Ông Tám Tiếu cho biết: “Khi phát hiện ra cá bạc đầu là nguồn thức ăn cá bống tượng ưa thích, dễ tìm, tui đã cho không và chỉ cách bà con nuôi thử rất kết qủa. Hiện giờ tui cũng chuẩn bị giống cá bạc đầu đề cung cấp cho bà con nuôi cá bống tượng có nhu cầu”.

Thanh Tâm – Báo KHPT, 28/5/2004

Các tin có liên quan