Nuôi cá lóc trong vèo, giai, mùng lưới
Chuẩn bị:
Mỗi vèo rộng khoảng 10 – 30m2, sâu 1,5-2,5m, được làm bằng lưới, hoặc cước 2 lớp, bên ngoài đóng cọc cừ, tràm. Đáy vèo cách đáy ao 50 cm.
Khi nuôi công nghiệp phải làm riêng vèo ương cá giống, vèo nuôi cá con, vèo nuôi cá thịt. Vèo nuôi cá thịt cần có mắt lưới to hơn để nước thông thoáng.
Chọn và thả giống:
Chọn giống khỏe mạnh, không xây xát, kích cỡ đồng nhất. Cá bơi thành đàn có màu đồng nhất.
Cá cái tăng trưởng nhanh hơn cá đực.
Mật độ thả giống: từ 100 – 300 con giống / m2 tùy kích cỡ cá. Khi cá lớn, san dần sang vèo khác, giảm mật độ.
Mật độ nuôi thương phẩm: 20-50 con/m2.
Chăm sóc:
Ngoài thức ăn tự nhiên trong nước, cần cho cá ăn thêm thức ăn tự chế (cá biển, cá tạp, ốc bươu vàng, tấm cám nấu nhừ): khi cá nhỏ thức ăn cần được xay nhuyễn, cá lớn thì thức ăn chỉ cần băm nhỏ vừa miệng cá. Bổ sung vitamin C và men vi sinh vào trong thức ăn để tăng sức đề kháng và khả năng tiêu hóa của cá.
Cá thịt cần lượng thức ăn mỗi ngày 3-8% trọng lượng cá tùy nguồn nước, chất lượng thức ăn, thời tiết.
Cho cá ăn ngày 2 lần: sáng từ 7-8 giờ, chiều từ 4-5 giờ. Có thể cho ăn trên sàn tre đan đặt xâm xấp mặt nước.
Theo kinh nghiệm, Việt Linh nhận thấy khi nuôi cá lóc bằng mồi sống, cần tẩy giun cho cá khi cá lớn; nước dễ bị ô nhiễm, nhiều tảo, cần định kỳ 7 – 10 ngày dùng thuốc diệt ký sinh trùng và men vi sinh để xử lý môi trường nước. Bên ngoài vèo lưới thả thêm các loại cá ăn tạp để tận dụng thức ăn thừa, làm sạch ao.
Khi nuôi công nghiệp và khi nguồn nước bị đục hoặc nhiễm bẩn, cá nhảy hoặc chui rúc vào góc vèo thì cần thay 1 phần nước ao, cấp thêm nước mới vào ao. Treo túi vôi và túi muối trong vèo và đầu nguồn nước vào để phòng bệnh cho cá. Nếu tình trạng nặng, cần xử lý bằng thuốc.
Nuôi công nghiệp nên sử dụng thức ăn viên, loại dành cho cá có vẩy.
© Việt Linh biên soạn, 4/11/2014
Phòng trị bệnh cho cá lóc
- Cá ương ở giai đoạn dưới 25 ngày tuổi, bệnh thường gặp là bệnh do ký sinh trùng gây nên, phòng bệnh này bằng cách định kỳ 10-15 ngày bón vôi bột (CaCO3) liều lượng 3-4kg/100m2 hòa với nước, lóng trong, sau đó lấy nước trong đó tạt vào ao (làm nhiều lần), đối với bè treo túi vôi thì liều lượng khoảng từ 2-4kg/10m3. Giữ cho nước có màu vàng lợt hoặc xanh đọt chuối. Cấp, thay nước và tạo dòng chảy để đảm bảo đủ lượng oxy cho ao, tránh ương mật độ dày. Thường xuyên dùng muối ăn tưới ao, liều lượng 1-2 kg/m3 nước ao.
- Cá ương ở giai đoạn lớn hơn 25 ngày tuổi đến 60 ngày tuổi: Ở giai đoạn này cá hao hụt nhiều nhất. Bệnh thường gặp là viêm ruột do cá chuyển loại thức ăn.
Biện pháp phòng: Thường xuyên trộn muối ăn vào cá mồi trước khi xay nhuyễn, bón vôi bột 3-4 kg/100m2 ao (hòa nước lóng trong, lấy nước trong tạt ao). Trộn thuốc Sunfadimezin: 2gr + Vitamin C: 1 gr vào 1kg cá mồi, mỗi tháng cho ăn liên tục 3 ngày.
- Giai đoạn nuôi cá thịt: Thường gặp bệnh viêm ruột, ghẻ lở, rận cá.
- Phòng bệnh: Giữ vệ sinh ao, thường xuyên bón vôi như trên.
- Trị bệnh: (Sunfa 20gr + Oxytetra 5gr)/100 kg cá. Liên tục 6 ngày.
Lưu ý:P trộn thuốc vào bột gòn, sau đó rắc lên thức ăn đã xay nhuyễn. trong quá trình nuôi nên xổ giun cho cá (có thể dùng thuốc xổ giun cho heo, liều sử dụng bằng ½).
Nguồn: Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn tỉnh An Giang
Kỹ thuật nuôi cá lóc thương phẩm trong ao đất
Cá lóc giống 35- 60 ngày tuổ, thân dài 6-12 cm có thể tuyển lựa đồng cỡ đưa ra ao lớn nuôi thành cá thịt.
- Vì là loài cá dữ chuyên bắt mồi sống nên giai đoạn nuôi thịt không cần bón phân gây màu nước. Trong ao nuôi, ngoài sử dụng các loại cá tạp, cá còn có thể ăn các thức ăn chế biến có hàm lượng đạm cao, lượng cho ăn chiếm từ 5-6% trọng lượng cá.
- Mật độ thả nuôi: 8-10 con/1m2 ao.
- Nuôi 8 tháng cá đạt trọng lượng trung bình 600 gr/con.
- Hệ số thức ăn của cá lóc là 5-6 kg thức ăn/1 kg cá.
- Nuôi cá lóc trong bè:
Chọn những nơi có chất nước tốt, không bị ô nhiễm có mực nước sâu. Cần tránh nững nơi có tàu bè qua lại, đặc biệt cần tránh xa nguồn nước thải của các nhà máy công nghiệp hóa chất, nhà máy sản xuất thuốc trừ sâu…..
Để giảm hao hụt và thuận tiện khi nuôi nên thả cá lớn (15-30 gr/con đối với cá lóc bông, 10-15 gr/con đối với cá lóc thường) và cá đã quên sử dụng thức ăn chế biến. Nếu cá nhỏ hơn cần có bè nuôi riêng cho đến khi cá đạt kích thước trên. Mật độ thả nuôi trung bình từ 120-130 con/m3. Kích cở cá đều nhau, khỏe mạnh, cơ thể cân đối.
Về vấn đề lâu dài cần phải dùng thức ăn chế biến hoặc thức ăn tự chế để nuôi cá lóc trong bè. Bởi vì loại thức ăn này dễ bảo quản, chuyên chở thuận tiện và tận dụng được nguồn phế liệu phụ phẩm của nhà máy chế biến.
Khả năng sử dụng thức ăn của cá thay đổi theo từng giai đoạn phát triển của cơ thể cá. Lúc cá còn nhỏ cần cho ăn nhiều hơn cá lớn, có thể tham khảo theo bảng sau:
| Kích cỡ cá giống (gr/con) | Khẩu phần ăn (%)/ trọng lượng cá |
| <10 | 10-12 |
| 10-20 | 8-10 |
| 20-30 | 5-8 |
| 30-50 | 5-8 |
| 50-100 | 5-8 |
| >100 | 3-5 |
Cần thường xuyên kiểm tra bè nuôi nhất là nơi có đặt “ mặt đục” bằng lưới, dây neo. Đồng thời tiến hành làm vệ sinh bè để được thông thoáng, không thả cá mật độ quá dày.
Nguồn: Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn tỉnh An Giang.
Kỹ thuật nuôi cá lóc trong vèo đặt trong ao
Cá lóc là loài cá ăn tạp, có sức sống cao, khả năng chịu đựng tốt với môi trường. Hiện nay, cá lóc là đối tượng nuôi mang lại hiệu quả kinh tế khá cao cho người dân. Có nhiều hình thức nuôi như trong ao, trên bạt, trong vèo đặt trong ao, đặc biệt nuôi trong vèo đặt trong ao là dễ chăm sóc, quản lý, thích hợp cho người có ít diện tích đất sản xuất. Sau đây là một số lưu ý khi nuôi cá lóc trong vèo đặt trong ao.
Tham quan mô hình nuôi cá lóc trong vèo tại xã Hòa Hưng – Cái Bè.
Nên chọn ao ở gần nơi có nguồn nước sạch, nếu gần sông lớn để thu hoạch vận chuyển bằng ghe đục càng tốt. Diện tích ao từ 200 – 1.000m2, độ sâu ao 1.2 – 2m, mực nước trong vèo khoảng 1m.
Cải tạo ao, vét bùn, bón vôi, lấy nước vào ao, xử lý nước, căng vèo vào ao cho thẳng 4 góc vèo, đáy vèo cách đáy ao khoảng 30cm.
Cá lóc là loài cá dữ, sự tranh giành thức ăn trong ao rất lớn, cá lớn ăn cá nhỏ, nhất là tháng nuôi đầu, vì vậy sự phân đàn rất lớn sau thời gian nuôi ngắn. Chính lý do trên, nên chọn đàn cá cùng ngày tuổi và cùng kích thước là hết sức quan trọng và quyết định năng suất sau này. Nên chọn mua giống ở những nơi tin cậy, giống nhân tạo, có nguồn gốc rõ ràng, khỏe mạnh, không dị hình, không bị trầy sướt, không có triệu chứng bị bệnh. Con giống có chiều dài khoảng 6 – 10cm là thích hợp cho thả nuôi thương phẩm.
Mật độ thả khoảng 50 – 100 con/m3 tùy theo điều kiện đầu tư của hộ nuôi. Tháng đầu ương trong vèo cho ăn thức ăn là cá tạp được xay nhuyễn trộn với thức ăn viên chuyên dùng cho cá lóc hiệu Afiex 40% đạm, sau một tháng nuôi phân cỡ cá cho đều đưa qua 2 – 3 vèo nuôi và chuyển sang cho ăn hoàn toàn bằng thức ăn viên loại 40% đạm. Đây là đặc điểm nổi bật trong nuôi cá lóc hiện nay vì sử dụng thức ăn công nghiệp sẽ hạn chế ô nhiễm môi trường, dịch bệnh và hạn chế làm cạn kiệt nguồn cá tự nhiên. Định kỳ bắt cá kiểm tra để phát hiện bệnh sớm có thể xảy ra trong ao nuôi. Nuôi hình thức này thay nước mỗi ngày khoảng 30%, sử dụng hóa chất xử lý nước; định kỳ dùng thuốc sổ giun sán cho cá nuôi.
Thời gian nuôi khoảng 4 – 5 tháng là thu hoạch cá đạt cỡ trên 700g/con. Người nuôi nên chọn mùa vụ nuôi làm sao để khi bán cá vào thời điểm từ tháng 2 – 5 để cá thương phẩm có giá bán cao.
Nguyễn Thị Phương Dung – Tiền Giang, 11/11/2015
Thức ăn và cách phòng bệnh cho cá lóc
Trong nuôi cá nói chung và cá lóc nói riêng, việc phòng bệnh vô cùng quan trọng.
Bởi phòng bệnh là tránh đưa mầm bệnh từ bên ngoài vào hệ thống ương nuôi, hoặc ngăn ngừa mầm bệnh phát triển, trị bệnh chỉ là giải pháp tình thế cuối cùng. Về thức ăn phải vệ sinh, tươi, sống; thức ăn công nghiệp phải đầy đủ dinh dưỡng và khoáng chất.
Sau đây cần lưu ý một số bệnh thường gặp và cách phòng, trị cụ thể cho từng loại:
Bệnh lở loét: Cá có triệu chứng ít ăn hoặc bỏ ăn, bơi nhô đầu khỏi mặt nước, da sậm, xuất hiện những vết loét màu đỏ. Những vết loét lan rộng, vẩy rụng, xuất huyết và viêm. Vết loét ăn sâu vào đến xương, thịt thối rữa và cá bị chết. Để phòng bệnh, người nuôi cá nên định kỳ trộn Vitamin C liều lượng 5 – 10 gr/100 kg cá nuôi. Thả lá xoan, dây giác vào ao, bè. Còn trị bệnh thì dùng vôi bột liều lượng 5 – 7 kg/100 m3 hòa tan lấy nước tạt đều ao, bè hoặc sulfat đồng liều lượng 1 kg/2.000 – 3.000 m3. Dùng kháng sinh trộn vào thức ăn: Oxytetracyline 2 gr + Sulfathyozon 5 gr/100 kg cá nuôi từ 5 – 7 ngày. Vitamin C 2 gr/kg thức ăn. Cho ăn liên tục 5 – 7 ngày.
Bệnh trắng da: Thời kỳ đầu đuôi cá xuất hiện vết trắng lan dần về phía đầu, đến vây lưng và vây hậu môn, cá mất nhớt và bong da, bong vẩy. Bệnh nặng, cá treo đuôi, cắm đầu xuống và chết trong thời gian ngắn. Nên hòa tan vôi bột: 5 – 10 kg/100 m3, tạt đều ao 2 – 3 lần/tuần. Còn khi cá đã mắc bệnh này, bắt cá bệnh tắm thuốc Streptomycine 25 mg/lit nước, tắm trong 30 phút. Dùng kháng sinh trộn vào thức ăn: Sulfadimidine 3 – 5 gr/kg thức ăn, cho ăn liên tục 5 – 7 ngày. Trộn vitamin C cho ăn liên tục 5 – 7 ngày.
Bệnh nấm thủy mi: Da có những đốm trắng, trên đó có những sợi nấm nhỏ mềm, tua tủa như bông gòn, dùng sulfat đồng 1 kg/2.000 – 3.000 m3 nước, xử lý liên tục 2 – 3 lần/tuần.
Bệnh sán lá đơn chủ: Cá thường nổi đầu nơi có nước chảy. Phải thường xuyên thay nước ao, tránh thức ăn thừa gây bẩn môi trường. Dùng muối liều lượng 0,5 – 1 kg/100 lít nước đối với cá nhỏ, 3 – 4 kg/100 lít nước đối với cá lớn, tắm trong 10 – 15 phút. Dùng thuốc tím 1 – 2 gr/m3 tạt đều ao, 3 lần/tuần. Hoặc dùng lá xoan 0,3 – 0,5 lá xoan bó lại treo ở đầu bè hoặc đầu cống cấp nước vào ao.
Bệnh xuất huyết: Cá bơi lội không bình thường, da chuyển sang màu sẫm, mắt mờ đục, sưng phù và có thể bị mù, xuất huyết ở các vây, da, bụng, quanh miệng, nắp mang, có thể bị chảy máu một số nơi, cơ thể bị tuột nhớt. Cách điều trị: trộn kháng sinh Doxycyline 0,5 – 1 gr/kg thức ăn, cho ăn liên tục 5 – 7 ngày, Kanamycine: 50 mg/kg thể trọng cá, liên tục 5 – 10 ngày, nhóm Sulfamid: 150 – 200 mg/kg thể trọng cá, liên tục 5 – 10 ngày, bổ sung Vitamin C.
Trần Phượng – Dân Việt, 03/11/2011
Kỹ thuật nuôi cá lóc bằng thức ăn công nghiệp
Những năm gần đây, nông dân Bến Tre đã nuôi cá lóc nhưng còn nhỏ lẻ. Cá nuôi dễ mắc bệnh, tốn nhiều công lao động, giá thành cao, lợi nhuận thấp. Để khắc phục tình trạng trên, nông dân nên nuôi cá bằng thức ăn công nghiệp để đạt hiệu quả cao.
Môi trường nuôi ít bị ô nhiễm hơn, cá nuôi ít bệnh, công lao động giảm, mật độ nuôi dày hơn, giá thành đầu vào ổn định. Hiện nay, ở các chợ, cá lóc là nguồn thực phẩm chủ lực.
Một số giải pháp nuôi cá lóc như sau:
1/ Thiết kế ao nuôi:
Cá lóc sống và phát triển tốt ở vùng có độ mặn từ 0 đến 8%o. Ao nuôi cá lóc có diện tích đa dạng, nhưng tốt nhất từ 500 – 2.000m2, thiết kế theo hình chữ nhật để dễ thu hoạch sau này. Độ sâu chứa nước đảm bảo từ 2 – 2,5m. Đặc biệt, phải có hệ thống cống cấp và thoát nước tốt.
2/ Cải tạo ao nuôi:
Nếu là ao cũ thì vét hết bùn dơ đáy ao, bón vôi 8-15kg/100m2, nếu có điều kiện thì phơi ao từ 3-4 ngày. Sau đó, cho nước vào ao độ sâu 1m, chú ý nước lấy vào phải lọc, tránh cá lớn vào ăn cá con sau này, 3 ngày sau thì tiến hành thả cá giống. Khi thả cá xong, mỗi tuần cấp thêm nước từ 10-15cm cho đến khi đạt độ sâu qui định.
3/ Chọn giống và thả giống:
Để đảm bảo tỉ lệ sống và năng suất sau này, việc chọn mua con giống rất quan trọng, kích cỡ đạt từ 6-10cm, cá phải có kích cỡ đồng đều, khỏe mạnh, không dị tật. Trước khi thả cá, dùng muối ăn pha với nước 3% để tắm cá 3-5 phút. Nên thả cá lúc trời mát. Mật độ thả cá tùy thuộc ao nuôi, như độ sâu, vốn, theo kinh nghiệm, có thể thả từ 10-50con/100m2.
4/ Chăm sóc và quản lý:
a) Thức ăn và cách cho cá ăn:
Thức ăn cho cá lóc phổ biến là loại Cargill. UP, CP… Tùy theo kích cỡ cá mà chọn loại thức ăn có kích cỡ cho phù hợp. Tháng đầu cho cá ăn 3 lần/ngày (sáng, trưa, chiều). Từ tháng thứ hai trở đi, cho ăn 2 lần/ngày. Khi cho cá ăn, dùng cây gõ vào cầu tạo tiếng động cho cá gom lại. Nếu cá giống chưa quen thức ăn công nghiệp thì phải tập cho cá chuyển từ từ bằng thức ăn cá tạp sang thức ăn công nghiệp.
Cách làm như sau: Dùng sàng ăn bằng tre hoặc trúc, diện tích khoảng 1m2, khoảng cách nẹp tre cách nhau 1,5cm. Đặt cách bờ từ 4-5m, nổi trên mặt nước. Thức ăn là cá tạp còn tươi rửa sạch xay nhuyễn, mỗi lần cho ăn trộn vào 2-3% thức ăn công nghiệp, để nguyên cục bỏ trên sàng, cá tự động lại rỉa ăn. Cứ mỗi lần cho cá ăn thức ăn công nghiệp tăng dần lên, khoảng 10-15 ngày cá đã quen với thức ăn công nghiệp thì chuyển hẳn sang cho ăn thức ăn công nghiệp. Khi cho ăn, cần trộn thêm men tiêu hóa đường ruột và vitamin C giúp cá mau tiêu hóa và tăng sức đề kháng. Chú ý khi thả cá giống được 20 ngày mới tập cho cá ăn thức ăn công nghiệp, không nên tập sớm quá làm cá dễ bị mất sức.
b) Quản lý ao nuôi:
Hàng ngày, nên theo dõi khả năng bắt mồi của cá. Nếu cá giảm ăn hoặc ăn không tăng thì có vấn đề. Một là cá có dấu hiệu bị bệnh, hai là môi trường ao bị dơ, khí độc nhiều, oxy thấp. Kiểm tra màu nước của ao nuôi để có cách thay nước hợp lý. Thông thường, cá nuôi dễ mắc bệnh ghẻ, do đó phải theo dõi thật kỹ để phát hiện kịp thời. Khi phát hiện cá bị ghẻ, dùng thuốc IODINE nồng độ 1ppm tạt xuống ao. Nếu bị ít thì dùng thuốc 1 lần, nếu cá bệnh nhiều thì xử lý 2 lần. Mỗi lần cách nhau 5 ngày. Khi nuôi cá được 2 tháng, có thể dùng vi sinh định kỳ để xử lý đáy ao giúp giải phóng khí độc (vi sinh xử lý theo nhà sản xuất). Khi còn nhỏ, cá thường vào mé bờ, dễ bị chim, cò ăn nên cần có biện pháp giúp cá ít hao hụt (dùng lưới rào xung quanh mé mương). Khi cho cá ăn, nên rải thức ăn từ từ, tránh để thức ăn dư thừa.Theo dõi sự tăng trưởng của cá để có cách xử lý thích hợp.
5/ Thu hoạch:
Nuôi khoảng 5 tháng, cá đạt trọng lượng trung bình từ 2-3con/kg thì thu hoạch, cũng có thể để cá lớn hơn tùy theo thị trường tiêu thụ. Khi thu hoạch bằng rọ, tránh để cá bị xây xát, bảo quản cá sống lâu hơn. Nếu quản lý và chăm sóc ao nuôi tốt, thì hệ số chuyển hóa thức ăn từ 1 – 1,4kg được 1kg cá. Tỉ lệ sống trung bình từ 60 – 80%.
Võ Thành Cơn, Đồng Khởi, 25 / 10 / 2012
Mô hình nuôi cá lóc bằng thức ăn công nghiệp
Gần đây, phong trào nuôi cá lóc thương phẩm ở Bình Thuận phát triển mạnh, mang lại hiệu quả kinh tế ổn định cho người dân địa phương. Tuy nhiên, đối với nghề nuôi cá lóc hiện nay, khó khăn lớn nhất là quản lý nguồn nước và nguồn thức ăn cá tạp tươi đảm bảo chất lượng và số lượng.
Vào mùa gió bấc (thường kéo dài từ tháng 10 đến tháng 3 năm sau) nguồn cá biển khan hiếm và giá lúc này cũng tăng cao nhiều so với vụ cá nam (thường kéo dài từ tháng 4 đến tháng 9). Bên cạnh đó, Bình Thuận không phải là một tỉnh có nguồn nước ngọt dồi dào như các tỉnh miền Tây Nam bộ, do đó cá lóc chỉ phù hợp với một số địa điểm – nơi có nguồn nước ngọt dồi dào quanh năm – để thuận lợi cho việc thay nước hàng ngày trong ao cá.
Ngoài ra, việc cho ăn bằng thức ăn tươi sống gây ô nhiễm nhanh chóng nguồn nước trong ao, và để giảm thiểu tình trạng cá bệnh người nuôi phải thay nước hàng ngày hoặc cho nước vào ra liên tục trong ao. Một số vùng nuôi không có điều kiện nguồn nước thuận lợi, việc nuôi cá lóc trở nên rất khó khăn do cá thường xuyên bị bệnh, việc sử dụng các loại thuốc kháng sinh, hóa chất diệt khuẩn gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe người tiêu dùng. Bên cạnh đó, do chất lượng cá tạp phải đảm bảo tươi nên hàng ngày người dân phải đi mua cá về sau đó tiến hành sơ chế (rửa, xay hoặc chặt…) rồi mới cho cá ăn. Công việc này tốn nhiều thời gian, công sức và tiền của người dân.
Để góp phần nâng cao hiệu quả trong quá trình sản xuất của người dân, tháng 8/2011, Trung tâm Khuyến nông Khuyến ngư Bình Thuận đã thực hiện mô hình “Nuôi cá lóc bằng thức ăn công nghiệp” với quy mô 500m2 tại hộ ông Châu Minh Tâm, xã Vĩnh Hảo, huyện Tuy Phong. Mô hình nghiệm thu ngày 26/12/2011. Qua gần 4 tháng nuôi cá đạt cỡ trung bình 420g/con, tỷ lệ sống đạt 60%. Kết quả cho thấy cá lóc thích nghi tốt với điều kiện môi trường, nguồn nước khu vực nuôi. Cá lóc cũng thích nghi tốt với thức ăn công nghiệp và đạt tốc độ tăng trưởng tốt.
Trung tâm Khuyến nông Khuyến ngư Bình Thuận giới thiệu tóm tắt quy trình thực hiện như sau:
- Chuẩn bị ao nuôi:
- Diện tích ao nuôi: 2.000-5.000m2. Diện tích lớn sẽ tương đối khó khăn trong việc quản lý và chăm sóc cá.
- Đối với ao mới phải súc rửa ao bằng cách cho nước vào ao ngâm khoản 2-3 ngày sau đó xả bỏ rồi tiếp tục cấp nước vào ngâm rồi xả bỏ. Tiến hành quá trình súc rửa trên ít nhất 2-3 lần trước khi thả giống để có môi trường ao nuôi ổn định cho cá phát triển.
- Đối với ao đã qua sử dụng: Xả cạn nước ao, súc rửa hoặc sên vét bùn cho sạch. Gia cố bờ, cống, lưới rào ao đề phòng địch hại như ếch, rắn, chim cò ăn cá. Chích điện hoặc dùng Saponin (10kg/1.000m2) để diệt cá tạp còn sót trong ao. Bón vôi với lượng tùy thuộc vào độ phèn của đất. Sau đó phơi ao 5-7 ngày thì cấp nước vào.
Đối với những ao phèn thì không tháo sạch nước để tránh xì phèn.
Nhu cầu bón vôi phù hợp với loại đất và pH đất:
| ĐỘ pH đất | Nhu cầu bón vôi (kg/ha) | ||
| Đáy ao nhiều mùn hay sét | Đáy ao cát pha mùn | Đáy cát | |
| > 6,5 | Không bón | Không bón | Không bón |
| 6,1 – 6,5 | 1.700 | 1.500 | Không bón |
| 5,6-6,0 | 3.500 | 1.700 | 500 |
| 5,1-5,5 | 5.000 | 3.000 | 1.500 |
| 4,6-5,0 | 8.000 | 4.000 | 3.500 |
| 4,0-4,5 | 10.000 | 5.000 | 4.000 |
- Cấp nước vào ao qua lưới lọc để tránh cá tạp và địch hại vào ao ăn cá. Mực nước cấp vào từ 0,6-0,8m. Gây màu nước bằng hỗn hợp cám gạo (1kg) + Bột đậu nành (1kg) hòa với nước ngâm qua đêm tạt đều cho 1.000m2. Ngày tạt 2 lần, tối ngâm thì sáng tạt, sáng ngâm thì chiều (16-17h) tạt. Bổ sung thêm mỗi ngày 2kg cá tạp nấu chín xay nhuyễn tạt đều ao để màu nước lên tốt hơn. Sau 2-3 ngày màu nước lên tốt thì tiến hành thả cá giống. Cũng có thể gây màu nước bằng nhiều cách khác như sử dụng phân hóa học, phân chuồng hoặc chế phẩm sinh học gây màu nước.
- Thả giống:
- Mật độ nuôi: Cá lóc là đối tượng nuôi có giá trị kinh tế cao tuy nhiên chi phí cho vụ nuôi tương đối lớn, do đó tùy thuộc vào điều kiện nguồn nước, ao hồ và kinh tế gia đình mà người dân quyết định mật độ nuôi thưa hay dày. Thường cá lóc được nuôi ở mật độ 20-30con/m2. Ao có nguồn nước không thật thuận lợi thì chỉ nên nuôi mật độ thưa không quá 10con/m2.
- Mùa vụ thả giống: Do chủ động về nguồn thức ăn nên người nuôi có thể thả giống quanh năm, tùy điều kiện nguồn nước, nguồn giống và tính toán giá thành sau thu hoạch. Mùa vụ chính thả giống là từ tháng 5 đến tháng 8 hàng năm, lúc này nguồn cá giống và nguồn nước cũng dồi dào tuy nhiên giá thương phẩm sau thu hoạch thường thấp hơn so với vụ nghịch do sản lượng thu hoạch dồi dào từ nhiều địa phương.
- Chọn giống: Con giống đồng đều về kích cỡ, khỏe mạnh, màu sắc sáng đẹp, thân hình cân đối, không mang các dấu hiệu nhiễm bệnh. Tốt hơn hết người dân nên chọn mua tại các cơ sở sản xuất uy tín.
- Thức ăn và cách cho ăn:
a. Trường hợp cho cá ăn bằng cám công nghiệp ngay từ nhỏ:
Do cá giống mới thả còn nhỏ, chưa quen với việc ăn bằng cám viên công nghiệp nên việc tập cho cá chuyển đổi loại thức ăn cần tiến hành theo các bước sau:
- Giai đoạn tập ăn 1: Tập cho cá quen với mùi vị thức ăn công nghiệp:
- Cá giống mới thả: Khẩu phần thức ăn hàng ngày bằng 10% trọng lượng đàn cá. Phối trộn theo tỷ lệ: 70% cá tạp tươi + 30% cám công nghiệp. Nếu là dạng cám bột thì trộn vào chung với cá tạp theo tỷ lệ trên rồi xay nhuyễn, trường hợp cám viên thì ngâm qua nước cho mềm sau đó trộn chung với cá tạp tươi rồi xay nhuyễn.
- Hỗn hợp thức ăn sau khi xay nhuyễn được cho vào sàng để cá vào ăn.
- Mỗi ngày tăng 10% lượng cám công nghiệp trong tỷ lệ phối trộn cho đến khi đạt tỷ lệ 50% cá tạp
- 50% cám công nghiệp thì chuyển sang giai đoạn tập ăn cám viên.
- Giai đoạn tập ăn 2: Tập cho cá quen ăn thức ăn dạng viên:
- Sau khoản 5ngày tập, cá ăn quen với mùi vị cám công nghiệp thì tiếp tục tập cho cá ăn dạng thức ăn viên.
- Cách thực hiện: Trộn thêm 5% cám công nghiệp dạng viên (trong tổng lượng thức ăn cho cá ăn hàng ngày). Ban đầu cám nên được ngâm nước trước cho mềm rồi trộn chung với hỗn hợp thức ăn đã xay nhuyễn của giai đoạn tập ăn 1. Hỗn hợp thức ăn trên được rải xuống sàng để cho cá ăn. Ban đầu có thể cá chưa quen sẽ nhả các hạt thức ăn viên ra, trường hợp như vậy cần tập tiếp với tỷ lệ phối trộn như trên thêm 2-3ngày nữa cho đến khi cá không còn nhả các viên thức ăn ra nữa thì thôi.
- Những ngày sau đó thì lượng cám viên tiếp tục tăng lên 10%/ngày đồng thời thời gian ngâm nước cũng ngắn dần cho đến khi không ngâm nữa (cho cá ăn quen với thức ăn viên cứng). Khi thấy cá đã hoàn toàn quen với việc ăn thức ăn viên thì chuyển hoàn toàn sang cho ăn bằng thức ăn viên công nghiệp.
- Giai đoạn cho ăn hoàn toàn bằng cám viên:
- Từ tháng thứ hai đến khi thu hoạch: Cá đã ăn quen cám viên thì cho ăn hoàn toàn bằng cám viên. Khẩu phần thức ăn dao động từ 3-7% trọng lượng thân, tùy giai đoạn phát triển của cá. Do chất lượng của từng loại cám viên khác nhau vì vậy người dân nên cho ăn theo hướng dẫn của nhà sản xuất để đạt hiệu quả tốt nhất.
- Ở giai đoạn này thức ăn được rải trực tiếp xuống ao cho cá ăn, không còn cho ăn trong sàng nữa.
b. Trường hợp tập cho cá ăn bằng cám công nghiệp khi cần thiết:
Do tập tính tạp ăn của cá người dân hoàn toàn có thể chuyển đổi linh hoạt trong việc sử dụng thức ăn công nghiệp và cá tạp vào bất cứ lúc nào trong suốt vụ nuôi nhằm chủ động về nguồn thức ăn đồng thời giảm chi phí về thức ăn. Đối với cá đã nuôi thương phẩm trên 1tháng, việc tập cho cá chuyển sang ăn cám viên công nghiệp là tương đối dễ dàng, giúp người dân hoàn toàn chủ động về thức ăn cho cá. Bỏ cá nhịn đói 1ngày sau đó trộn cám viên đã ngâm nước với cá tạp đã xay nhuyễn theo tỷ lệ 70% cá tạp + 30% cám viên. Các bước thực hiện được tiến hành như giai đoạn tập ăn 2. Sẽ chỉ mất từ 3-5ngày để cá quen với việc ăn bằng thức ăn viên công nghiệp.
- Chăm sóc và quản lý:
- Theo dõi tình trạng ăn mồi, thời tiết và sức khỏe của cá hàng ngày để tăng hoặc giảm lượng thức ăn cho phù hợp. Cho ăn theo hướng dẫn của nhà sản xuất, không cho ăn quá nhiều tránh tình trạng cá bị chướng bụng chết.
- Do cho ăn bằng cám công nghiệp nên môi trường nước cũng ít ô nhiễm hơn nhiều so với nuôi bằng cá tạp. Tuy nhiên, đối với vùng nuôi có nguồn nước ngọt ra vào chủ động thì cho nước ra vào ao thường xuyên hàng ngày để kích thích cá ăn mồi và phát triển. Đối với những vùng không có điều kiện nguồn nước dồi dào nên tiến hành thay nước 2-3 tuần 1 lần tùy tình trạng môi trường và sức khỏe cá trong ao, đồng thời định kỳ 7-15 ngày bổ sung chế phẩm sinh học giúp phân hủy chất thải, khí độc và ổn định môi trường ao nuôi.
Đảm bảo từng khâu trong quy trình khuyến cáo, mô hình có thể áp dụng được rộng rãi tại tất cả các vùng nuôi thủy sản nước ngọt trong tỉnh, góp phần giải quyết khó khăn trong việc quản lý nguồn nước và đảm bảo nguồn thức ăn cá tạp tươi trong quy trình nuôi truyền thống.
Việc sử dụng thức ăn công nghiệp thay thế cho thức ăn cá tạp trong quy trình nuôi cá lóc thương phẩm có nhiều ưu điểm so với quy trình nuôi truyền thống sử dụng thức ăn cá tạp:
- Không tốn nhiều công sức để đi mua và sơ chế trước khi cho ăn, giảm hẳn chi phí thuê nhân công.
- Nguồn cung cấp và chất lượng thức ăn luôn chủ động và ổn định.
- Giảm hẳn chi phí cho việc bổ sung các loại thuốc bổ giúp cá nâng cao sức đề kháng và tiêu hoá tốt do trong thức ăn công nghiệp các thành phần trên đã được tính toán phối trộn cẩn thận theo nhu cầu của cá.
- Ít gây ô nhiễm nguồn nước do đó giảm nhu cầu sử dụng nguồn nước và giảm tình trạng cá nhiễm bệnh do môi trường bị ô nhiễm mà không có nước thay.
- Giảm hẳn việc sử dụng kháng sinh và hoá chất trong quá trình nuôi.
- Thích hợp với những vùng nuôi xa nguồn cung cấp cá tạp và có nguồn nước không thật thuận lợi.
LH (Khuyến ngư VN, 06/01/2012)
Kỹ thuật nuôi cá lóc
Cá lóc là loài cá sống phổ biến ở đồng ruộng, kênh, rạch, ao, hồ, đầm, tốc độ sinh trưởng nhanh, thích nghi với mọi môi trường nước (đục, tù, nóng) có thể chịu đựng được ở nhiệt độ 39 – 40 độ C. Ở Miền Nam, cá lóc bông được nuôi trong lồng (bè).
Dựa vào tính ăn của cá lóc, có thể nuôi ghép với cá mè, trôi, chép, trắm cỏ, rô phi, diếc để diệt cá tạp đảm bảo hợp lý nguồn thức ăn, cải tạo và nâng cao sức sản xuất của vùng nước. Tuy nhiên, cần chú ý tỉ lệ, mật độ kích cỡ cá thả.
Nuôi cá lóc con:
Trước khi thả cá bột vào, phải dọn tẩy ao để sinh vật phù du phát triển mạnh. Mật độ: 6 – 7 vạn con/mẫu. Sau khi thả 7 – 8 ngày chưa cho ăn, có thể vừa bón phân vừa vớt động vật phù du bổ sung vào ao (3 – 4 kg động vật phù du / một vạn cá). 18 – 20 ngày sau cá có màu vàng, trên thân xuất hiện vảy, sau đó cá chuyển màu đen, dài 3 – 6 cm, tỉ lệ sống khoảng 60 – 65%, nuôi tiếp 20 ngày, cá đạt 6 cm, bắt đầu cho ăn tôm, tép, cá con hay thức ăn chế biến có đạm cao.
Nuôi trong 2 tháng, cá giống được 9 – 12 cm, đưa ra ao lớn nuôi thành cá thịt.
Nuôi cá thịt ở ao:
Trạm Nghiên cứu cá nước ngọt Đình Bảng, Tiên Sơn, Hà Bắc (nay là Viện Nghiên cứu nuôi trồng Thủy sản I) đã thí nghiệm nuôi cá lóc với cá rô phi (dùng cá rô phi làm thức ăn cho cá lóc).
Ao diện tích: 35 m 2 . Độ sâu: 70 – 80 cm. Mật độ thả: 0,5 – 1 con/m 2 .
Sau 4 tháng nuôi, cá đạt 80 – 100 g/con, con lớn đạt 350 g/con.
Tính ra cứ 4 kg cá rô phi con được 1 kg cá lóc thịt.
Nuôi cá lóc ghép với cá nuôi khác: Nuôi ghép cá lóc với cá mè, trôi, chép, rô phi, diếc. Diện tích ao: 200 m 2 . Trên bờ ao rào bằng phên nứa cao 0,4 m, thả bèo tây chiếm 5% diện tích ao nuôi. Thức ăn bằng phân lợn ủ, mỗi tuần bón 2 lần. Mỗi lần 0,1 – 0,15 kg/m 3 nước. Sau 3 tháng nuôi, cá lóc đạt 147 g/con, cá mè : 120 g/con, cá trôi: 40 g/con, cá rô phi : 70 g/con.
Tìm hiểu thêm: kinh nghiệm nuôi cá lóc thịt ở Trung Quốc
a. Nuôi ghép với cá khác: Nuôi ghép cá lóc với cá mè, trôi, trắm, chép trong ao để tạo điều kiện tốt cho các loài cá nuôi sinh trưởng nhanh.
Ao phải có bờ cao (bờ cao hơn mặt nước ao 30 – 40 cm), nước ở ao không rò rỉ, cá lóc cỡ 3 cm, ghép 50 – 300 con/mẫu. Sau 5 – 6 tháng nuôi cá lớn được 0,2 – 0,6 kg/con, tỉ lệ sống 80%. Năng suất cá lóc 20 – 50 kg/mẫu.
b. Nuôi cá lóc là chính: Diện tích ao: 1 – 2 mẫu; Độ sâu: 1,5 – 2 m.
Xung quanh ao thả bèo Nhật Bản rộng 0,8 – 1 m (dùng cọc và sào ngăn lại) để phòng cá nhảy đi, tạo môi trường cho cá lóc lớn nhanh.
Mật độ thả: Dựa vào nguồn thức ăn và chất nước để quyết định. Có thể thả 10 con/m 2 (cỡ 3 cm). Để tránh tình trạng cá lớn ăn cá bé, bắt cá lớn chuyển sang ao khác , mật độ 2 – 3 con/m 2 . Nếu nguồn thức ăn phong phú, mật độ có thể dầy hơn.
Nuôi cỡ cá giống 12 – 18 cm/con, cuối năm đạt 0,5 – 0,6 kg/con. Ngoài ra có thể ghép một ít cá mè trắng, mè hoa để cải thiện chất nước.
- Luyện cho cá ăn:
Thức ăn gồm:
- Thức ăn sống như: động vật phù du, tôm, tép con, cá con, giun, dòi…..
- Thức ăn chế biến: phối hợp 70% cá tạp nghiền nát, 20% bột đậu khô lạc… 5% men, còn lại là các vitamin, muối khoáng, thuốc kháng sinh.
Cho ăn 2 lần/ngày, sáng và chiều. Số lượng cho ăn bằng 5 – 7% trọng lượng cá, mùa cá sinh trưởng nhanh không cho ăn quá 10% trọng lượng cá. Nếu cho cá ăn thức ăn chế biến, phải tập luyện cho cá ngay từ còn nhỏ. Trong thời gian luyện cho ăn thức ăn chế biến, không được cho ăn thức ăn sống. Nuôi 1 năm cá đạt 0,5 kg/con. Năng suất 300 kg/mẫu.
- Quản lý ao nuôi: Cá lóc thịt có thể nhảy cao đến 1,5 m nhất là khi trời mưa hay có dòng nước chảy. Vì vậy phải thăm ao thường xuyên.
Thức ăn phải tươi, trước lúc cho ăn phải vệ sinh sàn cho ăn. Để đảm bảo nước luôn sạch, tốt nhất nên có dòng chảy. Nuôi ở ao có diện tích 3,5 mẫu năng suất đạt 300 kg/mẫu và 50 kg cá mè, là đạt hiệu quả kinh tế cao.
Nuôi cá lóc ở bè
Ở miền Nam, cá lóc con cỡ 3 – 4 cm đem ương, nuôi ở bè rộng 1,5 (1,5 – 1 m) thả 5.000 con, cho ăn bằng cá linh băm nhỏ, phế phẩm ở các chợ, đầu, ruột cá… xay nhuyễn đặt lên tấm vỉ bằng tre. Nuôi đến cỡ 10 – 12 cm chuyển sang bè có kích thước lớn hơn. Thường nuôi 3 tháng đạt 1,2 kg/con.
Khuyến Ngư Kiên Giang (Theo KS Ngô Trọng Lư)
Phương pháp nuôi cá lóc thịt
Nuôi thô:
Nuôi ghép trong các ao cá khác để tận dụng hết tiểm năng của vực nước và lợi dụng cá quả để tiêu diệt các loài cá tạp khác cạnh tranh thức ăn, không gian và dưỡng khí làm cho cá nuôi phát triển tốt. Ao có nuôi ghép cá quả bờ phải cao hơn mặt nước 30 – 40 cm, không có lỗ rò. Mỗi ao 666 m2 nuôi ghép 50 – 300 cá quả cỡ từ 3 cm hoặc cỡ 12cm. Sau 5 – 6 tháng nuôi cá lớn được 0,2 – 0,6 kg, tỉ lệ sống 80%.
Nuôi tinh (nuôi đơn):
- Ao nuôi: Diện tích ao 600 – 1.300m2 để dễ quản lý. Xung quanh ao thả bèo tây hoặc bèo cái, dùng tre, nứa chắn giữ cá quả không nhảy ra ngoài ao, đồng thời cũng tạo được nơi nghỉ ngơi kín đáo cho cá. Ao sâu 2 – 1,5m, nguồn nước phong phú.
- Mật độ nuôi: Cần dựa vào nguồn thức ăn và chất nước để quyết định, nhìn chung thả 10 con/m2 (cá 3 cm), sau đó xem tình hình sinh trưởng của cá, dùng lưới đánh bắt những con sinh trưởng quá nhanh để tránh tình trạng cá lớn nuốt cá bé, mật độ cuối cùng là 2 – 3 con/m2, nếu nguồn nước phong phú cũng có thể tăng thêm mật độ. Nếu thả cá cỡ 12 – 18 cm nuôi đến cuối năm có thể đạt 0,6 kg/con. Ngoài ra có thể thả ghép vào một ít cá mè để khống chế chất nước.
- Luyện cho ăn: Thức ăn sống và thức ăn chế biến cá đều có thể ăn được. Thức ăn sống gồm : tảo trần, cá rôphi con, tôm con, giun, dòi
Khi cho ăn cá con cần khống chế lượng thức ăn, quá nhiều dễ sinh ra hiện tượng nổi đầu. Nếu cho ăn thức ăn chế biến phải luyện ngay từ nhỏ (cỡ 2 cm) tốt nhất nuôi trong ao xi măng có nước chảy, mỗi m2 thả 500 con, bắt đầu cho ăn giun ít tơ, thức ăn cho vào sàn đặt cách mặt nước 10 cm khi cá đã quen ăn rồi dần dần giảm số lượng giun ít tơ tăng số lượng cá tạp nghiền nát cho đến khi cá quả quen với thức ăn chế biến thì thôi, lúc này cá đã đạt 4 – 5 cm (tỉ lệ sống 20%). Không được đang luyện cho ăn thức ăn chế biến lại cho thức ăn sống.
Thức ăn chế biến thường dùng 70% cá tạp nghiền nát; bột đậu tương hay bánh khô dầu 20%, men tiêu hoá 5%, một ít vi lượng và chất kháng sinh, vitamin. Mỗi ngày cho ăn 2 lần vào sáng và tối. Số lượng cho ăn 5 – 7% trọng lượng thân. Mùa sinh trưởng nhanh cũng không cho ăn quá 10%. Nuôi 1 năm cá đạt 0,5 kg/con, sản lượng 300 kg/666m2.
- Quản lý chăm sóc: Cá quả có khả năng nhảy phóng rất cao (nhảy cao khỏi mặt nước 1,5m); nếu nước ở ngoài ao thấp hơn nước trong ao thì cá nhảy qua ao có nước thấp, nước chảy hoặc trời mưa càng kích thích cá quả nhảy đi. Vì vậy nhất là khi có mưa rào phải thăm ao. Cá quả cần thức ăn phải tươi và sạch, cho nên trước khi cho ăn phải dọn rửa sàn ăn. Tuy cá quả có khả năng chịu được môi trường nước kém 02, nhưng không phải vì thế mà để nước bẩn. Phải thường xuyên bổ sung thêm nước mới, bảo đảm nước trong sạch, tốt nhất có giòng chảy.
Minh Dung, Tạp chí khoa học và công nghệ thuỷ sản – 1/2001
Chú ý khi nuôi cá lóc thịt
Căn cứ vào tính ăn của cá lóc có thể nuôi ghép với cá nuôi như cá mè, trôi, chép, trắm cỏ, rô phi, diếc để khống chế mật độ của những loài cá tạp và những cá sinh đẻ nhiều như cá rô phi, cá diếc nhằm đảm bảo thức ăn cho các loài cá kinh tế chủ yếu, cải tạo và nâng cao sức sản xuất các vùng nước. Tuy vậy, khi nuôi, cần tính cẩn trọng chú ý tỉ lệ, mật độ, kích cỡ cá thả.
Nuôi cá thịt ở ao
Viện Nghiên cứu nuôi trồng thủy sản I đã nuôi thử nghiệm cá lóc với cá rô phi (dùng cá rô phi làm thức ăn cho cá lóc).
Diện tích ao: 35m2.
Độ sâu: 70-80cm.
Mật độ thả: 0,5-1con/m2.
Qua 4 tháng nuôi cỡ cá lóc 80-100g/con, lớn được 350g/con. Tính ra cứ 4 kg cá rô phi con được 1kg cá lóc thịt.
Nuôi cá lóc ghép với cá nuôi khác
Diện tích ao: 200m2. Trên bờ ao bằng phên nứa cao 0,4m, thả bèo tây chiếm 5% diện tích ao nuôi. Nuôi ghép cá lóc với cá mè, trôi, chép, rô phi, diếc. Thức ăn bằng phân lợn ủ, mỗi tuần bón 2 lần. Mỗi lần 0,1-0,15kg/m3 nước.
Kết quả qua 3 tháng nuôi sản lượng nuôi ghép cá lóc tốt hơn ao nuôi khác và khống chế được sự sinh sản của cá rô phi, cá diếc, chưa thấy ảnh hưởng đến sinh trưởng cá khác. Tốc độ lớn của các loài cá nuôi trong ao là: cá lóc 147g/con, cá mè 120g/con, cá trôi 40g/con, cá rô phi 70g/con.
NTNN, 31/10/2003 & 6/11/2003
Kỹ thuật sinh sản và nuôi thương phẩm cá lóc
Nuôi cá lóc có thể đầu tư ở các mức độ khác nhau, không nhất thiết cần nhiều diện tích; người nuôi có thể đầu tư ở mức độ sản xuất thâm canh nhưng cũng có thể sử dụng các ao nhỏ hoặc nuôi trong bè, giai, bể xi măng hoặc lót bạt.
Vì thế, nghề nuôi cá lóc vừa phù hợp với những hộ nghèo nguồn vốn đầu tư ít, vừa phù hợp với các doanh nghiệp đầu tư nuôi với quy mô trang trại. Đây vừa là mô hình nuôi góp phần xóa đói giảm nghèo, vừa là mô hình làm giàu cho các doanh nghiêp của Việt Nam, nên cần được đầu tư phát triển và nhân rộng.
A. Kỹ thuật sinh sản và ương ấp
I. Một số đặc điểm của cá lóc
- Cá lóc thường sống ở đồng ruộng, sông, kênh rạch và có khả năng thích ứng cao với sự biến động về nhiệt độ nước của môi trường.
- Thức ăn ưa thích là động vật và thay đổi theo từng giai đoạn phát triển của cá.
- Cá lóc là loài có tốc độ tăng trưởng khá nhanh, trong điều kiện nuôi tốt thì sau 6 – 8 tháng cá có thể đạt 0,5 – 1,2 kg/con; cá cái thường lớn nhanh hơn cá đực.
- Cá lóc đẻ lần đầu khoảng 5 – 6 tháng tuổi, tốt nhất ở giai đoạn 1 – 4 tuổi, sinh sản tập trung từ tháng 4 – 8 và có tập tính bảo vệ trứng và cá con.
II. Nuôi vỗ cá lóc trong ao
- Diện tích ao: 200 – 1.000m2, mật độ: 40-50 kg/100m2
- Thức ăn: Nếu dùng cá tạp, phế phẩm lò mổ, khẩu phần 5 – 7% khối lượng/ngày. Nếu dùng thức ăn viên (đảm bảo 45% đạm) 1,5-2% khối lượng cá/ngày.
- Nuôi khoảng 45 – 60 ngày cá thành thục.
- Chọn cá bố mẹ: Cá đực cơ thể thon, bụng nhỏ, màu sắc rõ các vạch trên thân, không xây sát. Cá cái: bụng to, mềm, lỗ sinh dục màu hồng, lồi, trứng vàng rơm, bóng, đều.
III. Cho cá lóc đẻ và ấp trứng
- Cho cá đẻ tự nhiên trong ao
- Có thể đào hố đất nhỏ (2-4 m2), độ sâu 0,8-1,2m, có nguồn nước cấp vào ao đẻ. Mặt hố có thể thả ít bèo, rau muống hoặc làm vỉ che nắng. Mật độ 1 cặp/1 ao (1 đực, 1 cái).
- Nếu sử dụng ao to cho cá lóc đẻ cần tiến hành như sau:
- Cải tạo ao, vét bùn, rải vôi, phơi đáy.
- Lấy nước vào ao, để lắng trong 3-5 ngày. Duy trì mực nước 0,8-1m.
- Làm tổ cho cá đẻ bằng lá dừa cắm xuống ao hoặc rau, bèo, mỗi tổ cách nhau 3-4m, cắm cách đáy 0,3-0,5m. Để sẵn trong tổ rau muống, rơm rạ để giữ trứng khi cá đẻ.
- Kích thích cá lóc đẻ bằng phương pháp nhân tạo
- Yêu cầu: Chọn cá chính xác, đặc biệt cá đực; kích thích tố có hoạt tính cao.
- Đối với cá đực: Tiêm trước cá cái 8-10 tiếng, liều lượng: HCG 3.000 – 4.000 UI/kg hoặc tiêm cùng với lần tiêm thứ nhất của cá cái.
- Đối với cá cái: tiêm 2 lần:
- Liều 1: 500 – 1.000 UI/kg cá cái.
- Liều 2: tiêm sau lần 7 – 8 giờ tiếp tiêm lần 2: liều lượng: 3 – 5 não + 3.000 – 4.000 HCG UI/kg cá cái.
- Sau 12 – 15 giờ cá sẽ đẻ trứng
- Sau khi tiêm xong, có thể cho cá đẻ trong bể xi măng, bể đất lót bạt hoặc cho cá đẻ dưới ao. Bể đẻ có diện tích 2-3m2, độ sâu 0,3-0,5m; mật độ 1 cặp/1 bể. Nếu cho đẻ dưới ao cần cắm tổ cho cá, các tổ cách nhau 3-4m.
- Ấp trứng
- Có thể sử dụng nhiều phương tiện sẵn có để ấp trứng cá lóc: thau, bể nhựa,…
- Mực nước: 0,2-0,5m
- Mật độ ấp trứng trung bình: 2.000 trứng/dm2
- Thay nước: 6 giờ/lần
- Nguồn nước ấp: sạch, không nhiễm bẩn và nhiễm bệnh
- Chú ý: loại bỏ trứng ung (có màu trắng đục)
- Sau khi cá nở 2 ngày có thể chuyển cá ra các dụng cụ có diện tích lớn hoặc các ao nhỏ đã được cải tạo đúng kỹ thuật.
IV. Kỹ thuật ương cá lóc
- Ương trong bể
- Thức ăn:
- Dùng động vật phù du hoặc trứng đã luộc chín đánh tan trong nước cho cá ăn.
- Cho ăn 4-6 lần/ngày.
- Lượng cho ăn: thỏa mãn nhu cầu
- Mật độ ương: 2.000-4.000 con/m2.
- Sau 30 ngày, san thưa còn 1.000-2.000 con/m2
- Mực nước: 0,5-0,8m.
- Ngày thay nước 2-4 lần, mỗi lần thay 30% thể tích nước.
- Sau khoảng 10 ngày ương, tập cho cá ăn tép, cá nhỏ băm nát.
- Ương trong giai/vèo
- Yêu cầu: loại lưới mùng mắt nhỏ cá bột không lọt. Nước ao sạch, mát.
- Mật độ: 10.000-20.000/m2 sau 1 tháng san thưa còn 5.000-10.000 con/m2
- Thức ăn: tương tự như ương trong bể xi-măng, bể nhựa.
- Sau khoảng 10 ngày ương, tập cho cá ăn tép, cá nhỏ băm nát.
Minh Anh – Khuyến Nông VN, 14/06/2017
Mô hình nuôi cá lóc trong mùng lưới trên sông kết hợp cá trê vàng gặt cho hiệu quả kinh tế cao
Hiện nay để tận dụng diện tích mặt nước sông đưa vào sản xuất thì một số người dân ở các xã Ninh Quới, Ninh Quới A, Vĩnh Thanh, Vĩnh Bình của tỉnh Bạc Liêu đã phát triển mô hình nuôi “Cá lóc trong mùng lưới trên sông kết hợp cá trê vàng gặt”.
Đây có thể nói là một trong những mô hình nuôi trồng thủy sản hiệu quả như: năng suất cao (cá lóc từ 600-800 kg/10m2, cá trê vàng gặt năng suất từ 100-150kg/10m2), vừa tiện lợi dễ làm, vừa tiết kiệm được chi phí thức ăn cho cá nuôi, tận dụng được thức ăn dư thừa, không những giúp cá không thất thoát mà còn giải quyết được vấn đề ô nhiễm môi trường, phòng ngừa dịch bệnh trên cá nuôi và tăng thêm lợi nhuận để phát triển kinh tế hộ gia đình.
Với lợi thế luôn có nguồn nước ngọt ổn định trên sông quanh năm, một số người dân ở các xã này đã bố trí mùng xuống sông, rào lại từng khoảng nhỏ để nuôi. Thông thường người nuôi chọn loại lưới xanh (lưới thái) sợi 3.6 ly, kích thước lỗ lưới khoảng 2,5 cm. Có thể thiết kế mùng lưới nuôi cá lóc gồm 2 phần: Phần mùng lưới bên ngoài là 1 cái mùng lưới lớn hình chữ nhật bao bọc rộng 20-30m2 dùng để nuôi cá trê vàng gặt (có thể thả cá trê vàng gặt với mật độ 70-100 con/m2); còn phần phía trong mùng lưới có thể bố trí từ 2-3 cái mùng lưới nhỏ, mỗi cái rộng 8-10m2 để nuôi cá lóc (cá lóc đầu vuông hoặc đầu nhím mật độ 150-200 con/m2). Tốt nhất nên thiết kế mùng nuôi đảm bảo mùng lưới phía bên ngoài rộng gấp 2 lần các mùng nhỏ nuôi cá lóc bên trong. Ở mô hình này mặc dù chi phí đầu tư mùng lưới cao hơn so với cách nuôi truyền thống nhưng lại có nhiều tiện lợi: tránh cá lóc nuôi thất thoát, mùng lớn phía bên ngoài tận dụng nuôi được cá trê vàng gặt nên nâng cao thêm thu nhập cho hộ nuôi. Cá trê vàng gặt nuôi bên ngoài có thể tận dụng thức ăn dư thừa của cá lóc, làm sạch các chất bùn đáy lắng đọng phía dưới đáy và thành mùng lưới nuôi cá lóc nên hạn chế được vấn đề ô nhiễm nguồn nước trên sông rạch cũng như dịch bệnh cho cá nuôi. Từ đó giúp cá lóc nuôi lớn nhanh, nâng cao được năng suất và thu nhập.
Anh Trần Văn Tuấn ngụ tại ấp Ninh Điền, xã Ninh Quới, huyện Hồng Dân một trong những người nuôi mô hình này thành công chia sẻ: Nuôi cá lóc trong mùng lưới trên sông kết hợp cá trê vàng gặt có thể nuôi 3 vụ/năm nếu như người nuôi chủ động được nguồn thức ăn. Song hiện nay do nguồn thức ăn có thể không đáp ứng đủ nhu cầu nên có thể nuôi theo 2 vụ: Vụ 1 từ tháng 4-5 âm lịch và thu hoạch khoảng tháng 7-8 âm lịch. Theo anh Tuấn, đây là thời vụ nuôi thích hợp nhất, nhiệt độ dịu mát, nguồn thức ăn dồi dào, dễ tìm, cá lại nhanh lớn. Vụ 2 bắt đầu thả nuôi từ tháng 8-9 âm lịch và thu hoạch vào khoảng tháng 12-01 âm lịch. Vào thời điểm này nguồn thức ăn cũng dễ kiếm, đặc biệt là khi xuất bán vào thời điểm này cá sẽ có giá cao hơn những thời điểm khác trong năm. Nguồn thức ăn cho cá lóc chủ yếu là cá tạp, cá vụn, có thể bổ sung thêm thức ăn công nghiệp dạng viên nổi… Anh Tuấn cũng chia sẻ thêm trong mô hình nuôi này nên lấy công làm lãi bằng hình thức bắt ốc bươu vàng cho cá ăn, vừa giảm chi phí thức ăn vừa làm giảm địch hại trên ruộng lúa. Với cách làm này mỗi mùng lưới có thể giảm được khoảng 2.5-3 triệu đồng tiền thức ăn. Bên cạnh đó một kinh nghiệm không thể bỏ qua đối với mô hình nuôi cá lóc kết hợp cá trê vàng gặt trong mùng lưới trên sông là việc bố trí mùng phải làm sao cho đáy mùng lưới phải cách đáy sông khoảng 0,5m. Như vậy vừa giảm ô nhiễm cho đáy mùng, vừa hạn chế cua kẹp rách đáy có thể làm thất thoát cá, ngoài ra vì cá lóc có thể nhảy cao từ 1-1.2m nên miệng mùng phải cao hơn mặt nước khoảng 1,5m và phải may lưới phía trên để tránh chim bói cá ăn cá lúc mới thả giống, có thể che mát cho cá bằng cách bố trí tàu dừa bên trên mùng lưới.
Tóm lại, mô hình nuôi cá lóc trong mùng lưới kết hợp cá trê vàng trên các tuyến sông nước ngọt đã giúp cho cuộc sống của nhiều gia đình nghèo ở tỉnh Bạc Liêu từng bước thoát nghèo, tạo thêm công ăn việc làm cho người dân địa phương. Đây là mô hình nuôi không đòi hỏi vốn đầu tư cao nên phù hợp với mọi người dân có lòng đam mê phát triển kinh tế gia đình. Tuy nhiên để có thể áp dụng những tiến bộ kỹ thuật vào mô hình nuôi này nhằm mang lại hiệu quả kinh tế và sản xuất bền vững thì bà con nông dân cần lưu ý một số vấn đề trong các khâu kỹ thuật như: Chọn nơi đặt mùng nuôi phải đảm bảo độ sâu tối thiểu 2m, nguồn nước dồi dào, thông thoáng. Kỹ thuật bố trí mùng giống như giới thiệu ở phần trên của bài viết. Chọn cá lóc giống lồng 10 (kích cỡ từ 8-10cm), mật độ 150con/m2; cá trê vàng gặt loại 100-110 con/kg, mật độ 70-100con/m2. Trước khi thả cá nên tắm cá bằng nước muối 3% (pha 300g muối/10 lít nước) kết hợp với lá xoan (vò nhuyễn) từ 200-300g/10 lít nước trong 3-5 phút. Lượng thức ăn cho ăn trong ngày từ 3-5% trọng lượng đàn cá lóc trong mùng, trong quá trình cho ăn hàng ngày trộn Vitamin C, khoáng vi lượng và tỏi tươi với liều lượng từ 5-10g/kg thức ăn để tăng cường sức đề kháng và khả năng tăng trưởng (nên trộn trước khi cho ăn 30 phút), định kỳ 15 ngày/lần trộn thuốc sổ giun (loại dành cho gia cầm) vào thức ăn cho cá (liều lượng tùy theo sản phẩm), nên cho cá ăn trong sàng ăn có diện tích 1m2 và nên đặt sàng ăn cách mặt nươc 5-10cm. Trong quá trình nuôi để phòng một số bệnh nhiễm khuẩn trên cá thì nên bỏ vào trong mùng nuôi từ 3-5kg dây giác/mùng diện tích 10m2 (nên cột lại và treo giữa mùng nuôi), treo túi vôi CaCO3 từ 5-7kg/mùng 10m2 (định kỳ 7 ngày/lần nên thay dây giác và túi vôi).
Nguyễn Đức Khoa – TTKNKN Bạc Liêu – Khuyến nông VN, 18/03/2014
Nuôi cá lóc công nghiệp trong vèo lưới
Đến thăm trang trại của chị Phan Thị Vân ở ấp 3 xã Thạnh Trị huyện Đình Đại, nằm bên dòng Ba Lai hiền hòa vào những ngày cuối tháng 7 đã thật sự thu hút tôi bởi màu xanh của cây lá mà trước đó vài năm là một vùng đất cằn cổi không trồng được gì bởi nước mặn. Lối vào đã rợp bóng mát của hàng cây so đủa mà chị trồng để cải tạo đất và lấy lá để nuôi dê. Nhưng điều làm tôi thật sự chú ý lại là những vèo lưới lớn, nhỏ đủ cở được giăng dưới những ao mà trước đây là nơi nuôi cá lóc công nghiệp. Và khi bắt chuyện tôi mới biết đó là những vèo đang nuôi cá lóc chứ không phải là những vèo ươm cá giống như các trại cá khác.
Nuôi cá lóc công nghiệp trong vèo, một mô hình thật lạ và nó có lợi gì hơn so với trong ao, trong hầm? Nhớ lại 3 năm trước, năm 2003 chị Vân bắt tay vào nghề nuôi thủy sản nước ngọt với nhiều loại như: Rô phi, Điêu hồng, Rô đồng, cá lóc, cá sấu, ba ba… nhưng đối tượng được chị chọn nuôi chủ lực để tập trung đầu tư chính là con cá lóc. Năm 2004, chị Vân bắt tay vào nuôi thử nghiệm cá lóc môi trề có nguồn gốc từ An Giang và Đồng Tháp. Bước đầu gian nan và gặp không ít khó khăn do chưa có kinh nghiệm nên cá hao hụt nhiều và thường hay mắc bịnh. Trầy trật mãi cuối cùng chị cũng gặt hái được thành công. Vụ nuôi đầu tiên, 2 ao cá lóc cho sản lượng hơn 20 tấn trị giá trên 400 triệu đồng, trừ hết chi phí chị lãi được trên 100 triệu đồng.
Thừa thắng xông lên, năm 2005, chị Vân tăng lên 4 ao nuôi với diện tích hơn 10.000m2, với lượng cá giống thả nuôi trên 300 ngàn con. Chị Vân cho biết: nuôi cá lóc công nghiệp không khó lắm, điều quan trọng là yếu tố con giống, nguồn nước, thức ăn và phòng trị bịnh; nếu mua con giống không đồng đều, cá bị xây xát, có lượng cá lóc đồng pha trộn thì sẽ bị hao hụt nhiều hoặc chậm lớn. Năm 2005, sau 6 tháng nuôi, chị Vân lại trúng đậm, trọng lượng bình quân mỗi con đạt trên 1kg, sản lượng của 4 ao nuôi đạt 57 tấn, giá bán bình quân 18.000đồng/kg, chị đã thu về trên 1 tỉ đồng, lãi 270 trịêu đồng tương đương với thực lãi 1 ha mặt nước nuôi tôm sú thâm canh, nhưng mức độ thiệt hại và rủi ro không đáng kể. Tuy liên tục thắng lợi nhưng chị vẫn băng khoăn về con giống hao hụt, chậm lớn và kích cỡ không đều, bị tư thương ép giá làm chị trăn trở mãi, thôi thúc chị đến tận An giang, Đồng Tháp để học hỏi.
Năm nay 2006, chị quyết định ứng dụng mô hình nuôi cá lóc công nghiệp trong vèo lưới, trong ao đất 2000m2 trước đây, chị cho đặt nhiều vèo lưới theo độ tuổi của cá bao gồm vèo ươm, vèo nuôi cá tăng trưởng và vèo nuôi cá thương phẩm. Tuỳ theo độ tuổi của cá mà mật độ mỗi vèo khác nhau. Vèo nuôi cá thương phẩm với mật độ là 50 con/m2. Vèo được xây dựng hình vuông hoặc hình chữ nhựt, đáy vèo đặt cách đáy ao khoảng 5 tấc, độ sâu nước trong vèo phải đạt từ 2,5m trở lên. Chị Vân cho biết: nuôi cá lóc trong vèo có nhiều ưu điểm như nuôi ở mật độ cao để có sản lượng lớn, thức ăn được tập trung, cá không bị cọ sát đáy ao hoặc không chui được xuống bùn nên ít bị xây xát, cá tập trung ăn và ngủ rồi lại ăn, ít nhiễm bịnh nên tỉ lệ hao hụt thấp và nhất là việc xử lý thuốc phòng trị bịnh cho cá thuận lợi và ít tốn kém hơn trong ao đất. Đặc điểm cá nuôi trong vèo lưới tăng trọng nhanh và kích cỡ đồng đều.Gía trị thương phẩm cao hơn cá thả lan. Đồng thời, bên ngoài vèo lưới thả thêm các loại cá ăn tạp nhằm cải tạo ao , tận dụng thức ăn thừa, đây cũng là nguồn thu không nhỏ.
Tâm sự với chúng tôi chị cho biết toàn bộ lượng cá lóc đang nuôi trong các vèo lưới hơn 117 ngàn con đều là cá giống được chị cho sinh sản và ươm nuôi tại các ao nuôi của chị từ 180 con cá lóc bố mẹ đã được tuyển chọn, nuôi dưỡng cho đẻ.Với những con cá lóc bố mẹ có trọng lượng mỗi con từ 3 đến 4 kg cho đẻ trứng trong các ổ nhân tạo, sau khi cá đẻ, trứng được vớt lên ấp nở rồi ươm lên cá giống. Tuy tỉ lệ ươm cá giống chỉ đạt hơn 5%, nhưng những gì thành công bước đầu cũng đã mở ra triển vọng cho chị và người nuôi trong tỉnh.
Việc thành công nuôi cá lóc trong vèo lưới của chị Vân làm tôi nhớ lại những thử nghiệm của anh Lê văn Nhỏ ở ấp 2 xã Phú Long huyện Bình Đại cũng nuôi cá lóc trong vèo lưới với qui mô nhỏ hơn, mỗi vèo lưới chỉ 30m2 (mật độ 100con/m2), cũng bằng thức ăn cá biển xay. Sau 4 tháng nuôi đạt trọng lượng bình quân 700g/ con, thu được 2,5 tấn, trừ chi phí anh Lê văn Nhỏ còn lãi 26 triệu đồng và lượng cá nuôi xen ngoài ao đất. Tương tự chú Nguyễn Văn Long ấp Tân Hưng xã Tân Khánh Trung huyện Chợ Lách, năm 2005 cũng đã tận dụng mương vườn nuôi cá lóc trong vèo lưới cũng đã có lãi với qui mô nhỏ. Điều này, cho thấy đây là mô hình có thể nhân rộng và phát triển qui mô nuôi theo khả năng của từng hộ gia đình.
Vẫn là người đi đầu trong nghề nuôi cá lóc thương phẩm thâm canh ở Bến Tre, chị Vân lại một lần nữa minh chứng cho sự nhạy bén, năng động trong phát triển kinh tế và tinh thần lao động sáng tạo trong sản xuất, chị cho biết, mới đây chị vừa thu hoạch ao cá lóc bông, sản lượng 13 tấn và trong tháng 8 này sẽ thu tiếp một ao cá lóc bông ước sản lượng khoảng 25 tấn và cũng vừa thả nuôi thêm một ao cá lóc bông.
Có thể nói, trong quá trình chuyển dịch kinh tế thủy sản vùng nuớc ngọt ở Bến Tre, nhiều mô hình nuôi thuỷ sản đã đem lại hiệu quả cho người nông dân, trong đó mô hình nuôi cá lóc công nghiệp thâm canh trong vèo lưới của chị Vân đã mở ra cho Tỉnh một tiềm năng mặt nước ở vùng nước ngọt và nhất là hai bên dòng Ba Lai một nghề nuôi không thua gì con tôm sú miệt biển.
Trần Tâm (BTre, 26/12/2006 )
Nuôi cá lóc trong mùng lưới
Nuôi cá lóc thịt trong mùng lưới (vèo) xuất hiện ngẫu nhiên tại vùng lũ những năm gần đây. Người dân nuôi cá lóc đã nghĩ đến dùng lưới thưa để tiện việc quản lý và cho cá ăn nhằm hạn chế thiệt hại.
Chuẩn bị mùng
Loại hình nuôi trong mùng lưới chỉ đặt trong ao là tốt nhất.
- Kích thước mùng lưới đặt trong ao phổ biến là 5x3x2m (không tính phần trên mặt nước) nuôi được khoảng 3.000-5.000 con. Từ mặt trên trở lên 1-1,5m dùng lưới cước may nối các phần dưới và căng thẳng các góc, cố định các góc trên và dưới tạo thành một cái mùng lật ngược. Khoảng cách từ đáy lưới đến đáy ao là 0,5m, không nên để sát đáy ao vì chất thải và thức ăn thừa sẽ tích tụ gây ô nhiễm nước.
- Lưới được chọn để may mùng là loại lưới được dệt có sợi chỉ lớn bằng nilon ít thấm nước và có độ chắc cao, bền vững, tránh oxy hoá. Thông thường người nuôi chọn lưới sợi 3,6 ly, kích thước lỗ lưới 2,5cm, lưới có màu xanh rêu (lưới Thái), có thể sử dụng liên tiếp 3 vụ.
Thời vụ nuôi
Cá lóc sinh sản quanh năm nên có thể nuôi 3 vụ/năm nếu chủ động được nguồn thức ăn. Song hiện nay do lượng thức ăn cung ứng nên có thể chọn vụ nuôi chính:
- Vụ 1: Bắt đầu từ tháng 4-5, thu hoạch vào tháng 8-9 âm lịch. Đây là thời vụ thích hợp nhất, nhiệt độ dịu mát, nguồn thức ăn dồi dào, dễ tìm, cá lớn nhanh.
- Vụ 2: Bắt đầu từ tháng 8-9, thu hoạch vào tháng 12 và tháng Giêng. Giai đoạn này có nhiều nguồn thức ăn từ nguồn phụ phẩm thuỷ sản tự nhiên.
- Vụ 3: Bắt đầu từ tháng Giêng đến tháng 7, nên hạn chế nuôi ở vụ này vì thời gian này cá chậm lớn, thức ăn cho cá hiếm và đắt, người nuôi không có lãi.
Thức ăn
- Thức ăn cho cá lóc là những loại cá tạp, cua, ốc, tấm gạo nấu nhừ cho ăn lúc hiếm thức ăn. Khi cá lớn, cho ăn nguyên con hoặc xay nhuyễn, có thể pha chế được nhiều phụ phẩm thay thế làm thức ăn cho cá.
- Dụng cụ cho cá ăn là sàn tre đan lưới hơi thưa và nhẵn được đặt xâm xấp mặt nước, xung quanh gờ có chắn để tránh thức ăn tuột trôi ra ngoài, đồng thời cũng giúp cho cá lên mặt sàn để ăn.
- Tập cho cá ăn đúng giờ để dễ kiểm tra, phát hiện mọi biến đổi của cá để kịp thời phòng trị bệnh cá. Nên cho cá ăn ngày 2 lần: sáng từ 7-8 giờ, chiều từ 4-5 giờ. Định mức thức ăn: 8-10% trọng lượng cá.
Ưu điểm của loại hình nuôi này là rất an toàn trong mùa lũ, nước lên đến đâu nâng mùng lên đến đó. Khi đặt mùng lưới nuôi trong ao chỉ chiếm một phần diện tích ao, phần còn lại có thể thả loài cá khác để tận dụng thức ăn thừa rơi vãi và sản phẩm thải từ cá nuôi mùng lưới, vừa đảm bảo môi trường nuôi khép kín và hạn chế được dịch bệnh, tăng thu nhập.
NTNN, 22/4/2004
Tập tính sinh sản và sản xuất cá lóc bột cá lóc giống
Tập tính sinh sản:
Mùa vụ đẻ trứng từ tháng 4 – 7, rộ nhất trung tuần tháng 4 – 5. Cá tròn 1 tuổi, thân dài 20cm nặng 130g đã thành thục đẻ trứng. Số lượng trứng tuỳ theo cơ thể to nhỏ mà thay đổi. Cá nặng 0,5 kg số lượng trứng 8.000 – 10.000 cái, cá nặng 0,25 kg, số lượng trứng 4.000 – 6.000 cái.
a) Ðẻ tự nhiên:
Diện tích ao đẻ từ 190 – 200m2. Ðáy ao chia làm 2 phần : Phần sâu 1m, phần nông 0,3m. Trong ao nên trồng một ít cây thực vật thuỷ sinh như rong, bèo bờ ao đầm nện chặt và cứ để cho cỏ mọc tự nhiên. Xung quanh ao rào cao 30 – 40cm đề phòng cá phóng ra ngoài. Thức ăn là cá con, lượng cho ăn 25g/con, hằng ngày cho ăn 1 lần, không nên cho ăn quá nhiều phòng cá quá béo. Mỗi m3 nước thả 1 con đực và 2 – 3 con cái. Những con cá đực thành thục thì thân dưới có màu tím hồng, bụng béo mềm, lỗ sinh dục có màu phấn hồng. Con cái thành thục có bụng to, phần ngực căng tròn vẩy trắng, mồm hơi vàng, lỗ sinh dục to và lồi ra có hình tam giác. ở chỗ có nhiều rong cỏ cá cái dùng cỏ làm ổ, sau đó cá cái và cá đực kéo đến đẻ trứng và thụ tinh ở đây (đẻ trứng vào sáng sớm). Ðẻ xong cả con đực và cái không rời khỏi ổ mà nằm phục dưới đáy bảo vệ trứng cho đến khi nở thành con mới rời ổ và dẫn đàn con đi kiếm ăn, lúc này cũng là lúc mà cá bố mẹ ăn cả thịt những con cá con khác đã tách đàn , cho nên đến mùa sinh sản sáng sớm thăm ao hễ phát hiện thấy có cá con là vớt đem ương sang ao khác.
b) Sinh sản nhân tạo:
Dùng não thuỳ cá chép, cá mè và prolan B để tiêm cho cá. Số lượng thuốc tiêm là 14 não cá mè/kg cá mẹ (1 não cá chép bằng 2,7 – 3 não mè). Tiêm lần thứ nhất 2/5 số lượng, lần thứ 2 tiêm số còn lại. Dùng prolan B thì 1.600 – 2.000 UI/kg cá mẹ, tiêm lần 1 là 1/3 số thuốc, lần 2 : số còn lại. Cá đực tiêm bằng 1/2 cá cái.
Tiêm xong ghép cá cái và đực vào bể đẻ, sau 14 tiếng cá động hớn và đẻ trứng, trứng thụ tinh mới đầu chìm dưới đáy bể sau khi hút nước trương lên nổi lơ lửng trong nước.
Vớt trứng thụ tinh cho vào bình ấp hoặc bể ấp. Dụng cụ ấp trước khi cho ấp phải tiêu độc bằng 0,1 ppm xanhmêtylen, tiêu độc xong lấy nước vào một đầu, đầu kia tháo nước ra giữ mức nước không thay đổi, trong thời gian ấp giữ nhiệt độ nước ít thay đổi, biên độ thay đổi chỉ dưới 2oC nếu không sẽ ảnh hưởng đến tỉ lệ nở. Nhiệt độ nước 25oC thời gian ấp nở là 36 tiếng, nhiệt độ 26 – 27oC thời gian 25 tiếng.
Phương pháp nuôi
2.1 Nuôi cá bột và giống:
Cũng giống như ương nuôi các loài cá bột khác, trước khi thả cá phải tẩy dọn ao sạch, gây nuôi thức ăn tự nhiên sẵn trong ao. Mật độ nuôi 5 – 10 vạn/666m2, thông thường là 6 – 7 vạn. Trong 7 – 8 ngày đầu chưa cần cho ăn, sau đó vừa cho ăn vừa bón phân, mỗi vạn cá bột cho ăn 3 – 4kg tảo trần, nuôi như vậy 18 – 20 ngày khi toàn thân cá biến thành màu vàng bắt đầu xuất hiện vảy, sau đó biến thành màu đen, thân dài 3 – 6 cm, tỉ lệ sống 60 – 65%. Nuôi tiếp 20 ngày nữa, thân dài 6 cm, lúc này có thể cho ăn cá con, tôm con hoặc thức ăn chế biến giàu đạm. Sau 2 tháng nuôi cá đạt 9 – 12cm, lúc này có thể thả vào ao to để nuôi thành cá thịt.
Minh Dung, Tạp chí khoa học và công nghệ thuỷ sản – 1/2001
Đặc điểm sinh học của cá lóc
- Là loài cá dữ, phàm ăn, tính ăn rộng: Cá nhỏ ăn : giáp xác, chân chèo, ấu trùng bọ gậy, ấu trùng côn trùng, tôm co n, nòng nọc, các loại cá nhỏ khác. Cá trưởng thành ăn tạp: cá, ếch, nhái, tôm…
Chúng ăn mạnh vào mùa hè, khi nhiệt độ giảm xuống dưới 12 o C cá ngừng kiếm ăn. Cá béo vào trước mùa đẻ, cá ở vùng nước lợ béo hơn ở vùng nước ngọt.
- Sinh sản: Cá 1 – 2 tuổi bắt đầu đẻ trứng, có thể đẻ 5 lần/năm. Sau khi đẻ, cá mẹ bảo vệ cá con khoảng một tháng rồi tiếp tục đẻ lần khác. Mùa đẻ ở miền Bắc vào tháng 5 – 8, tập trung vào tháng 4 – 5.
Cá đẻ ở nơi yên tĩnh, có nhiều cây cỏ thực vật thủy sinh, đẻ vào sáng sớm, sau mỗi trận mưa rào 1 – 2 ngày. Trước lúc đẻ, cá làm tổ hình tròn, đường kính tổ khoảng 40 – 50 cm. Ở nhiệt độ 20 – 35oC sau ba ngày nở thành con. Trong môi trường tự nhiên, sau 3 ngày cá con tiêu hết noãn hoàng, lớn dài 4 – 5 cm bắt đầu tách khỏi đàn sống độc lập.
- Sinh trưởng: Cá lớn nhanh vào mùa xuân hè. Cá lóc 1 tuổi dài 19 – 39 cm, nặng 100 – 750 g. Cá hai tuổi thân dài 38 – 45 cm, nặng 600 – 1400 g. Cá ba tuổi dài 45 – 59 cm, nặng 1.200 – 2.000 g. Cá có thể sống trên 10 năm dài 67 – 85 cm, nặng 7000 – 8000 g.
Cá thích ở nơi có rong đuôi chó, cỏ dừa, tóc tiên, vì nơi này chúng dễ ẩn mình để rình mồi. Mùa hè thường sống ở trên tầng mặt, mùa đông khi nhiệt độ dưới 8 o C cá thường xuống sâu hơn, ở nhiệt độ 6 o C cá ít hoạt động.
- Phân biệt cá đực, cá cái:
- Cá đực: thân dài, thon, đầu to, bụng nhỏ rắn chắc, lỗ sinh dục và lỗ hậu môn riêng biệt.
- Cá cái: thân ngắn, đầu nhỏ, bụng to, mềm sệ xuống, lỗ sinh dục to, lồi gần sát lỗ hậu môn.
Khuyến Ngư Kiên Giang (Theo KS Ngô Trọng Lư)
Chú ý khi nuôi cá lóc con
Căn cứ vào tính ăn của cá lóc có thể nuôi ghép với cá nuôi như cá mè, trôi, chép, trắm cỏ, rô phi, diếc để khống chế mật độ của những loài cá tạp và những cá sinh đẻ nhiều như cá rô phi, cá diếc nhằm đảm bảo thức ăn cho các loài cá kinh tế chủ yếu, cải tạo và nâng cao sức sản xuất các vùng nước. Tuy vậy, khi nuôi, cần tính cẩn trọng chú ý tỉ lệ, mật độ, kích cỡ cá thả.
Trước khi nuôi cá lóc phải dọn tẩy ao sạch sẽ để cho sinh vật phù du phát triển mạnh mới thả cá bột vào ao. Mật độ ương 5-10 vạn con/mẫu. Sau khi thả 7-8 ngày chưa cần cho cá ăn, sau đó một mặt vừa bón phân vào ao, mặt khác vớt động vật phù du bổ sung vào cho cá ăn (3-4 kg động vật phù du cho một vạn cá). Nuôi như vậy 18-20 ngày thấy cá có màu vàng, trên thân xuất hiện vảy, sau đó chuyển sang màu đen, thân dài 3-6cm, tỉ lệ sống khoảng 60-65%, nuôi tiếp 20 ngày nữa cá đạt 6cm, lúc này bắt đầu cho cá ăn tôm, tép, cá con hay thức ăn chế biến có đạm cao. Nuôi trong 2 tháng cá đạt cỡ 9-12cm thành cá giống đưa ra ao lớn nuôi thành cá thịt.
NTNN, 31/10/2003 & 6/11/2003
Nhân giống cá lóc đen
Tại khu vực ĐBSCL, kỹ thuật nhân giống cá lóc bằng cách dùng kích thích tố sinh sản đang được nông dân ứng dụng khá rộng rãi. Hiệu quả thu được từ nguồn giống này khá lớn: cứ 100% cá mẹ sinh sản, thu được 70 – 80% cá giống. Qua nghiên cứu cho thấy, yếu tố quyết định thành công là khâu chọn, nuôi vỗ cá bố mẹ và sử dụng kích thích tố đúng liều lượng.
Chọn và nuôi vỗ cá bố mẹ
Nên chọn cá bố mẹ có trọng lượng trung bình 0,3 – 0,8kg trong tự nhiên rồi tiếp tục nuôi vỗ thành thục sinh dục cá trong điều kiện nuôi ở lồng đặt trong ao đất có kích thước 2 x 2,5 x 2m và mật độ thả nuôi là 10 con/m2. Trong thời gian nuôi vỗ, nguồn thức ăn được sử dụng là cá biển và cá tạp nước ngọt, với khẩu phần ăn dao động từ 1,5-2% trọng lượng cá/ngày (2 lần/ngày). Quá trình nuôi vỗ được định kỳ kiểm tra 30 ngày/lần, nhằm xác định độ chín muồi của tuyến sinh dục và sự phát triển về kích thước trứng.
Việc chọn cá bố mẹ thành thục để tham gia vào sinh sản nhân tạo là yếu tố quyết định đến kết quả sản xuất. Nếu chỉ dựa vào các biểu hiện bên ngoài để xác định cá lóc có tuyến sinh dục thành thục tốt hoặc không tốt là rất khó. Vì vậy, khi cho cá đẻ, tiêu chuẩn kỹ thuật cần thiết là cá đực phải có hình dáng thon, đầu nhỏ, lỗ sinh dục cách xa lỗ hậu môn và có màu hơi đỏ. Cá cái phải có bụng to, tròn đều, mềm vừa phải, dùng que thăm trứng thấy trứng có màu vàng tươi, kích thước trứng dao động từ 1,26 – 1,6mm, nhân có xu hướng chuyển cực.
Sử dụng kích thích tố sinh dục
Có thể sử dụng não thuỳ cá chép hoặc sử dụng hormon HHG. Hiệu quả sử dụng của 2 loại kích thích tố này tương đương nhau (100% cá sinh sản, tỉ lệ thụ tinh trên 92%, tỉ lệ nở trên 66%). Sự khác biệt giữa 2 loại này là ở giá cả thị trường và sự tiện lợi trong quá trình sử dụng.
NTNN, 16/6/2003
Ép cá bông giống chóng giàu lên – Nghề mới trên đất cù lao Đồng Tháp Mười
Thị trường xuất khẩu cá tra, ba sa càng sôi động, chính là động lực thúc đẩy người chăn nuôi đầu tư mạnh, khiến diện tích các ao, hầm và mặt nước sông ở các tỉnh An Giang và Đồng Tháp tăng rất đang kể trong thời gian gần đây. Bên cạnh hai loại cá tra, ba sa, ở ĐBSCL còn có một loại cá có chất lượng thịt rất ngon được người tiêu dùng trong nước ưa chuộng và hy vọng có ngày được góp mặt với bè bạn năm châu, đó là cá bông. Để giảm tỉ lệ hao hụt trong chăn nuôi và chất lượng thịt ngon đáp ứng yêu cầu thị trường, chọn con giống là khâu quan trọng đối với người nuôi.
Anh Lâm Quang Dũng ở xã Long Khánh huyện Hồng Ngự tỉnh Đồng Tháp, từ đời cha giờ tới đời anh chuyên sống bằng nghề nuôi cá tra bán cho các hộ nuôi cá thịt trong và ngoài tỉnh. Vào giữa thập niên 90 về trước, vào khoảng mùng 5/5 hàng năm, khi nước sông Tiền chuyển từ màu trong xanh sang màu vàng do phù sa thì gia đình anh Dũng chạy ghe lên đầu nguồn sông Tiền, nơi tiếp giáp với biên giới Campuchia để mua cá tra con. Đôi khi phải sang tận Campuchia mới mua được từ những người đặt lưới đáy vớt cá tra con từ dưới sông lên bán. Lúc này con cá không lớn hơn que tăm, nên không thể bắt bằng tay mà phải dùng muỗng để múc.
Cá “lạc hậu” thu nhập không nhỏ
Sau khi mua về thả vô ao, cho ăn, thức ăn của cá lúc này là hột vịt và nước nắm kho tán ra, sau một tuần thì cho ăn ốc xay nhuyễn. Ba tuần sau thức ăn là cá linh trộn với rau muống xay nhuyển bỏ thêm bột gòn để kết dính thức ăn lại không bị rả khi thả xuống nước. Lúc cá được 1,5 tháng tuổi thì bán cho những hộ nuôi cá thịt, lúc này dân trong nghề gọi là “cá lạc hậu”.
Tuy nhiên, do khai thác một cách bừa bãi nên nguồn lợi thuỷ sản này mau chóng cạn kiệt và trở nên khan hiếm. Dần dần cá tra con trên sông Tiền còn quá ít nên không còn ai đặt lưới. Đến năm 1995 thì hầu như không còn tìm thấy nguồn cá tra giống trong tự nhiên. Bấy giờ vấn đề con giống đặt ra buộc người trong nghề phải có biện pháp giải quyết.
Vào năm 1997, người dân nơi đây mới bắt đầu thành công trong việc dùng thuốc kích dục kích thích cho cá tra sinh sản nhân tạo trong hồ, chum, vại. Từ đó mở ra một hướng đi mới cho người dân sáu xã cù lao: Long Khánh, Long Thuận, Phú Thuận… của huyện Hồng Ngự. Đó là nghề “ép cá tra con nhân tạo”. Nhưng riêng gia đình anh Dũng trong thời gian khan hiếm cá tra giống đã chuyển sang nuôi một loại cá giống là cá bông con.
Cuối những năm 90, anh Dũng đã tìm kiếm học hỏi và đã thành công trong việc ép cá bông con bán cho những hộ chăn nuôi cá thịt trong và ngoài tỉnh Đồng Tháp. Thấy anh Dũng thành công nên bà con trong vùng cù lao cũng theo anh học hỏi kinh nghiệm và phát triển nghề mới này. Nghề ép cá tra và cá bông mang lại cho bà con sáu xã cù lao phất lên nhanh chóng.
Anh Dũng kể: “Lúc trước theo nghề của ông già nên tôi tiếp tục nuôi cá tra lạc hậu. Nhưng từ khi nguồn con giống trong tự nhiên khan hiếm buộc tôi phải chuyển hướng làm ăn. Tôi quyết định ép cá bông con, vì thấy thị trường cá bông thịt trong nước rất ổn định nên được người chăn nuôi đầu tư nhiều. Từ đó nhu cầu con giống cao, giá cá con ổn định. Vả lại thời gian từ khi cá mẹ đẻ cho tới lúc bán cá con cũng ngắn nên không tốn công chăm sóc nhiều”.
Mất công, tốn sức bù lại lợi nhuận cao
Thời gian đầu, anh Dũng nuôi thử nghiệm 60 con cá bố mẹ. Sau nhiều năm, bây giờ diện tích mặt ao hầm của anh trên 20.000m2 và số lượng cá bố mẹ trong hầm đã lên đến 1.000 con, mỗi con trong lượng trung bình từ 3 – 4kg/con, giá cá giống là 50.000 – 60.000 đ/kg. Cá giống phải từ hai năm tuổi trở lên mới bắt đầu đẻ. Mỗi năm cá mẹ đẻ từ 1- 3 lần, khâu chăm sóc cá bố mẹ lại không quá cực. Từ tháng 1 -5 là vào đầu mùa sinh sản phải cho cá ăn 1 lần /ngày để cá có đủ sức đẻ, khi cá ngưng đẻ thì cho ăn duy trì 3 – 5ngày/lần.
Thức ăn cho cá bông là cá biển hoặc cá linh thả xuống hầm. Tóm lại, bất cứ loại cá nào cũng được, thấy rẻ và không có gai thì mua. Cá bông là loại rất dễ cho ăn. Khi cá sắp đẻ mỗi ngày bơm tháo nước sông vào hầm một lần cho mát. Diện tích ao nuôi ngang 30 m, dài 70m và thả không quá 100 con giống/hầm.
Hiện nay, nghề ép cá bông con đã lan rộng khắp nơi trong huyện Hồng Ngự. Đầu tiên là anh em của anh Dũng rồi đến láng giềng và cả xã cùng nuôi. Vào mùa cá đẻ, các thương lái lui tới xã cù lao này rất nhộn nhịp.
Ông bà ta ngày xưa thường nói “Làm ruộng ăn cơm nằm, chăn tằm ăn cơm đứng”. Từ khi theo nghề nuôi cá bông con, anh Dũng cho biết còn cực hơn chăn tăm nhiều, nhất là trong mùa cá sinh sản. Chăm sóc cá đẻ còn khó hơn chăm sóc trẻ sơ sinh. Phải theo dõi từng giờ xem con cá thế nào, khoẻ hay yếu để kịp thời can thiệp bằng thuốc. Bởi vì đây là thời điểm thu hoạch, nếu cá con có tỉ lệ hao hụt cao thì ít lời. Vào mùa cá đẻ, hầu như vợ chồng anh Dũng luôn có mặt tại ao. Khi cá bị bệnh, vợ chồng anh quên cả ăn là chuyện thường xảy ra.
Để nhận biết cá sắp đẻ, theo kinh nghiệm của vợ chồng anh Dũng, khi thấy trong hầm có cặp cá đực, cá cái dùng miệng cắn rác trên mặt nước lôi đi thì đó là hiện tượng kéo ổ. Như vậy chỉ còn 5 – 7 ngày cá sẽ đẻ. Sau khi đẻ được 4 ngày, dùng rổ bằng lưới mùng vớt từng ổ cá một, rồi cho vào vèo (một cái mùng lưới có diện tích 2 m x 1,5 m) đã được chuẩn bị trước trong một cái ao khác để tránh cho cá con không bị cá tạp ăn thịt và tiện việc chăm sóc.
Khâu cho ăn và chăm sóc cá con rất quan trọng, giai đoạn này quyết định thành công hay thất bại cho một mùa cá. Trung bình mỗi con cá mẹ đẻ khoảng 10.000 con cá con. Nếu đẻ từ tháng 1 – 3 âm thì tỉ lệ hao hụt là 10%, nếu đẻ từ tháng 4 – 5 âm lịch thì tỉ lệ hao hụt rất cao, vì lúc này mưa nhiều nên cá con dễ nhiễm bệnh, nhưng khi mưa xuống thời tiết mát mẻ lại là mùa cá đẻ nhiều. Để giảm tỉ lệ hao hụt cá con, anh Dũng đang nghĩ cách làm sao cho cá đẻ rộ vào tháng 2 – 3 âm lịch để cá con ít chết.
Thức ăn cho cá con cũng dễ tìm, lúc cá mới nở cho ăn trứng vịt. Sau 3 ngày thì cho ăn cá biển thái bỏ xương xay nhuyễn. Lúc cá 10 ngày tuổi thì bán được, ở giai đoạn này giá cá trung bình 200 – 400 đ/con. Chị Dũng tươi cười nói với chúng tôi “Nghề ép cá bông con cực lắm nhưng vui, nhất là vào mùa cá đẻ rộ. Thị trường khan hiếm con giống, lái cá điện thoại tới liên tục yêu cầu mình hẹn ngày cho họ tới mua cá. Bởi vậy dù cực nhưng kiếm lợi nhiều nên tôi vẫn ham nuôi”. Trong nghề nhân giống cá, khâu chọn cá bố mẹ và khâu chăm sóc đóng vai trò rất quan trọng.
Anh Dũng cho biết, lúc đầu vì chưa có kinh nghiệm nên tỉ lệ sống trên từng ổ cá là 50%, nhưng sau nhiều năm kinh nghiệm, anh đã nắm chắc nuôi là có lãi mà lãi cao. Khi bắt con cá giống trên tay chỉ cần nhìn màu vảy là anh biết được cá đã đẻ rồi hay chưa. Nếu chưa đẻ lớp vảy cá sẽ bóng mượt và thân hình mập mạp; đẻ rồi thì lớp vảy sần sùi, cá bị ốm thì trông là biết ngay. Dựa vào những kinh nghiệm đó, anh Dũng theo dõi đàn cá của mình rất chính xác để làm ổ cho cá đẻ và vớt cá vào vèo. Nhờ vậy, đàn cá của anh có tỉ lệ sống rất cao.
Từ khi có dịch cúm gia cầm xảy ra, giá cá tra, ba sa ở thị trường trong nước tăng vọt kéo theo giá cá bông, hiện nay giá cá bông trên thị trường là 25.000 – 28.000 đ/kg. Đây là cái giá “trong mơ” của những hộ nuôi cá bông thịt, giá cá bông con cũng tăng theo. Đây quả là mùa bội thu của những hộ chăn nuôi thuỷ sản.
Với những tín hiệu vui trên, chắc hẳn trong năm 2005 sẽ là một mùa bội thu cho những người làm nghề ép cá giống ở sáu xã cù lao của huyện Hồng Ngự nói chung và gia đình anh Dũng nói riêng.
Nguyễn Huyền – VNeconomy, 4/01/2005
Kỹ thuật ương nuôi cá lóc
Ương cá bột 5 ngày tuổi (chiều dài khoảng 6 cm) thành cá giống 60 ngày tuổi (chiều dài khoảng 6-12 cm).
a. Điều kiện ao ương:
- Diện tích 200-1000 m2, giữ nước được trong mùa kiệt và không bị nậgp trong mùa lũ. Nguồn nước không bị nhiễm bẩn, nhiễm phèn. Cấp thoát nước chủ động, độ sâu 1,2-1,5 m.
- Bón vôi để diệt tạp, diệt mầm bệnh và tăng pH (không bị phèn). Liều lượng vôi: 10-15 kg/100 m2 ao (ao mới đào).
b. Bón phân tạo thức ăn tự nhiên:
- Bón phân chuồng (phân gà, bò, heo….) ủ cho hoai, liều lượng 10-15kg/100 m2 ao.
- Bón phân đạm (phân urê) 300 gram/100 m2 ao, phân lân 100 gr/ 100 m2 ao. Khi phân bón lót đã phân hủy hết (6-7 ngày) nước có màu xanh đọt chuối thì tiến hành thả cá vào ương.
c. Mật độ thả ương:
Mật độ thả cá ương từ 5.000- 10.000 con cá bột/100m2 ao. Nếu ương cá bằng vèo đặt trong ao (có những điều kiện như trên) mật độ ương là 800- 1000 con/ 1 m2 vèo.
d. Cho ăn và chăm sóc:
- Giai đoạn cá 5-15 ngày tuổi: Chủ yếu cho ăn động vật phù du (trứng nước), kết hợp với bón phân tạo màu nước xanh đọt trước.
Trong trường hợp thiếu hợp những loại thức ăn trên có thể cho cá ăn cua, cá tạp xay nhuyễn: 1 kg cua, cá tạp/ 10.000 cá con/ngày.
- Giai đoạn cá 18-25 ngày tuổi: Vẫn sử dụng những loại thức ăn trên và bổ sung thêm Vitamin C, Vitamin ADE. Lúc này cá đã có màu vàng, trên thân xuất hiện vẫy, cá mẹ không còn quanh quẩn bên cá con và cá con cũng bắt đầu tách đàn sống độc lập.
- Giai đoạn cá 25-35 ngày tuổi: Cá đã có màu đen giống cá trưởng thành, chiều dài 2-6 cm. Ăn được cá tạp xay nhuyễn, lượng cho ăn khoảng 10% trọng lượng thân cá. Tỉ lệ sống đến giai đoạn này khoảng 80%.
- Giai đoạn cá 35- 60 ngày tuổi: Thân dài 6-12 cm đạt tiêu chuẩn cá giống. Cho cá ăn các loại cá tạp, tôm tép, liều lượng 8% trọng lượng cá. Tỉ lệ sống trong giai đoạn này khoảng 60%. Lúc này đã có thể tuyển lựa cá đồng cở đưa ra ao lớn nuôi thành cá thịt.
Nguồn: Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn tỉnh An Giang.
Ðặc điểm sinh học của cá lóc (cá quả)
Cá quả thường gặp và phân bố rộng có 2 loài là: Ophiocephalus maculatus và Ophiocephalus arbus, nhưng đối tượng nuôi quan trọng nhất là loài O.maculatus thuộc Bộ cá quả, họ cá quả, giống cá quả.
1.1 Ðặc điểm hình thái:
Vây lưng có 40 – 46 vây; vây hậu môn có 28 – 30 tia vây, vảy đường bên 41 – 55 cái. Ðầu cá quả O.maculatus có đường vân giống như chữ “nhất” và 2 chữ bát còn đầu cá O.arbus tương đối nhọn và dài giống như đầu rắn.
1.2 Tập tính sinh học:
Thích sống ở vùng nước đục có nhiều rong cỏ, thường nằm phục ở dưới đáy vùng nước nông có nhiều cỏ. Tính thích nghi với môi trường xung quanh rất mạnh, nhờ có cơ quan hô hấp phụ nên nó có thể hít thở được O2 trong không khí. ở vùng nước hàm lượng O2 thấp cũng vẫn sống được, có khi không cần nước chỉ cần da và mang cá có độ ẩm nhất định vẫn có thể sống được thời gian khá lâu.
1.3 Tính ăn:
Cá quả thuộc loại cá dữ. Thức ăn là chân chèo và râu ngành; thân dài 3 – 8cm ăn côn trùng, cá con và tôm con; thân dài trên 8cm ăn cá con. Khi trọng lượng nặng 0,5 kg có thể ăn 100 – g cá. Trong điều kiện nuôi nó cũng ăn thức ăn chế biến. Mùa đông không bắt mồi.
1.4 Sinh trưởng:
Tương đối nhanh. Con lớn nhất đến 5 kg, nhìn chung cá 1 tuổi thân dài 19 – 39cm nặng 95 – 760g; Cá 2 tuổi thân dài 38,5-40cm, nặng 625 – 1.395g; cá 3 tuổi thân dài 45-59cm, nặng 1.467 – 2.031g (con đực và cái chênh lệch lớn); khi nhiệt độ trên 20oC sinh trưởng nhanh, dưới 15oC sinh trưởng chậm.
Tạp chí khoa học và công nghệ thuỷ sản – 1/2001
