Nuôi nhím như thế nào?
Nhím là động vật hoang dã, sống trong rừng, ở hang, thường ngủ ngày, ăn đêm, trong đàn chỉ có một con đực trưởng thành. Nhím đực rất ga-lăng và hào hiệp như tấn công đối phương để bảo vệ đàn, không cho bất cứ nhím đực nào xâm phạm lãnh thổ và đàn cái do nó kiểm soát.
Nhím đực mỏ dài, đầu nhọn, thân hình thon dài, đuôi dài hơn con cái, dưới háng có hai dịch hoàn và nhô ra phía trước bụng, cách lỗ hậu môn khoảng 4-5cm. Nhím đực tính tình hung dữ hơn, hay sừng lông, đạp chân phành phạch, vừa cắn vừa đánh lông tấn công đối phương…
Nhím cái mỏ ngắn, đầu hơi tròn, thân hình quả trám, đuôi ngắn và mập hơn con đực, dưới bụng lộ rõ 6 vú ở hai bên, dưới háng có lỗ sinh dục cái, cách lỗ hậu môn khoảng 3cm. Nhím cái tính tình hiền lành hơn, chỉ hung dữ lúc đẻ…
Nhím trưởng thành 8-10 tháng, đạt trọng lượng bình quân 8-10 kg/con và bắt đầu sinh sản. Nhím cái động đực 1-2 ngày và cho nhím đực phối giống suốt ngày lẫn đêm. Thời gian có thai 3 tháng (90-95 ngày) thì đẻ, mỗi lứa đẻ từ 1-3 con, thường là 2 con, trọng lượng sơ sinh bình quân 100 gr/con. Nhím thường đẻ vào ban đêm, nhím con mới đẻ ra kêu lít chít như chuột. Nhím mẹ không chỉ cho con mình đẻ ra bú mà còn cho cả những con không phải mình đẻ ra bú bình thường. Nhím mẹ sau khi đẻ 3 ngày là chịu đực và cho phối giống cho chu kỳ sinh sản tiếp theo. Nhím con mới đẻ trong vòng 1-2 tháng đầu, lông còn mềm và rất hiền, ta có thề bắt lên xem để phân biệt đực cái, đánh dấu theo dõi về sau. Nhím con theo mẹ tăng trọng nhanh, bình quân 1 kg/con/tháng, sau 1 tháng thì nhím con biết ăn, sau 3 tháng thì cai sữa, đạt trọng lượng bình quân 3 kg/con. Nhím con sau cai sữa, nếu chăm sóc nuôi dưỡng tốt có thể đạt trọng lượng bình quân 1 kg/con/tháng. Nếu trong đàn có nhím đực sắp trưởng thành (5-6 tháng) thì phải tách đàn nuôi riêng, nếu không nhím bố sẽ tấn công cho đến chết mới thôi (đó là qui luật tự nhiên để bảo tồn nồi giống). Tỷ lệ đực cái thích hợp là 1/8-10.
Thịt nhím nhiều nạc, ít mỡ, là món ăn đặc sản vừa thơm ngon vừa có giá trị dinh dưỡng cao. Bao tử nhím là loại dược liệu quí dùng để ngâm rượu thuốc chữa bệnh đau bao tử, kích thích ăn uống, tiêu hóa tốt. Lông nhím dùng làm đồ trang sức… Thị trường tiêu thụ thịt nhím và bao tử nhím rất phong phú và đa dạng, hiện còn rất khan hiếm.
Nhím rất dễ nuôi, ít dịch bệnh, hiệu quả kinh tế cao, yêu cầu về chăm sóc nuôi dưỡng rất đơn giản:
Chuồng nuôi: Chuồng nuôi nên làm nửa sáng, nửa tối, không cần ánh sáng trực tiếp, tránh mưa tạt và nắng nóng, bảo đảm khô ráo, sạch sẽ và thoáng mát. Nền và sân chuồng, nên tráng bằng bê tông dày 8-10cm, nghiêng khoảng 3-4% để nhím không đào hang chui ra ngoài, dễ thoát nước… Xung quang rào bằng lưới B40, cao trên 1,5m. Nhím thích ở hang nhưng không nên làm hang ngầm dưới đất, ta có thể làm hang giả cho nhím bằng tole uốn cong hoặc bằng ống cống phi 50-60cm, để nổi trên nền chuồng, dễ vệ sinh, sát trùng…Máng uống vừa phải, rộng 20-25cm, cao 20-25cm, để nhím không ỉa đái vào và xây ở ngoài sân nhằm nước vung vãi làm dơ bẩn, ẩm ướt nền chuồng. Trong chuồng nên để vài khúc gỗ, sắt hoặc đá liếm để cho nhím mài răng và không cắn phá chuồng. Chuồng nhím không cần rộng lắm bình quân 1m2/con. Trên sân thượng cũng có thể nuôi tốt.
Thức ăn: Thức ăn của nhím rất phong phú và đa dạng, bao gồm tất cả các loại rễ cây, mầm cây, rau, củ, quả ngọt bùi đắng chát…
Bình thường nhím ăn 2 kg thức ăn con/ngày, nhưng khi nhím đẻ cần bổ sung thêm, nhất là thức ăn tinh nhiều chất đạm, chất béo, chất bột đường… để nhím con mau lớn, nhím mẹ đỡ mất sức, vì phải vừa tiết sữa nuôi con, vừa mang thai. Thức ăn cho nhím cần được bổ sung thêm mầm cây, rễ cây các loại, nhím đực sẽ phối giống hăng hơn.
Khẩu phần thức ăn cơ bản hàng ngày theo từng giai đoạn cho nhím như sau:
Đvt: kg/con/ngày
LOẠI THỨC ĂN | GIAI ĐOẠN (Tháng tuổi) | |||
1-3 | 4-6 | 7-9 | 10-12 | |
Rau, củ, quả các loạiCám viên hỗn hợpLúa, bắp, đậu, các loạiKhô dầu dừa, đậu phộng | 0.3000.0100.0100 | 0.6000.0200.0200.010 | 1.2000.0400.0400.020 | 2.0000.0800.0800.040 |
Nước uống: Nhím ăn rau, củ, quả nên ít uống nước, nhưng cũng phải có đủ nước sạch cho nhím uống tự do. Trung bình 1 lít/5con/ngày. Nhím thường uống nước vào buổi sáng và buổi trưa. Nhím không thích tắm ướt mình, nếu bị ướt nhím sẽ rùng mình và vung lông liên tục không tốt.
Phòng bệnh: Nhím ít bị dịch bệnh, nhưng cũng có mắc một số bệnh thông thường:
– Bệnh ký sinh trùng ngoài da do ve, mò cắn gây nên ghẻ lở, ta có thể dùng thuốc bôi hoặc nhím tự liếm cũng khỏi. Để phòng bệnh ký sinh trùng ngoài da, ta nên vệ sinh sát trùng chuồng và xung quanh chuồng mỗi tháng 1-2 lần.
– Bệnh đường ruột: Do khẩu phần thức ăn ta cung cấp không đầy đủ như ngoài thiên nhiên nên nhím có thể bị tiêu chảy, trong trường hợp đó, ta có thể dùng thuốc trị tiêu chảy hoặc bổ sung thêm thức ăn đắng, chát như ổi xanh, cà rốt, rễ rau, rễ dừa… Để phòng bệnh tiêu chảy, ta nên cân đối khẩu phần thức ăn đầy đủ cho nhím, không nên cho nhím ăn các loại thức ăn ẩm mốc, hôi thối, bẩn thỉu…
(Theo tạp chí Kinh tế Nông thôn)
Nuôi nhím
Hiện nay, tại huyện Hoành Bồ, tỉnh Quảng Ninh đang triển khai mô hình nuôi nhím tại gia đình, bước đầu cho kết quả tốt và được người dân hưởng ứng.
Nuôi nhím sinh sản
Nhím thuộc bộ gặm nhấm, là loại động vật sống hoang dã thường sống ở những vùng núi có nhiều hang đá. Chúng sống thành từng đàn 3-4 con, tự đào hang để ở, ban ngày ngủ, ban đêm đi kiếm ăn.
Thịt nhím là loại đặc sản thơm ngon. Mật, dạ dày, lông của nhím dùng để làm thuốc xoa bóp, chữa bệnh dạ dày, viêm tai giữa…
Một con nhím có khối lượng trung bình l5-25kg, tuổi thọ trung bình của chúng là 15-20 năm. Tuổi thành thục về giới là 1 năm tuổi, nặng 10kg là có thể cho sinh sản. Cứ một đực ghép hai cái nhưng phải chú ý nhím không giao phối đồng huyết.
Nhím cái một năm đẻ hai lứa, mỗi lứa đẻ 1-3 con. Nhím con nuôi sau 1 năm khối lượng đạt 10kg, sau hai năm đạt 15-16kg và sang năm thứ 3 con đực đạt 20kg, con cái 17-19kg.
Tuy sống hoang dã trong rừng, nhưng nhím thuần hóa khá dễ dàng. Mỗi con nhím nuôi mỗi tháng cần khoảng 15kg rau xanh, 9kg thức ăn tinh, 5kg củ quả (bí đỏ, khoai, sắn…). Nhím lại ít bị bệnh tật, ngoại trừ một số loại ký sinh trùng như ve, mò, mạt… Sau một năm nuôi là có thể bán hoặc làm thịt. Hiện giá nhím giống khoảng 150.000-250.000 đồng/kg, giá nhím thịt 100.000-140.000 đồng/kg.
(Theo Trung tâm Khuyến nông quốc gia)
Nuôi nhím như thế nào?
Nhím là động vật hoang dã, sống trong rừng, ở hang, thường ngủ ngày, ăn đêm, trong đàn chỉ có một con đực trưởng thành. Nhím đực rất ga-lăng và hào hiệp như tấn công đối phương để bảo vệ đàn, không cho bất cứ nhím đực nào xâm phạm lãnh thổ và đàn cái do nó kiểm soát.
Nhím đực mỏ dài, đầu nhọn, thân hình thon dài, đuôi dài hơn con cái, dưới háng có hai dịch hoàn và nhô ra phía trước bụng, cách lỗ hậu môn khoảng 4-5cm. Nhím đực tính tình hung dữ hơn, hay sừng lông, đạp chân phành phạch, vừa cắn vừa đánh lông tấn công đối phương…
Nhím cái mỏ ngắn, đầu hơi tròn, thân hình quả trám, đuôi ngắn và mập hơn con đực, dưới bụng lộ rõ 6 vú ở hai bên, dưới háng có lỗ sinh dục cái, cách lỗ hậu môn khoảng 3cm. Nhím cái tính tình hiền lành hơn, chỉ hung dữ lúc đẻ…
Nhím trưởng thành 8-10 tháng, đạt trọng lượng bình quân 8-10 kg/con và bắt đầu sinh sản. Nhím cái động đực 1-2 ngày và cho nhím đực phối giống suốt ngày lẫn đêm. Thời gian có thai 3 tháng (90-95 ngày) thì đẻ, mỗi lứa đẻ từ 1-3 con, thường là 2 con, trọng lượng sơ sinh bình quân 100 gr/con. Nhím thường đẻ vào ban đêm, nhím con mới đẻ ra kêu lít chít như chuột. Nhím mẹ không chỉ cho con mình đẻ ra bú mà còn cho cả những con không phải mình đẻ ra bú bình thường. Nhím mẹ sau khi đẻ 3 ngày là chịu đực và cho phối giống cho chu kỳ sinh sản tiếp theo. Nhím con mới đẻ trong vòng 1-2 tháng đầu, lông còn mềm và rất hiền, ta có thề bắt lên xem để phân biệt đực cái, đánh dấu theo dõi về sau. Nhím con theo mẹ tăng trọng nhanh, bình quân 1 kg/con/tháng, sau 1 tháng thì nhím con biết ăn, sau 3 tháng thì cai sữa, đạt trọng lượng bình quân 3 kg/con. Nhím con sau cai sữa, nếu chăm sóc nuôi dưỡng tốt có thể đạt trọng lượng bình quân 1 kg/con/tháng. Nếu trong đàn có nhím đực sắp trưởng thành (5-6 tháng) thì phải tách đàn nuôi riêng, nếu không nhím bố sẽ tấn công cho đến chết mới thôi (đó là qui luật tự nhiên để bảo tồn nồi giống). Tỷ lệ đực cái thích hợp là 1/8-10.
Thịt nhím nhiều nạc, ít mỡ, là món ăn đặc sản vừa thơm ngon vừa có giá trị dinh dưỡng cao. Bao tử nhím là loại dược liệu quí dùng để ngâm rượu thuốc chữa bệnh đau bao tử, kích thích ăn uống, tiêu hóa tốt. Lông nhím dùng làm đồ trang sức… Thị trường tiêu thụ thịt nhím và bao tử nhím rất phong phú và đa dạng, hiện còn rất khan hiếm.
Nhím rất dễ nuôi, ít dịch bệnh, hiệu quả kinh tế cao, yêu cầu về chăm sóc nuôi dưỡng rất đơn giản:
Chuồng nuôi: Chuồng nuôi nên làm nửa sáng, nửa tối, không cần ánh sáng trực tiếp, tránh mưa tạt và nắng nóng, bảo đảm khô ráo, sạch sẽ và thoáng mát. Nền và sân chuồng, nên tráng bằng bê tông dày 8-10cm, nghiêng khoảng 3-4% để nhím không đào hang chui ra ngoài, dễ thoát nước… Xung quang rào bằng lưới B40, cao trên 1,5m. Nhím thích ở hang nhưng không nên làm hang ngầm dưới đất, ta có thể làm hang giả cho nhím bằng tole uốn cong hoặc bằng ống cống phi 50-60cm, để nổi trên nền chuồng, dễ vệ sinh, sát trùng…Máng uống vừa phải, rộng 20-25cm, cao 20-25cm, để nhím không ỉa đái vào và xây ở ngoài sân nhằm nước vung vãi làm dơ bẩn, ẩm ướt nền chuồng. Trong chuồng nên để vài khúc gỗ, sắt hoặc đá liếm để cho nhím mài răng và không cắn phá chuồng. Chuồng nhím không cần rộng lắm bình quân 1m2/con. Trên sân thượng cũng có thể nuôi tốt.
Thức ăn: Thức ăn của nhím rất phong phú và đa dạng, bao gồm tất cả các loại rễ cây, mầm cây, rau, củ, quả ngọt bùi đắng chát…
Bình thường nhím ăn 2 kg thức ăn con/ngày, nhưng khi nhím đẻ cần bổ sung thêm, nhất là thức ăn tinh nhiều chất đạm, chất béo, chất bột đường… để nhím con mau lớn, nhím mẹ đỡ mất sức, vì phải vừa tiết sữa nuôi con, vừa mang thai. Thức ăn cho nhím cần được bổ sung thêm mầm cây, rễ cây các loại, nhím đực sẽ phối giống hăng hơn.
Khẩu phần thức ăn cơ bản hàng ngày theo từng giai đoạn cho nhím như sau:
Đvt: kg/con/ngày
LOẠI THỨC ĂN | GIAI ĐOẠN (Tháng tuổi) | |||
1-3 | 4-6 | 7-9 | 10-12 | |
Rau, củ, quả các loại | 0.300 | 0.600 | 1.200 | 2.000 |
Cám viên hỗn hợp | 0.010 | 0.020 | 0.040 | 0.080 |
Lúa, bắp, đậu, các loại | 0.010 | 0.020 | 0.040 | 0.080 |
Khô dầu dừa, đậu phộng | 0 | 0.010 | 0.020 | 0.040 |
Nước uống: Nhím ăn rau, củ, quả nên ít uống nước, nhưng cũng phải có đủ nước sạch cho nhím uống tự do. Trung bình 1 lít/5con/ngày. Nhím thường uống nước vào buổi sáng và buổi trưa. Nhím không thích tắm ướt mình, nếu bị ướt nhím sẽ rùng mình và vung lông liên tục không tốt.
Phòng bệnh: Nhím ít bị dịch bệnh, nhưng cũng có mắc một số bệnh thông thường:
– Bệnh ký sinh trùng ngoài da do ve, mò cắn gây nên ghẻ lở, ta có thể dùng thuốc bôi hoặc nhím tự liếm cũng khỏi. Để phòng bệnh ký sinh trùng ngoài da, ta nên vệ sinh sát trùng chuồng và xung quanh chuồng mỗi tháng 1-2 lần.
– Bệnh đường ruột: Do khẩu phần thức ăn ta cung cấp không đầy đủ như ngoài thiên nhiên nên nhím có thể bị tiêu chảy, trong trường hợp đó, ta có thể dùng thuốc trị tiêu chảy hoặc bổ sung thêm thức ăn đắng, chát như ổi xanh, cà rốt, rễ rau, rễ dừa… Để phòng bệnh tiêu chảy, ta nên cân đối khẩu phần thức ăn đầy đủ cho nhím, không nên cho nhím ăn các loại thức ăn ẩm mốc, hôi thối, bẩn thỉu…
Xin lưu ý: Thủ tục mua bán, vận chuyển nhím do Chi cục kiểm lâm tỉnh, thành phố cấp.
Theo Kinh tế Nông thôn – Web An Giang 4/2004
Nuôi nhím: khó mà dễ
Trại nhím được rào cẩn thận bằng lưới B40. Nhím đực mỏ dài, đầu nhọn, thân hình thon dài, nhím cái có mỏ ngắn, đầu hơi tròn, thân hình quả trám. Nhím đực tính tình hung dữ, hay xù lông, vừa cắn vừa đánh lông để tấn công đối thủ. Nhím thường ngủ ngày, ăn đêm. Người nuôi nhím phải bảo đảm được nguồn thức ăn đa dạng như các loại rễ cây, mầm cây, rau củ, quả… Đồng thời, chuồng nuôi phải nửa sáng nửa tối, tránh mưa tạt và nắng nóng, bảo đảm khô ráo. Mỗi con nhím nuôi mỗi tháng cần khoảng 15kg rau xanh, 9kg thức ăn tinh, 5kg củ quả (bí đỏ, khoai, sắn…). Nhím ít bị bệnh tật, ngoại trừ một số loại ký sinh trùng như ve, mò, mạt… và bệnh đường ruột. Sau một năm nuôi là có thể bán hoặc làm thịt.
Từ khi sinh chỉ nặng khoảng 100 g lúc trưởng thành mất 8-10 tháng, nhím đạt trọng lượng 8-10 kg/con. Lúc đó, chúng bắt đầu sinh sản. Nhím mẹ sau khi đẻ 3 ngày là chịu đực và phối giống cho chu kỳ sinh sản tiếp theo. Một con nhím có khối lượng trung bình l5-25kg, tuổi thọ trung bình của chúng là 15-20 năm. Tuổi thành thục về giới là 1 năm tuổi, nặng 10kg là có thể cho sinh sản. Cứ một đực ghép hai cái nhưng phải chú ý nhím không giao phối đồng huyết. Nhím cái một năm đẻ hai lứa, mỗi lứa đẻ 1-3 con. Nhím con nuôi sau 1 năm khối lượng đạt 10kg, sau hai năm đạt 15-16kg và sang năm thứ 3 con đực đạt 20kg, con cái 17-19kg.
Thịt nhím giàu chất dinh dưỡng, thơm ngon. Ngoài ra còn tận dụng được các sản phẩm khác từ nhím như bao tử là loại dược liệu quý chữa được bệnh đau bao tử, kích thích tiêu hóa, lông nhím có thể chế tạo làm các đồ trang sức… Mật, dạ dày, lông của nhím dùng để làm thuốc xoa bóp…
NGUYỄN BÌNH – NLĐ, 25/10/2004
Nuôi nhím
Nhím là loại động vật có nhiều tác dụng. Thịt nhím nạc, ngon và ngọt. Mật nhím được người ta dùng chữa bệnh đau mắt và dùng để xoa bóp các chấn thương và chữa đau lưng. Thịt, ruột già, gan và cả phân nhím đều được sử dụng để chữa bệnh phong nhiệt.
Chúng ta thường gặp những con nhím nặng 4-5 kg nhưng thực ra, chúng có thể đạt 10-15 kg. những con lớn thường dễ bị phát hiện và đã bị săn bắt nhiều. Hiện nay, lượng nhím trong tự nhiên giảm hẳn. Vì vậy, việc tổ chức nuôi nhím vừa có ý nghĩa kinh tế, vừa góp phần hạn chế tình trạng săn bắt nhím trong tự nhiên.
Nuôi nhím không khó. Thậm chí còn dễ hơn nuôi lợn. Tại Trung tâm khoa học sản xuất lâm nghiệp Tây Bắc (thuộc Viện Khoa học lâm nghiệp Việt Nam) đã nuôi và nhím sống rất tốt. Ở nhiều nơi, bà con dùng ngay chuồng lợn làm chỗ nuôi nhím. Một diện tích chuồng 4-6m2 là có thể nuôi nhím. Tường phải cao ít nhất 1m. Phía trên có thể ngăn bằng lưới thép hoặc đan phên để che. Dùng ván bìa bắp tận dụng xếp ngăn thành một tối và kín đáo để nhím vào nằm. Cũng có thể nhồi rơm hoặc cỏ khô vào nhiều bao nhỏ, xếp thành đống, nhím sẽ tự tạo ra tổ cho chúng. Tốt hơn hết là nên xây chuồng rộng có tường bao cao 1m. Trong khu vực đó, ta dùng đá hoặc các gốc cây gỗ lớn xếp thành đống, tạo ra hang cho nhím ở. Nhím thích ở hang kín đáo, không nóng quá cũng không lạnh quá. Không nên nuôi cạnh đường giao thông hoặc nơi ồn ào.
Nhím là loại ăn tạp. Bà con vùng cao xếp chúng vào loại phá hoại mùa màng. Vì thế thức ăn của nhím rất phong phú, gồm trái cây, rễ cây, lá cây, củ chuối vỏ quả, rau thừa, ngô, sắn củ tới các loại côn trùng ốc, bọ cánh cứng, giun đất… Có thể kết hợp nuôi giun đất với nhím. Nhím rất thích ăn giun. Loài giun quế có hàm lượng đạm rất cao (tới 71% trọng lượng khô) rất thích hợp cho nhím.
Nhím không chịu được rét. Mùa đông, nhím chui sâu vào trong hang để ẩn và nằm lỳ trong đó cả tháng. Vì vậy cần lưu ý chống rét cho nhím. Tốt nhất là tạo ra các hang kín và chèn cỏ khô ở bên trong để nhím ngủ đông. Nhím cũng không ưa khí hậu nóng. Nếu trời quá nóng nhím lại chui vào các hang hốc và nằm lỳ trong đó có khi cả tuần. Cần có nhiều cây hoặc giàn che, tạo không khí mát mẻ cho chúng.
Nhím dễ sinh sản. Nhím đực thường trưởng thành sau 12 tháng. Còn nhím cái phải 16-17 tháng mới đủ chín sinh dục để chịu đực. Trong tự nhiên, chỉ hai tháng tuổi là nhím con đã tách đàn để kiếm ăn một mình. Dựa vào đó, ta cũng có thể xuất giống sau hai tháng nuôi nhím con. Ngay năm đầu, nếu nuôi tốt, nhím có thể đạt được 6,5 kg.
Theo Tạp chí Nông nghiệp Việt Nam – ND, 11/5/2005
Nuôi nhím
Qua nhiều năm gắn bó với nghề, ông Thân Quang Vịnh tại phường Linh Xuân, quận Thủ Đức, TP.HCM đã tích cóp được nhiều kinh nghiệm:
– Yếu tố vệ sinh phải đặt lên hàng đầu.
– Nên phân biệt nhím đực, cái ngay từ lúc còn nhỏ bằng việc cho nằm ngửa để kiểm tra bộ phận sinh dục, nếu có gai giao cấu lồi ra là nhím đực. Nhím đực trưởng thành có mỏ dài, đầu nhọn, thân hình thon dài, đuôi dài, hung dữ hơn, hay xù lông, rung chuông, chân đạp phành phạch nhằm uy hiếp “đối phương”. Nhím cái có mỏ ngắn hơn, đầu hơi tròn, thân tròn, đuôi ngắn.
– Nuôi được 8 tháng tuổi trở lên, nếu sinh trưởng và phát dục tốt, nhím có thể giao phối lần đầu. Nhím cái động đực 2 – 3 ngày mỗi lần, nhưng nếu nuôi tốt, thì thường xuyên hơn; nếu phối giống không chửa thì 30 – 32 ngày sau sẽ động đực lại: bộ phận sinh dục tiết ra chất nhờn và có mùi để nhím đực tìm đến.
– Nhím thường giao phối lúc 3 – 5 giờ sáng: do nhím biểu hiện động đực không rõ ràng, cần nhốt chung con đực và con cái trong thời gian dài.
– Thời gian mang thai là khoảng 90 – 95 ngày, cần tách riêng để tránh việc con đực tranh ăn.
– Nhím thường đẻ vào ban đêm, trung bình 2 con, có khi tới 4 – 5 con – khi ấy phải tách từng cặp cho bú luân phiên, khoảng 1 tuần sau nhốt chung trở lại.
– Trước khi nhím đẻ khoảng 30 ngày cần bổ sung dinh dưỡng.
– Sau khi nhím sinh, cho uống nước đầy đủ và cho thêm xương bò để nhím gặm nhằm tăng thêm lượng calci (có người còn cho nhím đá liếm).
– Khi nhím đẻ, cần che gió, đảm bảo nhiệt độ trong chuồng từ 25 – 300C trong tuần đầu để nhím mẹ ủ ấm cho nhím con.
– Nhím được 2 tháng tuổi thì cho tách bầy (có thể bắt đầu bán nhím con).
HIẾU CẦU – Khoa học phổ thông, 18/10/2010
Cách nhân giống nhím
Phong trào nuôi nhím đang lan rộng ở nhiều địa phương vì chúng dễ nuôi, ít bị dịch bệnh, thịt nhím là đặc sản, dễ tiêu thụ với giá cao; đầu tư chi phí thấp mà hiệu quả kinh tế cao. Tuy nhiên, do nhu cầu nuôi lớn mà giá con giống thường cao gây trở ngại cho người nuôi.
Xin mách nhỏ cách nhân giống nhím của một số hộ giàu kinh nghiệm ở huyện Lục Ngạn (Bắc Giang) để bà con tham khảo, áp dụng. Cách phân biệt nhím đực, nhím cái:
– Lúc nhím còn nhỏ, đặt nhím nằm ngửa, dùng 2 ngón tay vạch lỗ sinh dục ra, thấy gai giao cấu lộ ra là nhím đực, không thấy là nhím cái.
– Khi nhím trưởng thành, nhím đực mỏ dài, đầu nhọn, thân hình thon dài, đuôi dài hơn con cái, tính hung dữ, hay xù lông, rung chuông, đạp chân phành phạch để tấn công đối phương. Nhím cái mỏ ngắn, đầu hơi tròn, thân mình mập và ngắn hơn con đực, đuôi ngắn, tính hiền lành, chỉ hung dữ lúc đẻ. Bắt nhím cho vào rọ hẹp, nhấc lên dùng ngón tay gãi nhẹ vào cơ quan sinh dục cách hậu môn 2-3cm, nếu thấy dương vật thòi ra là nhím đực, nếu không là con cái.
Cách cho phối giống:
– Nên cho con cái phối giống từ 10-12 tháng tuổi. Thời gian động dục thường kéo dài 3-4 ngày, thời điểm phối thích hợp là 2 ngày sau khi nhím cái động dục. Khi động dục con cái thường có các biểu hiện: đi loanh quanh trong chuồng, hít ngửi liên tục. Nếu ta động vào người, chúng đứng yên và cong đuôi lên, đôi khi bỏ ăn. Con con đực cũng chạy lăng xăng và hít ngửi liên tục, chân cào liên tục xuống nền chuồng rồi rít lên.
– Thời gian mang thai của nhím từ 95-100 ngày, thường đẻ về đêm. Mỗi năm đẻ 2 lứa, mỗi lứa từ 1-3 con. Đẻ sau 1 tháng nhím có thể động dục trở lại, tuy nhiên tùy tình hình sức khỏe và nhu cầu giống để quyết định có nên cho phối giống hay không.
– Khi nuôi cần tách riêng nhím đực và nhím cái. Khi thấy nhím cái có biểu hiện động dục thì bắt nhím đực thả vào ô nhốt nhím cái cho chúng phối trong thời gian từ 4-6 ngày. Nếu nhím cái đang nuôi con thì bắt nhím con ra chỗ khác để tránh nhím đực cắn chết nhím con. Sau mỗi lần phối giống cần bổ sung thêm thức ăn giàu đạm, chất béo và giá đỗ cho nhím đực. Mỗi con đực chỉ nên cho giao phối với không quá 8 con cái và luôn luân chuyển đực cái để tránh cận huyết.
Chăm sóc nhím sinh sản:
Tăng cường thêm thức ăn giàu dinh dưỡng, đủ các hàm lượng chất khoáng cho nhím cái trong thời gian mang thai. Khu vực nuôi nhím sinh sản cần tách riêng cho yên tĩnh, tránh chấn động mạnh. Vệ sinh chuồng trại hằng ngày, giữ cho thoáng mát về mùa hè, che ấm về mùa đông. Theo dõi, nếu thấy các biểu hiện bất thường như khó đẻ cần nhờ cán bộ thú y can thiệp, giúp đỡ. Chú ý giữ kín gió, nhiệt độ trong chuồng từ 25-30 độ C trong tuần đầu sau sinh để nhím mẹ ủ ấm cho con.
Ks. Cận – NNVN, 20/11/2007
Kỹ thuật chăm sóc nuôi dưỡng và phòng bệnh cho nhím
Bình thường nhím trưởng thành ăn 2kg thức ăn/con/ngày, nhưng khi nhím đẻ cần bổ sung thêm thức ăn, nhất là thức ăn tinh giàu đạm, khoáng, sinh tố… Nhím sinh trưởng trung bình 1kg/tháng. Nhím trưởng thành khi 8 – 10 tháng, đạt trọng lượng 8- 10kg thì bắt đầu sinh sản. Khi nhím được 7 – 8 tháng tuổi, ta thả nhím đực vào cùng nhím cái để ghép đôi giao phối. Chu kỳ động dục của nhím 25 – 30 ngày, thời gian động dục của nhím cái 1 – 2 ngày và cho nhím đực phối giống suốt cả ngày lẫn đêm. Thời gian mang thai 90 – 95 ngày thì đẻ, có khi hơn, mỗi lứa đẻ 1 – 3 con, ít khi đẻ 4 con, thường là 2 con, trọng lượng sơ sinh bình quân 100gr/con. Nhím thường đẻ vào ban đêm, nhím con mới đẻ ra kêu lít chít như chuột. Nhím mẹ không chỉ cho con mình đẻ ra bú mà còn có thể cho cả những con khác bú. Nhím mẹ sau khi đẻ 3 ngày là có thể động đực và phối giống cho chu kỳ sinh sản tiếp theo. Để đảm bảo an toàn cho nhím con thì sau khi phối giống nên tách nhím bố ra khỏi đàn con, đề phòng nhím bố cắn chết con.
Nhím con mới đẻ trong vòng 1 –2 tháng đầu, lông còn mềm và rất hiền, ta có thể bắt lên xem để phân biệt đực cái, đánh dấu theo dõi về sau. Nhím con theo mẹ tăng trọng nhanh, bình quân 1kg/con/tháng, sau 1 tháng nhím con biết ăn, sau hơn 2 tháng có thể cai sữa, trọng lượng bình quân 3kg/con. Nhím con sau cai sữa, nếu chăm sóc nuôi dưỡng tốt có thể tăng trọng bình quân 1kg/con/tháng. Nếu trong đàn có nhím đực sắp trưởng thành (5 – 6 tháng) thì phải tách đàn nuôi riêng, nhím đực trưởng thành mà không tách đàn nuôi riêng, thì nhím bố sẽ tấn công cho đến chết mới thôi (đó là qui luật tự nhiên để bảo tồn nòi giống).
Nhím là động vật hoang dã, mới được thuần hóa, sức đề kháng rất mạnh nên ít dịch bệnh. Tuy nhiên, nhím vẫn bị một số bệnh thường gặp như bệnh đường ruột, bệnh ngoài da…
– Bệnh ký sinh trùng ngoài da do ve, mò cắn gây nên ghẻ lở, ta có thể dùng thuốc bôi hoặc nhím tự liếm cũng có thể khỏi. Để phòng bệnh ký sinh trùng ngoài da, ta nên vệ sinh sát trùng chuồng và xung quanh da, ta nên vệ sinh sát trùng chuồng và xung quanh chuồng sạch sẽ, 1 – 2 lần/tháng.
– Bệnh đường ruột do khẩu phần thức ăn ta cung cấp không đầy đủ thành phần và giá trị dinh dưỡng nên nhím có thể bị tiêu chảy, trong trường hợp đó, ta có thể dùng thuốc trị tiêu chảy hoặc bổ sung thêm thức ăn, nước uống đắng, chát như ổi xanh, cà rốt, rễ cau, rễ dừa… Để phòng bệnh tiêu chảy, khẩu phần thức ăn cho nhím phải phong phú và đa dạng, không nên cho nhím ăn các loại thức ăn hôi thối, ẩm mốc…
(Nguồn tin: NNVN) – NNVN, 22/12/2005
Nuôi nhím sinh sản
Nhím thuộc bộ gặm nhấm, là loại động vật sống hoang dã thường sống ở những vùng núi có nhiều hang đá. Chúng sống thành từng đàn 3-4 con, tự đào hang để ở, ban ngày ngủ, ban đêm đi kiếm ăn.
Thịt nhím là loại đặc sản thơm ngon. Mật, dạ dày, lông của nhím dùng để làm thuốc xoa bóp, chữa bệnh dạ dày, viêm tai giữa…
Một con nhím có khối lượng trung bình l5-25kg, tuổi thọ trung bình của chúng là 15-20 năm. Tuổi thành thục về giới là 1 năm tuổi, nặng 10kg là có thể cho sinh sản. Cứ một đực ghép hai cái nhưng phải chú ý nhím không giao phối đồng huyết.
Nhím cái một năm đẻ hai lứa, mỗi lứa đẻ 1-3 con. Nhím con nuôi sau 1 năm khối lượng đạt 10kg, sau hai năm đạt 15-16kg và sang năm thứ 3 con đực đạt 20kg, con cái 17-19kg.
Tuy sống hoang dã trong rừng, nhưng nhím thuần hóa khá dễ dàng. Mỗi con nhím nuôi mỗi tháng cần khoảng 15kg rau xanh, 9kg thức ăn tinh, 5kg củ quả (bí đỏ, khoai, sắn…). Nhím lại ít bị bệnh tật, ngoại trừ một số loại ký sinh trùng như ve, mò, mạt… Sau một năm nuôi là có thể bán hoặc làm thịt. Hiện giá nhím giống khoảng 150.000-250.000 đồng/kg, giá nhím thịt 100.000-140.000 đồng/kg.
Theo Trung tâm Khuyến nông quốc gia – Báo Nông thôn ngày nay – ND, 5/8/2004
Nuôi nhím – nghề mới đang hốt bạc
Thịt nhím nạc ngon, không hề có mỡ, giá cao đến 200.000đ/kg. Các bộ phận cơ thể nhím đều có thể dùng làm thuốc, nhưng nuôi nhím còn dễ hơn cả nuôi lợn, thậm chí có thể nuôi cả trên sân thượng nhà cao tầng.
Hiện nay ở Việt Nam, thịt nhím đã hiếm vì nhím trong thiên nhiên bị săn bắt khá nhiều. Dân sành ăn vẫn ca tụng thịt nhím là ngon ngọt, giàu đạm, rất nạc, chắc và thơm, hơi giống thịt lợn rừng. Không chỉ ngon miệng người ăn, nhím còn là vị thuốc quý, nhiều công dụng. Mật nhím dùng chữa đau mắt, đau lưng và xoa bóp chấn thương. Thịt, ruột già, gan và cả phân nhím dùng chữa bệnh phong nhiệt. “Bản thảo cương mục” của Lý Thời Trân cho biết: dạ dày nhím vị ngọt, tính hàn, không độc; được sử dụng làm thuốc chữa bệnh dạ dày ở người. Theo GS-TSKH Đỗ Tất Lợi, dạ dày nhím còn có thể giải độc, mát máu, chữa lòi dom, di mộng tinh, nôn mửa, kiết lỵ ra máu… Người Trung Quốc rất coi trọng những công dụng này và thường xuyên tìm mua dạ dày nhím.
Trong tự nhiên, nhím thường sống ở vùng đồi núi, những nơi có nhiều cây cối, rừng rậm. Chúng phân bố ở khá nhiều vùng, các nghiên cứu trước đây cho thấy nhím có ở các tỉnh miền Bắc, đến nay đã phát hiện sự xuất hiện của chúng ở nhiều vùng miền Nam như Khánh Hoà, Đắc Lắc, Đồng Nai, Bình Phước…, chứng tỏ nhím thích nghi được với khí hậu và thổ nhưỡng của nhiều vùng trên đất nước ta. Nhím ăn tạp, “tiêu thụ” từ các loại lá, rễ cây, củ, quả (kể cả những loại chát đắng như ổi xanh, rễ cau, rễ dừa)… đến cả côn trùng, ốc, giun đất. Tuổi trưởng thành sinh dục của nhím là 16-17 tháng tuổi. Chúng thường sống đơn lẻ, chỉ tới mùa sinh sản con đực mới đi tìm bạn tình.
Mùa sinh sản của nhím thường vào khoảng tháng 5, 6 và những tháng cuối năm. Thời gian mang thai của nhím cái rất ngắn, chỉ vẻn vẹn có 5 tuần. Mỗi lứa nhím đẻ từ 1-2 con, cũng có trường hợp được 3 con, 2 lứa một năm. Nhím con cứng cáp rất nhanh, lúc mới đẻ chúng đỏ hỏn, mũm mĩm, nhưng chỉ vài giờ sau da chúng đã co lại, để lộ rõ những lông trắng bám trên mình. Qua thời gian, những lông trắng này dần đạt đến độ dài 20-25cm, hoá sừng và trở thành bộ giáp đặc trưng của loài gặm nhấm này. Nhím lớn khá nhanh; chỉ 2 tháng tuổi chúng đã nặng tới 2,5-3kg, sau một năm đạt tới 9-10kg. Chúng có khả năng đề kháng tốt, rất ít bị bệnh dịch. Bệnh ghẻ lở do ve, trùng đốt với các loài khác là đại họa thì nhím có thể tự liếm khỏi.
Chính vì “dễ tính” với bệnh tật, môi trường và thức ăn như vậy nên việc nuôi nhím rất dễ dàng. Trung tâm Khoa học sản xuất lâm nghiệp vùng Tây Bắc (Sơn La) đã tổ chức nuôi nhím theo quy mô trại lớn. Trong điều kiện chuồng trại, nhím sống khoẻ, đẻ đều, cân nặng trung bình sau một năm nuôi là 5-6kg. Chuồng nhím không cần rộng, mỗi con chỉ chiếm 1m2 nên có thể nuôi cả trên sân thượng các nhà cao tầng. Khi nuôi nhím chỉ cần nhớ phải đặt thêm một vài khúc gỗ trong chuồng để nhím có thể mài răng, đỡ cắn phá chuồng. Hiệu quả kinh tế do nhím mang lại là rất lớn. Cơ sở nuôi nhím với quy mô trung bình của ông Phạm Ngọc Tuân (Củ Chi, TPHCM) là một ví dụ. Ông Tuân nuôi 60 con, trong đó có 40 con cái, mỗi tháng chỉ tính riêng tiền bán giống (2,5 triệu đồng/đôi), ông đã thu về hơn 10 triệu đồng. Thức ăn cho nhím chỉ là những lá rau, củ thừa vương vãi thu nhặt ở các chợ, thật đúng là làm chơi ăn thật. Hy vọng một ngày không xa, bà con ta sẽ nhận thấy được hiệu quả của việc nuôi nhím, và người Việt sẽ có cơ hội được thưởng thức rộng rãi món thịt rất thơm ngon này.
Nhím nuôi tại cơ sở của ông Phạm Ngọc Tuân.
* Theo “Cây cỏ và động vật làm thuốc ở Việt Nam”: da nhím được dùng trong y học cổ truyền với tên thuốc là thích vị bì. Lông nhím là hào trư mao thích. Dạ dày nhím là hào trư đỗ.
* Cách chế biến da nhím làm dược liệu: Ngâm da nhím vào nước cho mềm, cạo sạch lông gai, thịt và mỡ, để ráo nước rồi cắt thành từng miếng nhỏ, phơi khô rồi sao nóng với bột hoạt thạch (bột tacl) cho đến khi chuyển sang màu vàng; lấy ra chải hết bột rồi cạo lần nữa cho sạch hẳn.
GS Nguyễn Lân Hùng – LĐ, 25.04.2004
Đà Nẵng: Nuôi thử nghiệm nhím sinh sản
Qua kiểm tra thực tế, Sở Thủy sản-Nông lâm và Chi cục Kiểm lâm thành phố Đà Nẵng vừa có văn bản đồng ý cho hộ bà Phan Thị Đỗ, trú tổ 13, khối Đà Sơn, phường Hòa Khánh, quận Liên Chiểu (TP Đà Nẵng) nuôi thử nghiệm động vật hoang dã làm kinh tế, cụ thể là loài nhím đã được thuần hóa. Được biết, bà Đỗ đã nuôi thử nghiệm 5 nhím con (4 cái, 1 đực). Mỗi con nặng từ 0,3 đến 0,4kg, chỉ sau 65 ngày cho ăn các loại sắn, cà rốt, rau củ, vỏ dừa, rễ dừa và xương heo…nay mỗi con có trọng lượng 1,5kg. Việc đầu tư nhím giống sinh sản chỉ chừng 3 triệu đồng, nhím 10 tháng tuổi đã có thể phối giống. Nhím cái có thể sinh sản 2 lần/năm và mỗi lần là 2 con. Hy vọng mô hình này của bà Đỗ sẽ thành công để tiếp tục nhân rộng ra nhiều hộ nông dân khác
NNVN, 3/12/2003
Nuôi nhím bờm
QUY TRÌNH NUÔI NHÍM BỜM
1. LỜI NÓI ĐẦU
Nhím bờm có tên khoa học là Acanthion subcristatum (swinhoc). Tiếng la tinh có nghĩa là: Quill pig (lợn lông) (mặc dù chúng không phải là lợn). Tiếng Anh là Porcupine. Tên tiếng Thái: Tô Mển, tiếng Giao: Điền dạy. Là một loài vật gặm nhấm, sống hoang dã ở một số nước như Nêpan, Miến Điện, Thái Lan, Lào, Campuchia, Việt Nam, Trung Quốc. Tại nước ta, chúng sống dọc theo các vùng đồi núi và trung du, rừng rậm.
Thịt nhím hơi giống thịt lợn rừng, nhiều nạc, ít mỡ, là món ăn đặc sản vừa thơm ngon vừa có giá trị dinh dưỡng cao. Bao tử nhím là loại dược liệu quí dùng để ngâm rượu thuốc chữa bệnh đau bao tử, kích thích ăn uống, tiêu hóa tốt. Lông nhím dùng làm đồ trang sức, chữa viêm tai giữa, đau răng. Mật nhím dùng chữa đau mắt, đau lưng và xoa bóp chấn thương. Thịt, ruột già, gan và cả phân nhím dùng chữa bệnh phong nhiệt.
“Bản thảo cương mục” của Lý Thời Trân cho biết, dạ dày nhím vị ngọt, tính hàn, không độc; được sử dụng làm thuốc chữa bệnh dạ dày ở người. Theo Gíao sư Tiến sĩ Đỗ Tất Lợi, dạ dày nhím còn có thể giải độc, mát máu, chữa lòi dom, di mộng tinh, nôn mửa, kiết lỵ ra máu… Người Trung Quốc rất coi trọng những công dụng này và thường xuyên tìm mua dạ dày nhím.
Theo “Cây cỏ và động vật làm thuốc ở Việt Nam”, da nhím được dùng trong y học cổ truyền với tên thuốc là thích vị bì. Lông nhím là hào trư mao thích. Dạ dày nhím là hào trư đỗ.
Với giá trị dinh dưỡng cao, Giá thịt nhím khoảng 2 – 300.000 đồng / kg hơi. Khoảng 10 năm gần đây, nhím là một đối tượng bị săn bắt, đánh bẫy rất nhiều, nhím rừng hoang dã ngày càng trở nên khan hiếm, cạn kiệt.
Bên cạnh việc săn bắt, một số người đã tìm cách nuôi nó. Người đầu tiên có lẽ là ông Tuân (Củ chi) nuôi nhím từ năm 1988, với 2 con giống. Tiếp đó là người dân Sơn la, (nuôi nhím từ năm 1995). Còn bây giờ thì việc nuôi nhím lan ra rất nhiều nơi: Bình Dương, Tây Ninh, Vũng tàu, Hà tây, Hà nội, Bắc giang, Hưng yên. Hộ nuôi nhiều có đến 100 con, hộ nuôi ít cũng đến 4 con . Tuy nhiên, con giống vẫn còn rất khan hiếm, khó tìm mua, cung không đủ cầu . Giá nhím giống hiện nay từ 5 – 10 triệu / cặp 2 – 8 tháng tuổi. Về kỹ thuật nuôi, khá đa dạng, mỗi nơi một cách. Một số điều tra sơ bộ cho thấy: nhím dễ nuôi, ít bệnh tật. Đàn nhím nuôi tại nhà sinh sản khá tốt.
Kiến thức và kinh nghiệm là vô tận. Trong quá trình chăn nuôi, chúng tôi mong bà con hãy tự đúc rút, ngoài những điều tìm hiểu được qua tài liệu này, hãy học hỏi lẫn nhau và không quên chia sẽ thông tin với chúng tôi. Có như vậy chúng ta mới có điều kiện nâng dần kiến thức của chúng ta lên và ngày một hiệu quả hơn trong chăn nuôi.
2. CÁC ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN CỦA NHÍM BỜM ĐƯỢC NUÔI HIỆN TẠI
2.1. Nhận dạng
Nhím Bờm là loại lớn nhất trong bộ gặm nhấm, nặng trung bình từ 13-15kg, thân và đuôi dài từ 80-90cm. Hình dáng nặng nề, mình tròn đầu to, mõm ngắn có 4 răng cửa dẹp và rất sắc, mắt nhỏ, tai nhỏ, chân ngắn (4 chi) 2 chi sau ngắn hơn 2 chi trước, móng chân nhọn sắc. Trên lưng lông biến thành gai cứng, nhọn nhất là nửa lưng phía sau, dài từ 10- 30cm. Đuôi ngắn, có những sợi lông phía đầu phình ra thành hình cốc rỗng ruột màu trắng.
Nhím đực có mõ dài hơn, đầu nhọn, thân hình thon dài, đuôi dài hơn, tính tình hung dữ, hay lùng sục, đánh lại con đực khác để “bảo vệ lãnh thổ”.
Khi gặp kẻ thù thì nhím rung đuôi, những lông chuông này tạo thành một tiếng kêu “lách cách”, “lè xè” để doạ nạt kẻ thù và thông báo với những con vật cùng đàn.
Lúc nhỏ, lỗ sinh dục con đực có “gai”, và con cái không có. (Để phân biệt, chúng ta có thể vật ngửa nhím con, vạch lỗ sinh dục để xem).
Lúc trưởng thành: Con đực có dương vật và dịch hoàn nhô ra phía bụng, cách lỗ hậu môn khoảng 2-3 cm. Con cái có “lỗ sinh dục” cũng cách hậu môn 2-3 cm.
Nhím cái có 6 vú nằm ở 2 bên sườn. Khi cho con bú nhím mẹ nằm úp bụng xuống đất.
2.2. Sinh trưởng của nhím
Khối lượng cơ thể của nhím khá dao động.
Sơ Sinh 0,32 ± 0,06 (kg)
3 tháng 3,25 ± 0,48 (kg)
6 tháng 4,72 ± 1,02 (kg)
9 tháng 6,96 ± 0.32 (kg)
12 tháng 8,75 ± 0.42 (kg)
Nhìn chung từ sơ sinh đến 1 năm tuổi, nhím sinh trưởng đều , mỗi tháng có thể đạt 1kg,. Sau tuổi này sự phát triển bắt đầu chậm lại.
Như vậy, nếu nuôi nhím vỗ béo, thì kéo dài quá một năm, tốc độ tăng trọng không còn tốt nữa. Lúc này ta phải tính toán kinh tế, liệu kéo dài thời gian vỗ béo sẽ có lãi hay không.
Tuy nhiên đối với nhím hậu bị (nuôi sinh sản), chúng ta không nên vỗ béo. Hãy hạn chế lượng thức ăn sao cho tăng trọng 0.8 kg / tháng là vừa đủ.
Tỉ lệ thịt xẻ so với khối lượng sống chiếm từ 62% đến 69%. Tỉ lệ thịt đùi so với thịt xẻ là 20%. Thịt nhím 1 năm tuổi rất ít mỡ.
2.3. Tập tính
a. Tính bầy đàn / gia đình “máu mủ”.
Nhím là loài động vật có tính gia đình rất cao, con đực chỉ chấp nhận ở cùng những nhím con mà chính do chúng đẻ ra. Những con nhím cái mà đã mang thai với đực khác khi ghép đôi với đực mới thì khi đẻ ra con đực sẽ cắn chết ngay những con con này. Nhưng ở lứa đẻ sau thì chúng lại sống với nhau bình thường, nhím con đẻ ra phát triển tốt.
Với nhím nuôi thả theo lô tập thung chúng tôi thấy nhím khó có khả năng thân thiết nhau, chúng hay đánh nhau gặm cụt lông của nhau thậm chí chúng còn giết chết nhau, những lô nhím ghép một đực với vài con cái thì chưa thấy nhím cái sinh sản.
Kết hợp với những kinh nghiệm thu được qua các đàn khác, chúng tôi nhận thấy rằng không nên nuôi thả từng bầy đàn. Nên ghép chúng thành từng đôi nuôi riêng từng ô, và có thể đổi đực giống.
Chính vì thế, trong các chuồng nuôi, nếu được quây bằng lưới sắt thưa, chân chuồng phải được xây kín, để nhím con không thể thò chân, người sang chuồng bên để đề phòng con khác cắn.
b. Ngủ / nghỉ ngơi
Nhím chủ yếu sinh hoạt về đêm. Ban ngày nhím tập trung ngủ từ 10 giờ sáng đến 3 giờ chiều. Như vậy người chăn nuôi không nên có những hoạt động làm mất giấc ngủ của nhím trong buổi trưa.
c. ăn – uống :
Có một số trại không cho nhím uống nước, bù lại thức ăn phần lớn là củ, quả và lá nhiều nước. Các trại chăn nuôi khác đều cho uống. Nhím rất hay uống nước và đi tiểu nhiều lần trong ngày. Nước tiểu rất hôi và có hiện tượng là ít ruồi nhặng gần nơi ở của nhím.
Sau khi sinh 5 ngày nhím con đã tập nhấm nháp thức ăn. Nhím nhặt nhạnh tất cả các loại thức ăn rơi vãi trên nền.Là loài gặm nhấm, nên nhím ăn đủ thứ thức ăn, các loại rau, củ quả, gặm cả xương, thân cây khô.Nhìn chung nhím ăn nhiều về đêm.
2.4. Các loại thức ăn dành cho nhím
Nhím tiêu thụ thức ăn khá đa dạng:
Ăn nhiều (>80): Bí đỏ, chuối tây, củ dong riềng, đậu tương, đu đủ, khoai lang, khoai tây, đậu phộng, Mía cây, bắp hạt, khoai mì, sắn dây củ, su hào, cây chuối, cây ngô, quả sung, quả vả, khoai sọ, táo quả, quả roi, quả ổi, xương động vật, sắn lát khô, cám gạo
Ăn khá (60-80): Cỏ voi, ghi nê, du zi, rau muống, dây khoai lang
Ăn Trung bình (40-60): Chàm bông vàng, chàm tai tượng, lá dâu
Ăn kém (<40): Lá sung
Các loại thức ăn dạng bột là thứ mà nhím không thích sử dụng trong bữa ăn của mình. Nếu khi ta cho cùng một lúc hai loại thức ăn dạng củ quả và dạng bột vào thì bao giờ Nhím cũng ăn loại thức ăn củ quả trước.
2.5. Động dục
Từ 8 tháng tuổi, nếu sinh trưởng và phát dục tốt, nhím có thể giao phối lần đầu.
Những động dục bên ngoài không rõ rệt, đặc biệt là nhím mới bắt từ rừng về. Những ngày động dục nhím cái tiết ra một ít chất nhờn lẫn máu. Khi nhím cọ vào nền chuồng hoặc máng ăn, chất nhầy được đẩy ra dính vào nơi nằm, và dính vào âm hộ. Một vài ngày chất nhầy này khô đi và nhím trở lại bình thường.
Thời gian động dục một lần là 2-3 ngày.
Ttrong điều kiện nuôi nhốt, thức ăn được cấp đều thường xuyên, thời điểm động dục thường xuất hiện quanh năm.
Nếu phối giống không chửa, 30-32 ngày sau nhím động dục trở lại.
Đối với nhím đẻ chết con thời gian động dục sau khi đẻ từ 10-15 ngày.
Nhím đực và nhím cái tìm đến nhau thông qua mùi của con cái và biểu hiện rung chuông. Khi đưa nhím đực đến, nếu cái có triệu chứng động dục chúng có thể giao phối luôn.
2.6. Giao phối
Thường nhím giao phối với nhau vào 2 – 5 giờ sáng.. Mỗi khi giao phối con đực tiến sát con cái, thậm chí ép con cái. Khi giao phối con đực nhảy chồm lên con cái hệt như bò – lợn. Lúc đó con cái nằm ệp xuống và chổng đít lên.
Do biểu hiện động dục không rõ, phối giống thường xẩy ra ban đêm, không có người, khó quan sát, biểu hiện chửa cũng không rõ lắm, nên người chăn nuôi đã phải nhốt chung cái và đực trong thời gian dài:
20 ngày (như Trại nhím Tuân Hoà, Củ chi)
2 – 3 tháng (như trại nhím Cô Năm Triều, Gò Dầu, Tây Ninh)
Cả đời như một số trại ở Sơn la.
Việc phối giống thành công rất quan trọng trong việc tăng đàn, vì thế người chăn nuôi hết sức lưu ý để phát hiện động dục, theo dõi lý lịch đầy đủ và cho phối kịp thời. Đối với các nhà chăn nuôi chưa có nhiều kinh nghiệm, nên chọn phương án ghép đôi 1 đực + 1 cái và sinh sống với nhau trọn đời.
Chế độ dinh dưỡng của con đực cũng phải tốt để nó có thể đủ sức. Một số chủ trại nhím có những kinh nghiệm (bí quyết) riêng trong việc chọn chế độ dinh dưỡng cho con đực.
2.7. Sinh sản
Nhím mang thai 90-95 ngày. Bụng nhím thường to ra hai bên. Trong thời gian này nên tách hẳn đực giống để nhím cái được yên và không ăn tranh quá nhiều dễ bị to thai và khó đẻ.
Thường nhím đẻ vào ban đêm, nhưng cũng có nhiều con đẻ ban ngày. Sau khi đẻ chúng để lại nhiều máu trên sàn chuồng. Số con đẻ từ 1 đến 5, trung bình là 2 con. Nếu đẻ 3-4 con, thì 1-2 con nào đó sẽ khó tranh bú với con nhím khác mạnh hơn. Vì thế nên tách từng cặp và cho bú luân phiên. Được 10 ngày có thể nhốt chung trở lại. Luôn theo dõi nhím mẹ có đủ sữa nuôi con hay không để có chế độ bồi dưỡng thêm cho nhím mẹ
Có thể tách con lúc được 2 tháng. Tuy nhiên có thể rút ngắn xuống còn 30 – 45 ngày nếu nhím con khoẻ mạnh và nhím cái không có nhiều sữa nữa (có thể xem vú nhím). Trong trường hợp này phải cho nhím con bồi dưỡng tốt.
2.8. Phối giống trở lại
Có thể đưa nhím đực đã phối lần cuối đến ở chung với “vợ con” nó sau khi đẻ được 1 tháng. Thông thường nhím chửa thì sữa cũng ít đi, nên không nên để nhím mẹ phối giống trở lại quá sớm.
3. KỸ THUẬT CHĂN NUÔI
3.1. Chuồng trại
Phải khô ráo, có rãnh thoát nước. có nhiều ánh sáng, che mưa, gió, thoáng mát, nên có bóng cây che. Hướng đông nam để nhận được nhiều anh sáng ban mai và tránh nắng hướng tây. Phải tránh ồn ào, gần đường qua lại, vì nhím vốn là loài nhát và nhạy cảm. Chuồng cách xa nhà ở và đứng cuối hướng gió, vì mùi phân, nước tiểu của nhím “nặng”, khó chịu cho một số người.
Hệ thống chuồng
Bao gồm nhiều ô để nhốt, Khu nuôi nhốt có thể làm 1 hay nhiều dãy như bàn cờ. Giữa các dãy có lối đi rộng 1 m. Có mương thoát nước (nhưng không nằm trong ô nhốt) và tốt nhất là nằm hai bên chuồng.
Đối với nhím đực giống và cái giống: Diện tích chuồng ít nhất 1.5 m2 cho một gia đình (bố / mẹ và 2-4 con nhím con).
Đối với chuồng nhím hậu bị (từ 2 tháng đến lần phối giống đầu tiên, có thể nuôi thành nhóm, hàng chục con cũng được. Tuy nhiên nên phân theo từng nhóm tuổi để dễ bề chăm sóc, cho ăn hợp với lúa tuổi, trọng lượng..
Độ cao của chuồng từ 1 – 1,5 m. Chớ quá thấp, vì nhím có thể nhảy ra, nhưng chớ quá cao, vì khó chăm sóc, và tốn vật liệu.
Nếu nhím hung dữ, hoặc mới bắt về chưa quen, ta có thể dùng các tấm ván, phên, piro ximăng để đậy.
Nên có cửa sau để dọn phân, có cửa trước (cỡ 30 x 40 cm) để có thể lùa nhím đi từ ô này tới ô khác.
Nền chuồng láng xi măng, nhưng chớ láng quá trơn, đặc biệt là chuồng nhím sinh sản, để chúng khỏi bị trượt chân khi nhảy phối giống, hoặc trượt ngã lúc chửa đẻ. Cũng có thể làm bằng gạch… Tuy nhiên chớ làm bằng đất, vì nhím rất hay đào bới và có thể đào hầm để trốn và khó làm vệ sinh. Có lỗ thoát nước đủ rộng để có thể rửa chuồng.
Thành chuồng: có thể xây gạch, hoặc khung lưới sắt. Nếu là khung lưới sắt thì chân thành chuồng phải xây kín cao 20 – 30cm, để đề phòng chân con này thò sang chuồng con kia và bị con kia cắn, mẳt lưới chớ quá rộng để nhím con đi thoát.
3.2 Cách nhốt / ghép đôi / ghép đàn
Nhím cái giống : nên nuôi riêng từng ô và có thể nuôi tại một ô suốt cả đời.
Nhím đực giống: cũng nên nhốt từng cá thể ở từng ô riêng biệt. Không nên nhôt chung nhau vì rất hay đánh nhau.
Nhím con mới đẻ ra sẽ ở chung với mẹ cho đến ngày cai sữa.
Nhím nhỏ và hậu bị có thể nhốt chung nhau. Nhớ phân theo lứa tuổi. Lưu ý con to có thể đánh con nhỏ, con cũ có thể đánh con mới đến.
Chớ đưa nhím con vào với nhím đực / cái giống vì dễ bị đánh, cắn.
Giai đoạn phối giống, con đực có thể nhốt chung với nhím cái. Thời gian ngắn – dài tuỳ theo chúng đã có “phối” thành công (chửa) hay không. Thời gian này có thể 20 – 60 ngày. Nhiều nơi vẫn nuôi cả cặp đực / cái như thể hai vợ chồng và ở suốt đời với nhau, kể cả lúc có con.
Con cái sau khi đã chuyển con đẻ của nó đi, mới đưa đực giống về. Nếu vẫn còn nhím con, đực giống có thể đánh những đứa con đó.
3.3. Cho nhím ăn, uống, nghỉ ngơi
Thời gian chăm sóc / vệ sinh chuồng trại: Nhím chủ yếu sinh hoạt về đêm. Cho nên ban ngay, chúng ta cố gắng dọn phân chuồng ngay buổi sáng, cho ăn ít chút và để cho nhím nghỉ ngơi. Buổi chiều, lúc trời mát chúng ta có thể dọn dẹp lần nữa và cho ăn nhiều hơn buổi sáng.
Cho uống: Nếu thức ăn nhiều nước, như củ quả thì có thể không cần cho uống nước. Tuy nhiên, nếu cho ăn thức ăn khô (sắn khô, ngô hạt..) thì nên cho uống nước. Nước đựng vào bát, đĩa. Nhím rất hay “vọc vạch” vì thế nên dùng chậu sành, sứ.. nặng, hoặc có bệ để nhím khỏi tha đi, húc đẩy…
Thức ăn: có thể bỏ ngay trên nền chuồng sạch sẽ, hoặc trong máng xi măng, sắt thép..
3.4. Thức ăn và dinh dương
Các loại thức ăn:
Chớ cho ăn đơn điệu, vì như thế không đủ các chất dinh dưỡng. Có thể bổ sung khoáng chất, vitamin cho nhím bằng các loại thức ăn tổng hợp, các cục đá liếm… mà các nhà máy thức ăn công nghiệp sản xuất, và tôt nhất ở dạng viên hoặc tảng (đá liếm). Vì hiện tại chúng ta chưa có thức ăn công nghiệp sẵn cho nhím nên có thể dùng thức ăn cho các loài dạ dày đơn như lợn, thỏ, chó. Thậm chí chúng ta có thể dùng xương trâu, bò, lợn đã nấu chín và phơi khô cho nhím.
Đối với con trưởng thành lượng thức ăn một ngày cần là:
– Thức ăn thô: 0,5kg/con/ngày là các loại lá sung, lá vả, lá dướng, dây khoai lang, thân cây lạc, cây ngô, lá keo dậu, lá mít, chè khổng lồ, các loại cỏ chăn nuôi như cỏ voi, cỏ ghine…
– Thức ăn tinh: 0,3kg/con/ngày (Ngô, sắn, hạt dẻ, hạt gắm bí ngô….)
– Thức ăn giàu vitamin: ổi xanh, chuối xanh, mơ, mận, quả sung, quả me….
– Thức ăn khoáng:
– Muối: 2-3g/con/ngày
– Xương trâu, bò: 100-200g/con/ngày
Đối với nhím nuôi con cần phải có chế độ đặc biệt hơn, đặc biệt đối với nhím đẻ 3-4 con, và yếu sức khoẻ. Ngoài thức ăn như đã nói trên cần cho ăn thêm 0,2-0,3 kg lạc nhân, đỗ tương. Đỗ tương cần được rang.
3.5. Chọn giống: Các chỉ tiêu cần quan tâm
Lãi suất lớn là mong muốn cuối cùng của bất kỳ người chăn nuôi nào. Các yếu tố tạo nên lãi suất là : Đẻ sớm, Đẻ mắn, Đẻ sống nhiều , Lớn nhanh, Thịt ngon, Tiêu thụ thức ăn ít. Các đặc điểm trên bao giờ cũng do bản chất di truyền và trình độ nuôi dưỡng của chúng ta tạo nên.
Nhím có thể phát dục sớm hơn nếu chúng ta tăng mức dinh dưỡng. Nếu nhím tăng trọng được 0.8 kg / tháng, có thể đẻ lúc 10-12 tháng tuổi. Tuy nhiên nếu nuôi chóng lớn quá nhím có thể bị béo gây nên nân xổi, hoặc lúc đẻ có thể có trục trặc như đẻ khó, sát nhau, con yếu.
Đẻ mắn: 1 năm nhím có thể đẻ được 2 lứa. Để có thể đẻ mắn, ta nên chon những cá thể có biếu hiện động dục rõ ràng (chứ không phải động dục “ngầm”), mạnh mẽ. Chúng ta cũng nên chọn những con nhím có biểu hiện chửa rõ ràng. Những cá thể không có biểu hiện chửa rõ ràng sẽ gây cho chúng ta khó điều khiển phối giống và sinh sản.
Đẻ sống nhiều: Thông thường nhím đẻ sinh đôi. Nếu lứa 1 đẻ sinh đôi, ba.. thì các lứa sau có thể đẻ nhiều hơn. Còn nếu lứa đầu đẻ 1, các lứa sau sẽ không chắc chắn đẻ nhiều. Chúng ta cũng có thể chọn nhím đẻ sinh 3, sinh 4 để làm giống. Tuy nhiên đối với nhím đẻ nhiều, cần phải có chế độ nuôi dưỡng con thật tốt.
3.6. Chống cận huyết
Cận huyết là việc giao phối các cá thể có huyết thống: bố – con, anh – chị – em, ông – bà. Thế hệ con cái cận huyết có thể có khuyết tật. Các đặc điểm như sinh sản: khả năng động dục, khoảng cách hai lứa đẻ cũng có thể bị kém đi. Để hạn chế việc giao phối cận huyết cần phải “đánh số”, ghi chép lý lịch của từng con và như vậy chúng ta đỡ bị nhầm lẫn trong khi ghép đôi giao phối. Cũng nên trao đổi đực giống giữa các đàn với nhau.
3.7. Công tác theo dõi
Cũng như bất kỳ giống vật nuôi nào khác việc, có con tốt và có con xấu. Con xấu cần phải loại bỏ và con tốt cần được nhân ra nhiều. Tuy nhiên để làm được việc này, khâu đầu tiên mà chúng ta cần phải làm đó là đánh số và ghi chép lý lịch, năng suất cho từng con nhím một. Mỗi con nhím cần có một số duy nhất. Số hiệu con nhím đã bị chết, thải không thể dùng để đánh cho con sau.
3.8. Bảo vệ sức khỏe cho Nhím
Cho đến nay chúng ta thường thấy nhím ít mắc bệnh. Chỉ thấy một số bệnh lặt vặt như ỉa chảy, giun, sán, ghẻ.
Tuy nhiên không phải vì thế mà chúng ta chủ quan. Bất kỳ con vật nào cũng có thể nhiễm bệnh khi chúng ta chăn nuôi nó theo kiểu công nghiệp: ăn uống đơn điệu, chuồng trại không sạch sẽ, thức ăn hôi thối, dinh dưỡng quá mức…. Các nguyên tắc sau đây cần được thực hiện liên tục, nghiêm túc:
Đảm bảo chuồng trại hợp vệ sinh
Đảm bảo nhu cầu dinh dưỡng
Khi phát bệnh có thể báo cho bác sỹ nếu bệnh lạ và nặng.
Tổng hợp biên soạn theo tài liệu nghiên cứu của TS. Võ Văn Sự