Kỹ thuật nuôi thỏ

Bí quyết nuôi thỏ sinh sản 

1. Thiết kế chuồng

Nhà nuôi thỏ phải cao ráo, kín gió, có ánh sáng tự nhiên, có nhà nuôi thỏ sinh sản riêng, thỏ hậu bị riêng.

Bằng cách nuôi này, chỉ với hơn 100 thỏ sinh sản, mỗi tháng anh Nguyễn Văn Tiền ở huyện Văn Giang, Hưng Yên có lãi ròng hơn 10 triệu đồng.

Nền nhà phải bằng phẳng không thấm nước và dốc đều 15 độ xuôi theo rãnh gom nước thải ra bể xử lý bên ngoài.

Xây các lối đi cao 25cm, rộng 70cm. Khoảng cách giữa 2 lối đi rộng 1,2m là nơi kê đặt cho dãy chuồng nuôi thỏ.

Chuồng nuôi thỏ gồm 2 ô liên kết nhau theo chiều ngang, nhiều ô liên kết theo chiều dọc, tạo thành dãy chuồng kép, đặt cố định trên các cột ống nhựa lõi bê tông cốt thép, cao cách mặt nền 70 – 80cm.

Kích thước ô chuồng đơn, dài x rộng x cao = 80 x 50 x 40cm; ô chuồng kép 160 x 100 x 40cm.

Vật liệu làm chuồng là các nan thép hàn thưa, sao cho thỏ đứng không lọt chân, phân thỏ dễ rơi lọt xuống nền nhà.

Làm máng ăn bán tự động, để thỏ có thể dễ dàng lật máng vào ăn, người nuôi ngửa máng đổ thức ăn hoặc làm vệ sinh thuận lợi.

Tận dụng các vỏ chai nhựa coca cola loại 1,5 lít, lắp thêm van nước tự động cho thỏ uống, mỗi ô chuồng đơn treo 1 chai.

Có thể làm máng lõm trên mặt chuồng để chứa thức ăn thô xanh, khi thỏ ăn sẽ không dẫm đạp lên rau cỏ.

Dùng trấu lót sàn nền để hứng phân. Sau nuôi thỏ nuôi 4 – 5 ngày, rắc đều 4kg/1m2 trấu, sẽ khử hết mùi khai phân, nước tiểu và diệt khuẩn. Thay mới trấu và muối 2 tháng/1 lần.

Dùng rổ nhựa làm ổ cho thỏ đẻ (thỏ sẽ không cắn). Kích thước rổ: dài x rộng x cao là 40 x 30 x 15cm.  

2. Chọn con giống

+ Con đực phải đạt trọng lượng trên 3kg, ngoại hình cân đối, khoẻ mạnh, không khuyết tật, tai rộng và cân, chân săn chắc, 2 tinh hoàn đều. Khi phối giống thỏ đực phải ghì chặt thỏ cái, sau giao phối thỏ đực đổ nằm xuống sàn chuồng, nhưng các chân vẫn ghì chặt thỏ cái đổ nằm theo.

+ Con cái cũng phải có thân hình cân đối, nhanh nhẹn, không dị tật, tai vểnh, lông mượt…

+ Khi phối giống, cho 2 thỏ đực thay nhau giao phối 1 thỏ cái cùng thời gian, sẽ đảm bảo phối giống thành công, rất hiếm khi phải phối lại. Thỏ mẹ sau đẻ 10 – 12 ngày có thể tiếp tục cho phối giống mang thai. Mỗi thỏ mẹ chỉ khai thác 7 – 8 lứa con thì dừng, thay mới bằng giống đã nuôi hậu bị. Cần tránh chọn giống bố mẹ cận huyết. Thỏ bố mẹ phải nuôi riêng, mỗi con 1 chuồng. Tỷ lệ đực cái đàn thỏ nuôi sinh sản là: 8 – 10 thỏ đực/100 thỏ cái, nhưng chỉ nuôi 10 thỏ cái cần 3 – 4 thỏ đực.

Thỏ đực nuôi sau 7 tháng, thỏ cái gần tháng mới cho phối giống. Kiểm tra thấy bộ phận sinh dục cái của thỏ chuyển màu đỏ tía (đã phát dục), thì cho giao phối.

Sau phối giống 28 – 32 thỏ sẽ sinh. Thỏ con sau sinh 25 – 30 ngày thì tách mẹ.  

3. Thức ăn

Thức ăn cho thỏ bao gồm rau củ quả phế thải từ nông nghiệp như, cà rốt, su hào, cỏ voi, thân cây ngô, lá rau các loại… Các loại thức ăn thô xanh phải rửa sạch để ráo nước mới cho ăn.

Tuyệt đối không cho thỏ ăn các loại rau còn dính sương, thỏ sẽ bị tiêu chảy.

Riêng cà rốt giàu dinh dưỡng, thỏ nhỏ chỉ cho ăn 1 củ/1 con/1 ngày, thỏ lớn cho ăn gấp đôi.

Thỏ cái sau sinh, ngoài thức ăn thô xanh, cám công nghiệp, cần cho ăn thêm mía hoặc uống nước đường nhạt 3 ngày liên tục để tăng sữa. Cám công nghiệp cách 1 ngày cho ăn 1 lần vào ban đêm, định lượng 0,2kg/1 con/1 ngày. Thời kỳ mang thai, cho ăn như trên, nhưng lượng cám công nghiệp giảm 1/2, ăn nhiều thỏ sẽ lú, đẻ kém.

Thỏ đực mỗi ngày 1 con cho ăn 0,1kg cám công nghiệp thỏ hoặc gà. Tuyệt đối không dùng cám công nghiệp của lợn và vịt, thỏ ăn sẽ bị tiêu chảy.

Thỏ con tách mẹ chỉ cho ăn công nghiệp, định lượng 0,1kg cám gà mảnh/5 con/ngày. Khi thỏ đạt 1 kg/1 con mới cho ăn rau và cám viên công nghiệp. Tuân thủ cách nuôi này đàn thỏ sẽ bảo toàn 100%.  

4. Phòng ngừa dịch bệnh

Vacxin xuất huyết thỏ cho thỏ sơ sinh, tiêm nhắc lại sau 6 tháng (thỏ hậu bị). Thỏ mẹ ngay sau đẻ tiêm kháng sinh Gentreks + thuốc bổ B12, tiêm nhắc lại 2 thuốc trên 2 tháng 1 lần.

Kiểm tra mỗi ngày, nếu chuồng nào có thỏ không ăn, uống phải cách ly ngay để chữa trị.

HƯNG THÁI – Nông nghiệp VN, 10/07/2017

Nuôi thỏ bằng thức ăn công nghiệp 

Nuôi thỏ quy mô công nghiệp tiết kiệm nhiều thời gian, chuồng trại luôn sạch sẽ, ít bị dịch bệnh lây lan và có thu nhập khá.

Theo lời giới thiệu của một người bạn, tôi đến nhà anh Lê Minh Tâm, 26 tuổi, sinh viên năm thứ 4, Khoa Công nghệ, Trường ĐH Cần Thơ (ngụ tại số 320/CT, tổ 14, khu vực Bình Thường B, phường Long Tuyền, quận Bình Thủy,TP Cần Thơ) có trại thỏ khá lớn.

Tiếp chúng tôi trong căn nhà tường khang trang, anh Tâm vui vẻ tâm sự: Anh đến với nghề nuôi thỏ vào năm 2005. Ban đầu nuôi để thỏa mãn sự đam mê là chính. Sau thời gian rảnh rỗi việc học ở trường, anh ra sau vườn hái rau, cỏ cho thỏ ăn là một niềm vui.
Nhưng sau đó thấy thỏ có giá trị kinh tế, sinh sản nhanh, nhu cầu thức ăn lớn, nên anh mày mò tìm hiểu qua sách vở, báo chí để không mất thời gian cắt rau, cỏ cho thỏ ăn, vừa kiếm thêm nguồn kinh tế phụ để ổn định việc học tập của mình. Và, ý tưởng nuôi thỏ bằng thức ăn công nghiệp đã hình thành.

Theo anh Tâm, nuôi thỏ quy mô công nghiệp tiết kiệm nhiều thời gian, chuồng trại luôn sạch sẽ, ít bị dịch bệnh lây lan và có thu nhập khá. Hiện nay, trong trại của anh có tổng số 60 con thỏ, gồm 2 loại giống (New Zealand và Pháp) (trong đó 15 con bố mẹ). Nuôi thỏ rất dễ, ít tốn thức ăn (bình quân 2 triệu đồng thức ăn/60 con/tháng), miễn là nắm vững những yêu cầu kỹ thuật về chuồng trại, chăm sóc thỏ sinh sản, cho ăn và đề phòng dịch bệnh.
Anh chia sẻ kỹ thuật nuôi như sau:

Về chuồng trại: Tùy theo điều kiện kinh tế, lồng nuôi thỏ bằng vật liệu gỗ hay sắt, sàn nền bằng cát hay láng xi măng, thì phải tuân thủ những tiêu chuẩn cơ bản như sau: Nếu lồng bằng sắt (hay gỗ) phải ngăn lồng bằng lưới thép, cao 2,5 m, chia thành từng ô vuông (5 x 5 tấc), sàn cách 8 tấc (nền cát), cách 1 – 1,2 m (sàn xi măng). Vì nền xi măng giữ mùi hôi từ nước tiểu và thức ăn nhiều hơn khiến dễ gây mầm bệnh cho thỏ. Nền đất, nên vệ sinh nền 5 – 7 ngày/lần, nền xi măng thì vệ sinh hàng ngày.

Về phối giống cho đàn: Thỏ con bắt về nuôi khi được khoảng 3 tháng tuổi thì có thể phối giống được (nếu cho ăn thức ăn công nghiệp), 1 – 1,5 tháng (nếu nuôi bằng rau cỏ). Phải thường xuyên quan sát tình trạng động dục của con cái có những biểu hiện như bộ phận sinh dục có màu đỏ, nở to; thỏ cái không chịu ăn và hay phá chuồng. Thả con cái vào lồng con đực trong khoảng 10 giây khi giao phối xong bắt con cái trở về lồng cũ.

Khoảng 30 ngày thỏ mang thai, đến ngày thứ 28 đặt rổ làm ổ vào chuồng để thỏ cái tự bứt lông lót ổ đẻ (có khi thỏ mẹ bứt ít lông phải thêm chất lót như giẻ cho chúng). Thỏ đẻ (lần 1) được khoảng 5 – 6 con, đẻ lần kế tiếp (lần 2 – 3) khoảng 6 – 7 con; nhưng cho thỏ đẻ 6 con là tốt nhất vì thỏ mẹ có 8 vú. (nếu chăm sóc tốt tỷ lệ sống đạt 70%).

Theo anh Tâm, thỏ là thức ăn cao cấp trong các nhà hàng. Thịt thỏ chế biến nhiều thức ăn đẳng cấp như nấu rượu vang, quay, xào lăn, hầm sả… được mọi người ưa chuộng. Giá thỏ con 30 ngày tuổi khoảng 100.000 đ/con (New Zealand), 200.000 đ/con (Pháp); thỏ thịt (trọng lượng khoảng 2 kg) khoảng 65 – 70.000 đ/kg. Thu nhập bình quân của anh Tâm khoảng 3,5 – 5 triệu đ/tháng.

Dự định tương lai, anh sẽ mở rộng thêm 1 địa điểm chăn nuôi thỏ nữa. Và, cuối cùng anh cho biết những ai thích nghề nuôi thỏ cứ đến trang trại, anh sẵn sàng chia sẻ kinh nghiệm lẫn kỹ thuật.

Cho thỏ đẻ ăn ngày 2 lần với khẩu phần ít khoảng 40 gram và sau đó từ từ tăng dần. Riêng, thỏ con lúc đầu tự bú mẹ, sau đó từ từ ăn thức ăn của mẹ (cỡ 2, 4, 6 ly), tách bầy cho thỏ con ăn 2 lần/ngày, mỗi ngày 40 gram (tăng dần lên 2,5 kg/con, khẩu phần ăn tăng lên). Thỏ nuôi 3 tháng đạt trọng lượng khoảng 2 – 2,2 kg.

Thỏ nái sinh sản từ 7 – 8 lứa/năm. Để đảm bảo sức khỏe cho thỏ nái, nên phối giống 2 tháng sau khi sinh (cho sinh từ 5 – 7 lứa/ năm) là tốt nhất. Vì lợi ích kinh tế, cũng có thể cho thỏ nái phối giống từ 20 – 23 ngày sau khi đàn con đã cai sữa.

Về thức ăn: Thức ăn phải đảm bảo 2 thành phần chất xơ (6 – 8 %) và đạm (16 – 18 %). Do đó thành phần thức ăn cho cá là thích hợp nhất. Hiện nay, trên thị trường có những thức ăn (thương hiệu Hà Lan) như Hà Lan 7.1.18; Hinter.7005 và một số thương hiệu khác…

Để đảm bảo nguồn nước uống sạch cho thỏ, không nên dùng nước máy (dễ bị tiêu chảy), chỉ dùng nước mưa và nước sông (đã được lắng lọc) là tốt nhất, mỗi ngày khoảng 1 lít và nên thay nước hàng ngày.

Về dịch bệnh: 4 loại bệnh thường gặp nơi thỏ nuôi là cầu trùng (giai đoạn 20 – 45 ngày tuổi), tụ huyết trùng (45 – 70 ngày tuổi), bại huyết (xuất hiện ở thỏ nái cỡ 3,5 kg trở lên), đặc biệt thỏ đẻ qua 1 lứa thì bệnh ghẻ xuất hiện…

Những biện pháp khắc phục: Đối với cầu trùng, phòng hơn là trị. Khi thỏ được 20 ngày, cho thỏ uống dung dịch (hoặc dang bột) để đề phòng bệnh nầy. Bệnh cầu trùng cho thỏi uống Bio (thuốc dùng cho heo và gà vịt). Tụ huyết trùng thì chích thuốc tụ huyết trùng. Ghẻ thì thuốc đặc trị Vemetine. Bại huyết thường ít xuất hiện (nếu có tỷ lệ chết khoảng 70%), vì thế giai đoạn thỏ nái phải chích ngừa vaccine bại huyết (hạn chế lúc mang thai, sẽ bị sinh non).

KHÁNH HẠ, Nông nghiệp VN, 18/04/2014

Bảo tồn quỹ gen Thỏ

1. Xuất xứ

Theo phân loại động vật thỏ thuộc lớp động vật có vú (Mammalia), bộ gậm nhấm (Rodentia), họ Leporidae. Thỏ rừng có nhiều loại khác nhau, hiện nay chỉ có loài Oryctolagus Cuniculus được thuần hoá thành thỏ nhà.

Quần thể thỏ ở Việt Nam được du nhập từ Pháp khoảng 70-80 năm trước đây. Chúng đã bị lai tạp nhiều giữa các giống khác nhau nên cũng có những biến hoá khác nhau về ngoại hình.

2. Phân bố

Thỏ thường được nuôi trong các hộ gia đình với quy mô nhỏ, rải rác ở nhiều vùng, không tập trung, số lượng không ổn định.

3. Đặc điểm

3.1. Đặc điểm ngoại hình

Thỏ đen: lông ngắn, có màu đen tuyền, mắt đen, đầu to vừa phải, mồm nhỏ, cổ không vạm vỡ, lưng khum, bụng thon, thân hình chắc chắn, 4 chân dài thô, xương to.

Thỏ xám: lông ngắn, màu lông thay đổi từ xám tro đến xám ghi, màu lông vùng dưới bụng, ngực, đuôi có màu xám nhạt hơn hoặc xám trắng. Mắt đen, đầu nhỏ, cổ dài, lưng khum, bụng hơi xệ, 4 chân dài, xương to, thân hình không chắc chắn như thỏ đen.

3.2. Đặc điểm sinh lý của thỏ

Thỏ rất nhạy cảm với các yếu tố ngoại cảnh, khả năng thích ứng với môi trường kém. Thân nhiệt của thỏ thay đổi theo nhiệt độ không khí môi trường. Thỏ có ít tuyến mồ hôi dưới da, cơ thể thải nhiệt chủ yếu qua đường hô hấp. Thân nhiệt, tần số hô hấp, nhịp đập của tim đều liên quan thuận với nhiệt độ không khí môi trường. Cơ quan khứu giác của thỏ rất phát triển, thỏ mẹ có thể phân biệt được con đàn khác đưa đến bằng cách ngửi mùi. Thỏ rất thính và tinh, trong bóng tối thỏ vẫn nhìn thấy để ăn uống bình thường và phát hiện được những tiếng động rất nhỏ.

Sinh lý tiêu hoá: Thỏ là gia súc có dạ dày đơn, dạ dày thỏ co giãn tốt nhưng co bóp yếu. Các chất dinh dưỡng được phân giải nhờ các men tiêu hoá của dạ dày và ruột sê được hấp thụ chủ yếu qua ruột non. Ruột già chủ yếu hấp thụ các muối và nước. Manh tràng lớn gấp 5-6 lần dạ dày, là nơi dự trữ và tiêu hoá chất xơ nhờ hệ vi sinh vật.

Sinh lý sinh sản: Thỏ đẻ 1-3 ngày là động dục trở lại, chu kỳ động dục của thỏ thay đổi thất thường, đôi khi không động dục, sau khi giao phối 6-9 giờ trứng mới rụng.

Thỏ sơ sinh chưa có lông, sau 1 ngày tuổi bắt đầu mọc lông tơ, ba ngày tuổi thì có lông dày, ngắn 1 mm, năm ngày tuổi lông dài 5-6 mm và 20-25 ngày tuổi bộ lông được phát triển hoàn toàn. Thỏ con mở mắt vào 9- 12 ngày tuổi.

4. Khả năng sản xuất

4.1. Khả năng sinh trưởng

Tầm vóc thỏ nội bé hơn so với thỏ ngoại nhưng có khả năng chịu đựng được điều kiện kham khổ và dinh dưỡng thấp, khối lượng trưởng thành 3-5,5 kg.

Khối lượng cơ thể thông qua các mốc tuổi

Chỉ tiêu Đơn vị tínhTrung bình
Khối lượng sơ sinh G50-55
Khối lượng 21 ngày tuổi G200-220
Khối lượng 30 ngày tuổi G270-300
Khối lượng trưởng thành kg3-3.5

4. 2. Khả năng sinh sản

Thỏ nội mắn đẻ, một năm có thể đẻ tới 6-7 lứa nếu nuôi dưỡng và chăm sóc tốt. Thời gian động dục lại sau khi để rất ngắn nên nếu nuôi dưỡng chăm sóc tốt và cho phối giống sớm sau khi đẻ thì khoảng cách hai lứa đẻ chỉ còn 40-45 ngày.

Một sô’ chỉ tiêu về khả năng sinh sản của thỏ

Chỉ tiêu Đơn vị tínhTrung bình
Tuổi động dục và phối giống lần đầuTháng4-5
Chu kỳ động dụcNgày10-16
Thời gian kéo dài động dụcNgày3-5
Thời gian mang thaiNgày28-34
Số con đẻ ra/lứaNgày6-9
Số lứa đẻ/nămcon6-7

 4.3. Khả năng cho sữa

Thỏ to khoẻ có thể cho lượng sữa 100- 160 gam, sữa lứa đầu ít hơn các lứa sau, trong một chu kỳ thì lượng sữa tăng dần, kể từ khi đẻ đến ngày 15-20 thì lượng sữa là cao nhất và sau đó giảm dần:. Thời điểm cạn sữa tuỳ thuộc vào thời gian đẻ lứa sau, thường từ 4-5 tuần, sản lượng sữa còn tuỳ thuộc vào chế độ dinh dưỡng. Sữa thỏ đậm đặc và chất lượng cao hơn sữa bò.

4.4. Khả năng cho thịt

Thỏ đẻ nhanh, nếu nuôi dưỡng tốt mỗi thỏ cái mỗi năm đẻ 6-7 lứa, mỗi lứa 6-7 con, sau 3 tháng nuôi khối lượng giết thịt 1,7-2 kg, như vậy một thỏ mẹ có thể sản xuất 70-80%kg thịt thỏ/ năm.

Thỏ cho tỷ lệ thịt xẻ 46-49% tỷ lệ thịt lọc/ thịt xẻ là 85-86%. Thịt thỏ giàu và cân đối chất dinh dưỡng: tỷ lệ đạm 21%, mỡ 10%, khoáng 1,2%.

Ngoài những khả năng sản xuất trên, thỏ còn có khả năng cung cấp lông da để sản xuất quần áo, mũ lông, Thỏ còn được dùng làm động vật thể vàng, động vật kiểm nghiệm thuốc và chế vạc xin trong y học.

5. Tính trạng đặc biệt

Sinh sản cao là đặc điểm lớn nhất của thỏ nội. Khả năng liêu hoá thức ăn xanh làm cho chi phí nuôi thỏ trong dân thấp, dễ mở rộng sản xuất nếu được tiêu thụ tốt.

6. Công tác bảo tồn nguồn gen

Giống thỏ Việt Nam còn rất phổ biến, hơn nữa công tác lai giống rất ít nên chủ yếu là dùng phương pháp in-situt.

(Bảo tồn nguồn gen vật nuôi Việt Nam – Tập I – Phần Gia súc – Chủ biên – GS. Lê Viết Ly)

Nuôi thỏ dễ giàu

Trung Quốc là nước xuất khẩu thịt thỏ đứng đầu thế giới, mỗi năm thu về lượng ngoại tệ không dưới 500 triệu USD. Còn Hungary- “Quê hương” của thỏ, có nhiều trang trại thỏ tư nhân nuôi từ 10.000-20.000 con. Xem ra, nuôi thỏ không khó mà lại rất nhanh thu hồi vốn. Vậy tại sao không phát triển rộng rãi việc nuôi thỏ ở nước ta…

Có lẽ trở ngại lớn nhất vẫn là hạn chế về cách nhìn nhận. Nông dân ta ai cũng nghĩ thỏ là con vật nhỏ, không chiếm giữ vị trí nào trong các giống vật nuôi gia đình, nên ít người quan tâm. Thậm chí có người còn đánh đồng thịt thỏ với thịt chuột và coi đây là loại thực phẩm không hợp vệ sinh. Nhưng thực tế hoàn toàn khác. Nuôi thỏ rất kinh tế và thịt thỏ ăn rất tốt, có tác dụng hạ huyết áp. Theo Thạc sĩ Chu Đình Khu (Viện Chăn nuôi) với 2 giống thỏ California và New Zealand mà Viện nhập ngoại về nuôi trong 18 tháng đủ đạt 5- 6kg/con, trong khi giá 1 kg thỏ hơi từ 15.000 – 18.000 đồng/kg (giá thành làm ra 2kg thỏ hơi chỉ mất 10.000 đồng). Như vậy, một gia đình nuôi 20- 30 con thỏ, chiếm diện tích không đáng kể. Có thể thu lãi 500.000 đồng/3 tháng, 1,5 đến 2 triệu đồng/năm. Thỏ dễ ăn, mắn đẻ. Theo ông Khu, thỏ nuôi 6 tháng đủ đẻ, mỗi năm đẻ từ 6- 7 lứa, mỗi lứa 6- 8 con, thậm chí 10 con. Như vậy, một năm nuôi thỏ mẹ đẻ không dưới 40 thỏ con, nuôi lớn sẽ đạt 1,2 tạ thịt. Ngoài 2 giống thỏ ngoại, Viện vẫn duy trì nuôi giữ 2 giống thỏ nội đen và xám. Tuy đẻ ít con hơn, trọng lượng thấp hơn nhưng thỏ nội nuôi vần còn lãi vì chúng chịu đựng được kham khổ. Mỗi ngày thỏ ăn từ 0,7 – 1kg cỏ, 120g cám. Nhằm bổ sung thêm đàn thỏ giống trong nước, tháng 12-2000, Viện Chăn nuôi lại cho phép nhập thêm 250 thỏ giống gồm các giống New Zealand White, California và Panol từ Hungary về. Đàn thỏ giống đã giúp làm tươi máu những con thỏ nhập nội từ trước đó bằng cách dùng thỏ đực mới nhập phối giống với thỏ cái cũ. Như vậy, cho đến nay, Viện Chăn nuôi đã có đàn thỏ cái giống 500 con trên tổng đàn 3.000 con. Đây là nguồn giống thỏ hết sức quý giá, góp nhân nhanh đàn thỏ có năng suất cao bán ra cho người chăn nuôi (năm 2002 bán ra 5.564 con).

Trung tâm Nghiên cứu Dê và Thỏ Sơn Tây được Viện Chăn nuôi giao giữ và nhân giống thỏ. Nhờ các hoạt động tuyên truyền, chuyển giao tiến bộ kỹ thuật từ những năm 1990, Trung tâm đã phát triển được phong trào nuôi thỏ ở nhiều tỉnh như Hải Dương, Hưng Yên, Thái Bình, Hà Nam, Hà Tây, Hà Nội…; đã có gia đình ở Hà Nội nuôi hàng trăm con thỏ sinh sản. Nguồn phân thỏ được trang trại này tận dụng bón cho hoa, nuôi giun. Điều đặc biệt là khi bón phân thỏ, các cánh hoa sẽ đậm màu hơn và không bao giờ bị xoăn. ông Khu lưu ý, thỏ hay mắc 3 thứ bệnh, trong đó 2 bệnh cầu trùng và ghẻ đã có thuốc điều tri, riêng bệnh bại huyết có thể làm thỏ chết hàng loạt hiện vẫn chưa có thuốc đặc trị. Trung tâm đang phối hợp với Viện Thú ý nghiên cứu tìm ra vaccin đặc trị loại bệnh này. Tuy vậy, theo ông Khu cứ cho thỏ “ăn chín uống sôi” đảm bảo chúng rất ít bệnh tật.

Triều Dương – Báo nông thôn, số 47, 24/3/2003

Cách nuôi thỏ có thu nhập cao

Anh Nguyễn Văn Mai ở Vĩnh Hưng, Vĩnh Thạnh Trung, Châu Phú (An giang) có cách nuôi thỏ như sau:

Anh đóng lồng thỏ dài, có kích thước khoảng 0,5m, cao 0,5m và ngăn ra từng ô có chiều dài 0,5m.

Tùy theo vị trí đặt lồng nuôi thỏ mà số ô nhiều hay ít. Khung lồng làm bằng gỗ tạp, lưới chì lỗ vuông loại 1,5cm bao quanh, nắp lồng ở phía trên, cài, mở dễ dàng.

Phía dưới lồng thỏ nếu không phải là sàn xi măng thì nên lót thiếc, đặt nghiêng để dễ quét dọn vệ sinh chuồng trại.

Anh Mai cho thỏ ăn 3 cữ/ ngày. Mỗi lần ăn, cỏ được anh bó chặt chừng một nắm treo lơ lửng trên nắp chuồng, nên thỏ muốn ăn phải đứng lên mà ăn. Khi ăn, cọng rau cỏ nào rơi xuống, thỏ sẽ gậm ngay cho hết mới đứng lên ăn tiếp rau cỏ trong nắm đang treo (vì dễ hơn đứng ăn).

Nếu không treo từng nắm rau cỏ, khi ăn thừa, thỏ ỉa, đái khiến cỏ dính nước tiểu và phân nó sẽ chê, thà nhịn đói chớ không ăn thức ăn đă dính phân hay nước tiểu. Chính vì vậy, mà người không biết, nuôi thỏ tốn nhiều rau cỏ… Anh Mai cho biết, thỏ có thai khoảng 29 ngày thì chuyển bụng, cắn lông, lót ổ, cào vách lồng nuôi, một đến hai ngày sau sẽ đẻ.

Anh Mai đặt ổ làm bằng gỗ, kích thước khoảng 30cm x 30cm , có vách ổ cao khoảng 7 – 10cm, trong đó có lót giấy xé nhỏ thành sợi, hay vải vụn để thỏ mẹ ít cắn lông lót ổ ủ ấm thỏ con.

Thỏ con sinh ra da đỏ hỏn như chuột, mỗi lần đẻ khoảng từ 4 – 10 con. Nuôi nhiều thỏ mẹ đẻ cùng ngày có thể tách bầy nhiều sang bầy ít, để mỗi bầy khoảng 5 – 7 thỏ con là vừa để thỏ mẹ đủ sữa nuôi con lớn đều – Tách ngay sau khi đẻ, đểvài ngày sau mới tách nó sẽ phát hiện ra (có lẽ là mùi) không phải con của mình, nó sẽ cắn chết.

Thỏ con bú sữa mẹ khoảng 5 đến 8 ngày. 10 – 15 ngày  sau, thỏ con vừa bú sữa thỏ mẹ vừa tập ăn cỏ và lớn nhanh, lanh lẹ dần. Vì thỏ mẹ sau khi sinh con khoảng 30 giờ sau là có thể cho thỏ đực phủ nọc, chỉ cần 2- 3 lần là đủ, nếu sau đó 7 ngày, thả thỏ cái vào lồng thỏ đực mà thỏ cái không chịu nọc lại là nó đã mang thai.

Bầy thỏ con sinh được 24 ngày, anh Mai cho trộn thuốc chống cảm cúm, chống tụ huyết trùng trong cơm cho chúng ăn dần dần – đến ngày thứ 27, anh Mai bắt thỏ cái đưa sang lồng khác chuẩn bị lót ổ cho đẻ lứa tiếp theo.

Anh Mai cho biết, thỏ con rất dễ dị ứng khi thay đổi môi trường, nếu không trộn thuốc trong cơm cho thỏ con ăn và tách bầy bằng cách bắt thỏ con đi, dời sang chuồng khác, chúng rất dễ chết. Chính điều này, nhiều người nuôi thỏ hay mắc phải, thiệt hại, không hiệu quả. Thỏ con thôi bú, ăn cơm và rau cỏ khoảng 5 ngày sau là có thể bán. Mỗi con lúc này cân nặng khoảng 300 – 400g tùy theo bầy nhiều hay ít. Sau khi tách bầy, cho thỏ ăn cỏ, mỗi tháng tăng trọng khoảng 350 – 450g/con. Sau khi đẻ được 5 tháng, thỏ có thể cân nặng khoảng 2 đến 2,2kg/con là có thể phối giống để sinh sản.

Mai Bửu Minh – Báo nông nghiệp, số 37, 5/3/2002

Nuôi thỏ

Để nuôi thỏ đạt năng suất cao, phải hội đủ các yếu tố sau: Giống tốt và có kỹ thuật phối giống: thức ăn đủ số lượng, chất lượng, và kỹ thuật nuôi dưỡng: vệ sinh thức ăn, nước uống, chuồng trại đúng kỹ thuật: lồng nuôi, ổ đẻ nhà nuôi thiết kế đúng tiêu chuẩn kỹ thuật…

Giống và kỹ thuật phối giống

Để có giống tốt nên mua thỏ giống ở những gia đình chuyên nuôi thỏ sinh sản hoặc các trại thỏ. Thỏ bố mẹ mỗi năm đẻ 5 – 6 lứa trở lên, mỗi lứa đẻ 6 – 7 con, nuôi đến khi xuất chuồng được 5 con tốt. Thỏ cai sữa lúc 30 – 32 ngày tuổi đạt trọng lượng 400 -500 gram/con. Thỏ trưởng thành cho phối giống lần đầu khi trọng lượng đạt 2 – 3 kg (tuỳ thỏ nội hoặc thỏ lai). Thỏ giống ngoại hình đẹp, đùi to, mông nở, lưng rộng, thân to, cổ ngắn, da mềm. Thỏ cái có 8 – 10 vú đều, đầu vú to rõ; thỏ đực hai hòn cà lộ rõ, đều, dương vật thẳng. Thỏ cái ba tháng tuổi đã có khả năng sinh đẻ, nhưng phải để sáu tháng tuổi mới cho phối giống (thỏ nội có thể năm tháng). Thỏ cái động dục quanh năm, nhưng mùa xuân, mùa thu thỏ đẻ tỷ lệ cao, tỷ lệ nuôi sống sau cai sữa cao hơn, thỏ đực ít chịu phối giống khi thời tiết oi nóng. Phối giống cho thỏ tốt nhất vào lúc sáng, trời mát, thường người ta cho thỏ phối 2 lần/ngày (mỗi lần cách nhau 4-6 giờ), tỷ lệ thụ thai cao, số con đẻ ra nhiều.

Thức ăn và nuôi dưỡng

Nuôi thỏ hoàn toàn bằng lá cây, cỏ, rau, thỏ sẽ lớn chậm, tăng trọng ít, không kinh tế. Nếu nuôi thỏ hàng hóa cần phối hợp cho ăn thêm các loại hạt ngũ cốc (thóc lép, ngô, đậu) hoặc thức ăn tinh hỗn hợp bán sẵn, dạng bột, dạng viên (Trung tâm Nghiên cứu dê và thỏ Sơn Tây, Hà Tây và Công ty Thức ăn Guyomare’ H-VCN Thụy Phương, Từ Liêm, Hà Nội đều có sản xuất).

Thỏ nuôi sau cai sữa (30 ngày tuổi) khoảng 70 ngày là ăn thịt được.

Thỏ rất thích ăn đêm, lượng rau cỏ buổi tối của thỏ thường chiếm 2/3 khẩu phần ăn hàng ngày. Thức ăn thừa phải loại bỏ không được dùng cho ăn vào hôm sau. Khoai lang tươi, bí đỏ, cà rốt thái miếng cho ăn ban ngày 40-50g/con đều được. Thức ăn tinh cho ăn lúc 7-8 giờ. Một phần ba cỏ rau còn lại cho ăn lúc 9-11 giờ. Củ, quả cho ăn từ 14-15 giờ. Buổi tối cho ăn 1/3 số rau, cỏ, đến 21 – 22 giờ cho ăn hết số rau, cỏ còn trong ngày.

Vệ sinh thức ăn, nước uống

Cho thỏ uống nước máy, nước giếng khoan không có mùi tanh sắt… Rau cỏ rửa xong để ráo nước mới cho thỏ ăn. Mỗi ngày thỏ trưởng thành cần uống 0,6-0,8 lít nước/con, thỏ nhỡ 0,3 lít/con.

Lồng nuôi, ổ đẻ, nhà nuôi:

Lồng thỏ làm theo kiểu hộp có kích thước 40x60x50cm. Nguyên liệu có thể làm bằng tre, gỗ.v.v… Đáy dưới làm bằng lưới mắt cáo có đường kính 1 cm thì phân sẽ lọt, dọn vệ sinh dễ dàng. Ổ đẻ có thể làm bằng cát-tông, cót ép, gỗ mỏng nhẹ. Đóng thành khay chiều cao 4 thành chung quanh 35cm, thỏ nhảy vào cho con bú dễ dàng.

Nhà nuôi thỏ phải cao thoáng mát mùa hè, ấm áp mùa đông. Chung quanh nhà quang đãng, sạch sẽ tránh có cây cối um tùm nơi trú ẩn của muỗi, chuột… là động vật, côn trùng truyền bệnh cho thỏ. Nhà nuôi thỏ có độ ẩm 60-70% là phù hợp, nhiệt độ không khí từ 25 – 28 độ C là tốt.

Kỹ sư Nguyễn Ngọc Nam (Báo Nông thôn ngày nay)

Nuôi thỏ công nghiệp 

Chuồng trại

Trại nuôi thỏ phải thoáng mát, có ánh nắng ban mai lọt vào, dễ làm vệ sinh, có rào chắn chuột, mèo; chuồng có lưới sắt, có giá đỡ bằng sắt hoặc bằng cây có sơn phủ.

Thỏ giống

Chọn thỏ trong độ tuổi từ sáu tuần đến năm tháng tuổi. Dựa vào các đặc điểm sau: vành tai sạch, không bị ghẻ. Bàn chân và kẽ chân không ghẻ. Mí mắt không sưng vì ghẻ, mắt trong. Lông thỏ mịn và sáng, không bị xù.

Bụng mềm, lông bụng xốp. Đuôi sạch không có dấu hiệu dính phân ướt. Da lưng thỏ mềm, không tróc lông. Cục phân to, tròn và khô. Thỏ nặng chắc và hiếu động, được tiêm chủng ngừa ghẻ, cầu trùng… Không nên mua thỏ đã đẻ hoặc đang có chửa: vì thỏ đã đẻ là thỏ đã bị dạt, còn thỏ có chửa mà di chuyển dễ bị chết hoặc sẽ đẻ non.

Thức ăn

– Rau cỏ khô: Chọn rau cỏ loại nhiều protein và calcium, rửa sạch và phơi vừa khô như: cỏ lông, rau lang, rau muống, lá Trichintera…

– Cám viên: Cám viên phải cho ăn hạn định trong sáu tuần. Thức ăn phải có từ 15-23% chất xơ. Thỏ có khuynh hướng béo phì khi ăn cám, do đó phải hạn chế cho ăn cám sau 7 tháng tuổi. Thỏ cần được cung cấp chất xơ từ cỏ.

– Xơ và protein: Lý tưởng nhất là từ 12-25% chất xơ, protein 14-15%, không dùng protein động vật, calcium 1%, chất béo thấp hơn 2%, bổ sung vitamin.

– Lượng thức ăn : Cám viên 5% đối với trọng lượng cơ thể, rau cỏ khô không hạn chế.

– Rau: Thỏ từ 2,7kg trở lên rất cần rau tươi nhất là rau lang, tránh các loại đậu, cà chua… Không nên cho thỏ ăn rau dại vì có thể gây ngộ độc cho thỏ. Nước đu đủ, nước dứa có tác dụng tiêu hoá lông trong bao tử thỏ, cho uống 1 muỗng canh/lần.

– Nước: Thỏ rất cần nước hơn các loài động vật khác. Một con thỏ cần 50- 200ml nước/ngày. Thỏ cái đẻ cần cho uống nước theo nhu cầu, có khi cần tới 500ml/ngày.

Phòng trị bệnh

Những dấu hiệu thỏ bị bệnh: đi khập khiễng, tư thế không bình thường như lưng gập cong, uốn cong; liếm lông, cào chân, biếng ăn; nghiến răng; hơi thở nhanh hay nặng nhọc; không ngủ; biếng hoạt động.

Một số bệnh thường gặp ở thỏ:

Ung nhọt: Do vi khuẩn Pasteurella gây nên. Rút mủ và điều trị bằng kháng sinh. Giữ môi trường sinh sống sạch sẽ để phòng ngừa.

Cầu trùng: Do ký sinh trùng Eimriastiedae có trong gan, ruột thỏ gây ra. Thỏ bị tiêu chảy, ốm dần, biếng ăn. Dùng Trimethoprim- sulfa để diệt trị. Sử dụng thức ăn, nước uống vệ sinh, chính ngừa vacine.

Tiêu chảy: Do thức ăn, nước uống có vi khuẩn Escherischiacoli. Dùng thuốc trị tiêu chảy cho uống và tiêm. Vệ sinh chuồng trại, cho ăn thức ăn tốt, không bị nấm mộc, ôi thiu.

Ghẻ ở tai và chân : Do ký sinh cuniculi gây ra. Sử dụng thuốc ghẻ sát trùng, bôi vết ghẻ. Dọn vệ sinh, sát trùng chuồng trại.

Lông thỏ trong bao tử . Là do thỏ ăn lông của thỏ khác. Điều trị bằng cách cho uống nước trái dứa (trái thơm), đu đủ. Cho nhốt riêng những con thỏ ăn lông.

Rụng lông: Do rận, ve, bệnh ghẻ, vết thương… gây ra. Sử dụng thuốc trị ve, rận, ghẻ…, thường xuyên vệ sinh chuồng trại sạch sẽ.

Ngoài ra còn phòng trị một sổ bệnh như: thận, viêm đường ruột, viêm vú, viêm tinh hoàn, viêm đường hô hấp…

Nông thôn ngày nay – ND, 21/10/2005

Nuôi thỏ đem lại hiệu quả cao

Khác với lợn, gà, vịt… sử dụng 90-95% thức ăn tinh, thỏ là con vật có khả năng sử dụng nhiều thức ăn thô xanh như các loại cỏ, lá cây… Tùy theo phương thức chăn nuôi, tỷ lệ thô xanh trong khẩu phần có thể thay đổi từ 50-55% hoặc có thể từ 80-85%.

Trong chăn nuôi thỏ, vốn đầu tư con giống, chuồng trại ban đầu thấp, thỏ đẻ khỏe, trung bình mỗi 1 năm khoảng 6-7 lứa, mỗi lứa 6-7 con, sau 3 tháng nuôi thịt xuất chuồng khoảng 1,7-2kg/con. Ngoài ra thịt thỏ còn giàu và cân đối dinh dưỡng hơn các loại thịt khác: đạm cao 21% (trâu bò 17%, thịt lợn 15%, gà 21%), mỡ thấp: 10% (gà 17%, bò 25%, lợn 29,5%), giàu chất khoáng: 1,2% (bò 0,8%, gà 0,8%, lợn 0,65%).

Một trong những gia đình chăn nuôi thỏ thực sự có hiệu quả là hộ anh Nguyễn Văn Đoài ở đường Thăng Long (khu phố 3, phường Phú Lâm, TP Tuy Hòa, Phú Yên). Gia đình anh Đoài bắt đầu nuôi thỏ từ năm 2005 với 11 con thỏ giống bố mẹ Newzealand từ một người anh ở huyện Sơn Tây (Hà Tây).

Tham khảo các tài liệu kỹ thuật nuôi thỏ của Trung tâm Khuyến nông quốc gia, anh xây dựng hệ thống chuồng trại để chăn nuôi theo hướng sinh sản. Mỗi tháng thỏ đẻ một lứa, mỗi lứa ít nhất là 3 con, nhiều nhất có khi đến 10 con. Sau 10 ngày thỏ con mở mắt và tập ăn cùng mẹ, được 25 ngày thì có thể tách mẹ. Sau 3 tháng, thỏ đạt trọng lượng từ 2,7 – 3,2 kg/con, sau 5 tháng tuổi thỏ đạt 4-5kg/con và có thể bắt đầu sinh sản. Từ 11 con thỏ giống ban đầu, anh hiện có 45 con thỏ sinh sản và cho xuất chuồng khoảng 250 con thỏ con.

Theo anh Đoài, thỏ không kén chọn thức ăn. Có thể tận dụng các loại rau củ quả, rau muống biển, cỏ, ngô, thóc… làm thức ăn cho thỏ. Anh ước tính 1 con thỏ sau khi nuôi được 3,5 tháng, trọng lượng có thể đạt khoảng 3kg.

Anh Đoài cho biết, việc nuôi thỏ tuy đơn giản, ít tốn kém, nhưng muốn thành công thì người nuôi cần lưu ý những vấn đề sau:

– Phải có sổ sách quản lý, theo dõi đàn chặt chẽ.

– Chuồng trại phải luôn sạch sẽ, thoáng mát, không mưa tạt gió lùa.

– Thức ăn phải được rửa sạch và để ráo hẳn nước mới cho thỏ ăn.

– Cần bổ sung thêm thức ăn tinh cho thỏ.

– Cần phải triệt để tiêm phòng vacxin VHD trên đàn thỏ.

THÀNH NHÂN – Phú Yên, 7/9/2006

Cách nuôi thỏ cái, thỏ sơ sinh 

Thỏ thường đẻ vào ngày thứ 30 sau ngày phối giống, có thể sớm muộn hơn 2 – 3 ngày. Trước khi đẻ 1 – 2 ngày, thỏ mẹ vào ổ đẻ cào bới ổ rồi nhổ lông trộn lẫn với đồ lót tạo thành tổ ấm rồi đẻ con vào đó, lấy lông đậy kín lại. Một số thỏ mẹ đẻ lứa đầu không biết nhổ lông làm ổ, hoặc đẻ con ra ngoài ổ đẻ th́ ta cần nhổ lông bụng của nó và lấy đồ lót mềm của ổ khác làm tổ ấm rồi nhặt gom thỏ con đặt vào. Thỏ con sơ sinh không có lông, không mở mắt, không đứng được, nên phải có tổ ấm trong ổ đẻ để bảo vệ chúng khỏi bị chết rét và xây xát da.

Sau khi thỏ đẻ xong, phải kiểm tra đàn con, xem chúng có nằm tập trung không; đàn con có được phủ lông ấm không; đàn con có bao nhiêu con và có con nào chết không. Nếu thấy thỏ con phân tán trong ổ th́ phải thu chúng nằm gọn vào một nơi, lấy đồ lót phủ kín xung quanh thỏ con. Thỏ mẹ chỉ nhảy vào ổ cho con bú một lần trong một ngày đêm. Cho nên sau khi thỏ bú mẹ xong nên để thỏ yên tĩnh bằng cách đưa ổ đẻ ra khỏi lồng thỏ mẹ để tránh thỏ mẹ nhảy vào ổ làm con sợ hăi. 

Nếu thỏ đẻ nhiều hơn 8 con/lứa th́ nên san bớt con sang đàn khác, chỉ nên để tối đa 8 con v́ nhiều thỏ mẹ chỉ có 8 núm vú. Thỏ con san đến đàn thỏ ít con, nhưng không chênh lệch nhau quá 2 ngày tuổi. 

Nên lấy đồ lót của ổ đẻ mới để lót tay đón thỏ đến để thỏ mẹ mới không phát hiện ra mùi lạ th́ sẽ không cắn con. 

Thỏ mẹ đôi khi ăn thỏ con hoặc không cho con bú là do mẹ không có đủ sữa, khát nước. Trường hợp này hay xảy ra ở những thỏ mẹ đẻ lứa đầu, nuôi con vụng. Nếu con mẹ nào ăn con lặp lại lần thứ hai th́ phải loại bỏ, thay con mẹ khác. Hằng ngày phải kiểm tra đàn con kỹ lưỡng; phải xem chúng có bú no không. Nếu có con nào chết phải nhặt bỏ ra ngay. Nếu thỏ con đói sữa thì phải tìm nguyên nhân để khắc phục kịp thời. Có thể phải cho thỏ con bú nhờ mẹ khác. 

Thỏ mẹ nuôi con cần rất nhiều thức ăn và đủ nước uống để sản xuất sữa nhiều. Cho nên phải đáp ứng thoả măn nhu cầu thức ăn và nước uống. 

Thỏ con phát triển rất nhanh. Ban đầu thỏ con chỉ ngủ, ít hoạt động ngoài lúc bú mẹ. Khi chúng được 2 tuần tuổi th́ lông bắt đầu mọc phủ kín ḿnh, mở mắt và đi được. Đến 3 tuần tuổi, thỏ con sẽ ra khỏi ổ và tập ăn thức ăn với mẹ. Từ đó trở đi, thỏ con giảm dần sữa mẹ và ăn được thức ăn ngày càng nhiều. V́ vậy, khẩu phần ăn của thỏ mẹ phải được tăng dần lên. 

Khi thỏ được 5 -6 tuần tuổi thì có thể cai sữa mẹ và hoàn toàn ăn thức ăn cứng. Phải chăm sóc hết sức cẩn thận đàn thỏ con mới được cai sữa. Giai đoạn này thỏ con rất dễ bị ốm, chết, bởi vì cơ thể chưa phát triển hoàn hảo lại bị tác động bởi các yếu tố ngoại cảnh mới như thức ăn, không khí, lồng chuồng v.v… Cho nên, phải quét dọn chuồng rất sạch sẽ, thức ăn nước uống phải sạch và thay mới hàng ngày. Không nên vận chuyển thỏ trong giai đoạn này. Nên để đàn con ở ngay tại lồng chuồng thỏ mẹ đến 8 tuần tuổi mới chuyển đi nuôi vỗ béo ở lồng chuồng khác hoặc xuất bán thỏ giống. 

Thông thường nên cho thỏ phối giống lại vào chu kỳ động dục lần thứ hai sau khi đẻ khoảng 16 – 18 ngày. Như vậy thỏ có thể đẻ được 6 -7 lứa/năm. Tuy nhiên, đối với đàn thỏ giống nuôi thương phẩm, khoẻ mạnh và được cho ăn thức ăn dinh dưỡng cao th́ có thể cho đẻ liên tục, tức là cho phối ngay lần động dục đầu tiên, sau khi đẻ 1 – 3 ngày. Như vậy thỏ có thể đẻ được 8 – 9 lứa/năm. Nếu gia đ́nh mới nuôi thỏ lần đầu th́ nên cho thỏ đẻ thưa 4 – 5 lứa/năm là vừa. Khi có kinh nghiệm đáp ứng đủ nguồn thức ăn có dinh dưỡng tốt th́ có thể cho thỏ đẻ dầy hơn.

Khi phối giống luôn luôn đưa con cái đến lồng con đực và theo dõi kết quả phối giống. Nếu con cái chịu đực thì dừng lại, nâng mông để thỏ đực nhảy phối. Nếu thỏ đực giao phối được th́ ngă trượt xuống một bên con cái, có tiếng kêu. Sau một phút th́ đưa con cái về lồng của nó và ghi ngày phối vào phiếu để dự kiến ngày thỏ đẻ. Thời gian cho phối giống tốt nhất là buối sáng sớm hoặc buổi chiều tối. Sau khi cho thỏ cái vào lồng thỏ đực khoảng 5 phút mà không phối được th́ đưa thỏ cái trở lại lồng chuồng của nó và cho phối lại vào ngày hôm sau. Đôi khi thỏ cái có động dục nhưng vẫn cứ nằm sát vào góc lồng chuồng để trốn thỏ đực. Khi đó ta nên giúp chúng phối bằng cách: một tay nắm da gáy con cái, tay kia luồn xuống bụng, nâng mông nó lên để thỏ đực nhảy phối được dễ dàng.

Nguyễn Thắng – VOH, 18/4/2003

KỸ THUẬT CHỌN VÀ PHỐI GIỐNG, LÀM CHUỒNG NUÔI VÀ Ổ ĐẺ CHO THỎ

Chọn giống: Trước hết phải chọn lọc con giống từ các cơ sở giống tốt và ổn định:

– Thỏ giống phải có tính dục hăng hái, nhanh nhẹn, lông bóng và nhiều, to con, dài đòn, ngực sâu và nở, lưng rộng, mông, đùi nở nang, không đồng huyết…

– Tỷ lệ thụ thai trên 70%, phối giống 8 lần và đẻ được 5-6 lứa/năm, mỗi lứa 6-7 con.

– Tỷ lệ nuôi sống từ sơ sinh đến cai sữa trên 80% (mỗi lứa cai sữa trên 5-6 con), thích nghi tốt, khoẻ mạnh, không bệnh tật, tăng trọng nhanh (bình quân 30gr/con/ngày)…

Phối giống: ở cơ sở nhân giống thương phẩm, cho con cái phối giống 2 lần với 2 con đực khác nhau, đực trẻ phối trước, đực già phối sau, cách nhau khoảng 4-6 giờ. ở cơ sở nhân giống thuần chủng, phối lặp lại với một con đực, cách nhau 4-6 giờ.

Phải bắt thỏ cái động dục đến chuồng thỏ đực, nếu làm ngược lại thì thỏ đực không chịu phối hoặc phối nhưng kết quả không cao.

Thỏ hay có hiện tượng chửa giả, chậm sinh và vô sinh: Khi thỏ động dục, nếu có những tấc nhân làm hưng phấn… đều kích thích trứng rụng, hình thành quá trình điều tiết hooc-mon ở cơ quan sinh dục cái, cản trở kỳ động dục tiếp theo và thỏ cái biểu hiện như chửa thật. Muốn biết được thỏ chửa thật hay chửa giả thì phải khám thai, sau khi phối giống 12 ngày.

Trường hợp chậm sinh và vô sinh, lâu ngày không động dục hoặc phối giống nhiều lần mà không có thai, có rất nhiều nguyên nhân:

Thỏ đực, chưa thành thục về tính dục, già yếu hay bệnh tật… tính dục kém

– Thỏ cái, cơ quan sinh dục bị bệnh về tử cung, buồng trứng, rối loạn nội tiết (hooc-mon)…

– Thức ăn kém dinh dưỡng nhất là đạm, khoáng và sinh tố… hoặc do khẩu phần thức ăn quá đơn điệu, thỏ mập quá hay ốm quá…

– Nuôi dưỡng kém, chật chội, nóng nực, ẩm thấp, tối tăm, mưa tạt gió lùa.

Tất cả đều ảnh hưởng đến khả năng sinh sản của thỏ, nếu do môi trường hoặc chăm sóc nuôi dưỡng có thể khắc phục được, còn nếu do bệnh tật thì nên loại thải sớm.

Chuồng nuôi và ổ đẻ:

Chuồng nuôi: Phải bảo đảm thông thoáng, sạch sẽ, mát mẻ về mùa hè, ấm áp về mùa đông, tránh mưa tạt, gió lùa, quét dọn vệ sinh dễ dàng, cách xa chuồng heo, chuồng gà.

Qui cách chuồng phù hợp nhất là khối hộp chữ nhật, dài 90cm, rộng 60cm, cao 50cm, có thể chia làm 2 ngăn, mỗi ngăn có khay lưới đựng thức ăn thô xanh, máng đựng thức ăn tinh, máng đựng nước cho thỏ, kích thước vừa phải, bảo đảm vệ sinh và không hư hao. Mỗi ngăn nuôi 5- 6 con thỏ thịt, 2 con hậu bị hoặc 1 con sinh sản. Chuồng có thể làm 1 tầng hoặc 2 tầng, 1 tầng thì nắp mở mặt trên, 2 tầng thì cửa mở phía trước, dưới đáy tầng trên phải có khay hứng phân.

Ổ đẻ: Kích thước vừa phải, dài 50cm, rộng 35cm, cao 20cm, mặt trên có nắp đậy, một nửa cố định, một nửa làm cửa cho thỏ ra vào. 1- 2 ngày trước khi đẻ thỏ mẹ vào ổ nhổ lông bụng trộn với đồ lót để chuẩn bị đẻ. Cho nên, phải đặt ổ đẻ vào chuồng khi thỏ mang thai được 27-28 ngày và lấy ra khi thỏ con trên 20 ngày.

KS. Đặng Tịnh – Báo Nông nghiệp, số 196, 18/10/2002

Các tin có liên quan