Kỹ thuật trồng nấm

Trồng nấm – nghề phụ dễ làm

Nhiều loại nấm ăn lâu nay được xem là loại rau sạch, không chỉ giàu dinh dưỡng mà còn có tác dụng ngăn ngừa một số bệnh nên luôn được tiêu thụ mạnh. Trước đây, nông dân ĐBSCL chủ yếu chỉ trồng nấm rơm và nấm mèo, mấy năm gần đây qui trình nuôi trồng nhiều loại nấm khác như nấm bào ngư, linh chi… cũng đã được một số bà con áp dụng thành công. Nhìn chung, việc trồng nấm không đòi hỏi nhiều diện tích, giải quyết được việc làm cho lao động nhàn rỗi ở nông thôn và tạo thêm nguồn thu, góp phần cải thiện cuộc sống của nhà nông.

Hỏi: Những lợi ích thật sự mang đến cho nhà nông khi phát triển nghề trồng nấm?

– Đáp (PGS. TS. Nguyễn Bảo Vệ): Trồng nấm hiện nay là nghề phụ nhưng điều kiện nước ta thì có nhiều thuận lợi để phát triển thành nghề cho thu nhập chính và thậm chí công nghiệp hóa nghề trồng nấm. Các điều kiện thuận lợi ở ĐBSCL đó là:

– Nhiệt độ: gần như ổn định quanh năm, chênh lệch nhiệt độ giữa tháng nóng nhất và lạnh nhất không quá 5oC. Điều này cho phép nhà nông có thể sản xuất nấm được quanh năm.

– Ẩm độ: trong giai đoạn hình thành tai nấm thì luôn cần ẩm độ 80-95% mà ở ĐBSCL ẩm độ không khí trung bình là 80%, mùa mưa ẩm độ lên cao hơn nên rất thuận lợi.

– Nguồn nguyên liệu: ĐBSCL là vùng nông nghiệp nên nguyên liệu (giá thể) để trồng nấm rất nhiều, nhất là rơm rạ. Hàng năm có khoảng 20 triệu tấn lúa chúng ta cũng có lượng rơm rạ khoảng đó, chỉ cần sử dụng vài chục phần trăm lượng rơm rạ này để trồng nấm thì bảo đảm kế hoạch sản xuất nấm của đất nước dễ dàng đạt được. Bên cạnh đó, nguồn bã mía ở ĐBSCL cũng rất lớn và hoàn toàn có thể sử dụng để làm giá thể trồng nấm đạt hiệu quả.

– Nguồn lao động: trồng nấm hiện nay chủ yếu sử dụng lao động thủ công và lực lượng lao động nông nhàn ở vùng ĐBSCL rất nhiều, nhất là sau các vụ lúa. Ngoài ra, sản xuất nấm thì những người ngoài độ tuổi lao động vẫn có thể làm được nên giải quyết rất tốt việc làm cho lao động nhàn rỗi ở nông thôn.

– Tạo ra các dịch vụ khác: dịch vụ cung cấp rơm, làm meo nấm, thu mua, chế biến xuất khẩu…

– Nguồn giống: với tiến bộ khoa học kỹ thuật hiện nay chúng ta đã có rất nhiều dòng nấm tốt, cho năng suất cao; có kỹ thuật trồng nấm tiến bộ nên tạo điều kiện thuận lợi cho bà con trồng nấm đạt kết quả.

– Trồng nấm nguồn vốn đầu tư ít nhưng lại mau sinh lợi.

– Thị trường tiêu thụ rộng: do nấm giàu dinh dưỡng và có tác dụng dược lý khá phong phú như tăng cường khả năng miễn dịch của cơ thể, bảo vệ tế bào gan, hạ đường máu… nên nhu cầu tiêu thụ ngày càng tăng.

Từ những thuận lợi trên cho thấy việc phát triển nghề trồng nấm ở vùng ĐBSCL là hoàn toàn phù hợp và cần phải được quan tâm nhiều hơn nữa.

Hỏi: Làm thế nào để chọn lựa meo giống trồng nấm rơm tốt nhất? Nguyên nhân nấm rơm bị dộp? Xin hướng dẫn cách trồng nấm rơm hiệu quả nhất?

– Đáp (ThS. Ông Tài Thuận): Cách chọn meo giống tốt: meo có màu đồng nhất, sợi phát triển đều, không bị nhiễm mốc bệnh và không bị những vùng loang lổ. Giống nấm có mùi thơm đặc trưng, không có mùi chua; giống không quá già, đủ tuổi và tốt nhất là meo giống nấm ăn kín đáy sau khoảng 2-3 ngày.

Nguyên nhân nấm rơm bị dộp: do mưa nhiều hoặc tưới nhiều nước lúc nấm hình thành quả thể tức là giai đoạn nấm hình thành trứng cá cho đến lúc hình thành quả trứng sử dụng được. Để khắc phục thì trong quá trình trồng nấm rơm phải có áo rơm và mùa mưa nên sử dụng bạt che phủ bên trên. Điều chỉnh lượng nước tưới cho giồng nấm rơm, ngưng tưới trong mùa mưa. Cần tạo các rãnh thoát nước để trong mùa mưa nước sẽ thoát nhanh hơn.

Hiện nay có 2 cách trồng nấm rơm đó là trồng ngoài trời và trồng trong nhà. Mùa mưa thì có thể tận dụng diện tích trong nhà để trồng nấm rơm cũng cho năng suất cao. Mùa khô có thể trồng nấm ngoài trời. Qui trình trồng nấm rơm có thể tóm lược như sau:

* Trồng nấm rơm ngoài trời:

– Chọn điểm trồng: nền cao ráo, sạch sẽ, gần nguồn nước tưới, cuốc thành từng luống có chiều rộng 60-70cm, đánh rãnh thoát nước. Rải vôi trên nền với liều lượng 200g cho 30m2 nền. Tốt nhất nên chọn nơi trước đó chưa trồng nấm hoặc đã trồng cách 1 vụ và có xử lý nền kỹ để loại bỏ mầm bệnh.

– Nguyên liệu: chọn rơm không bị mốc, không bị nhiễm các bệnh đốm vằn, cháy lá.

– Xử lý nguyên liệu: ủ rơm bằng nước vôi có pH 12-13 trong 3-5 ngày, đảo lại ủ tiếp 3-4 ngày nữa. Nhiệt độ khi ủ rơm phải luôn đảm bảo đạt trên 70oC, ẩm độ 85-90%. Nếu rơm quá ẩm thì trong lúc đảo rơm có thể banh ra hong gió hoặc rơm khô quá thì có thể tưới thêm nước.

– Chất luống: chất rơm thành từng luống rộng 30-35cm, cao 25-30cm, rải meo thành hàng ở giữa luống. Phủ thêm 1 lớp rơm ủ khoảng 5cm trên bề mặt luống. Sau cùng dùng rơm khô phủ bên ngoài làm áo rơm dày khoảng 5-10cm. Khoảng cách giữa 2 luống tốt nhất vừa lọt bàn chân đi để luống này che nắng cho luống kia và giữ độ ẩm tốt.

– Chăm sóc mô nấm: thường xuyên theo dõi và điều chỉnh độ ẩm thích hợp cho nấm phát triển tốt. Nên tưới nấm vào chiều mát hoặc sáng sớm, tránh tưới buổi trưa nấm sẽ bị dộp. Sau khi chất mô nấm kể từ ngày thứ 6 trở đi, mỗi ngày đảo lớp rơm áo 1 lần để sợi nấm không thể phát triển ra lớp áo mô. Đến ngày thứ 8-9 bắt đầu xuất hiện nấm con, tưới nhẹ nhàng 2-3 lần trong ngày với lượng nước vừa đủ ẩm, 5-7 ngày sau sẽ thu hoạch đợt nấm đầu tiên. Như vậy thời gian từ khi chất giồng nấm rơm đến khi thu hoạch nấm lần đầu mất khoảng 15-17 ngày.

* Trồng nấm rơm trong nhà:

Cách chọn nguyên liệu và ủ rơm cũng tương tự như trồng nấm ngoài trời. Khi ủ rơm xong tiến hành ép thành bánh rơm bằng dụng cụ ép, trung bình mỗi bánh rơm có trọng lượng khoảng 4,5kg. Kết hợp cấy meo giống vào bánh rơm với khoảng cách 10x10cm. Bánh rơm sau khi ép được gói kín lại bằng tấm ni-lông trắng và đem ra phơi nắng từ 3-4 giờ để cung cấp nhiệt cho bánh rơm (khoảng 38oC), đem vào nơi thoáng mát. Sau khi ủ 5 ngày, chuyển bánh rơm vào nhà trồng nấm, mở tấm ni-lông và xếp các bánh rơm lên giá đỡ, mỗi bánh cách nhau 3-4cm tạo sự thông thoáng giữa các tầng kệ. Đến ngày thứ 6 sau khi cấy meo, tiến hành tưới đón nấm bằng cách dùng một số dinh dưỡng vi lượng hòa nước phun sương trên bề mặt mô nấm. Không phun thành giọt lớn, tốt nhất nên dùng bình phun và tiến hành vào buổi sáng lúc có nắng nhẹ hoặc chiều mát. Đến ngày thứ 10-12 là có thể thu hoạch đợt nấm đầu tiên, nấm có thể mọc cả mặt trên và mặt dưới của bánh rơm. Thời gian thu hoạch sẽ kéo dài hơn so với khi trồng nấm ngoài trời. Cần lưu ý nên thu hết chân nấm để không gây thối và lây nhiễm cho các tai nấm nhỏ sau này và tiến hành thu 1 lần hết cả đám nấm.

Hỏi: Nguyên liệu trồng nấm bào ngư? Khi trồng nấm bào ngư thì cần chú ý những vấn đề gì, chọn địa điểm như thế nào?

– Đáp (ThS. Ông Tài Thuận): Nguyên liệu trồng nấm bào ngư có thể là rơm tươi, mạc cưa của các loại gỗ thân mềm không có tinh dầu, bã mía…. Meo nấm thì nên chọn các giống nấm đúng tuổi, có màu đồng nhất, không nhiễm nấm bệnh (mốc xanh, mốc đen…), bề mặt các bịch meo nấm đồng nhất không có các sợi nấm lạ xuất hiện. Trồng nấm bào ngư bà con nên chọn địa điểm cách xa các khu vực chăn nuôi gia súc, gia cầm, đường giao thông; xây dựng trại tránh hướng gió lùa, vệ sinh và khử trùng tốt. Nước tưới rất quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến năng suất nấm bào ngư. Nên chọn nước tưới tốt, nước nhiễm phèn, nhiễm mặn sẽ làm quả thể nấm bị dị dạng. Tưới đủ nước, nếu thừa sẽ làm bịch phôi bị úng làm giảm năng suất nấm và là cơ hội cho các nấm mốc lạ tấn công vào.

Qui trình trồng nấm bào ngư cơ bản như sau:

– Chọn nguyên liệu: rơm rạ được làm ướt bằng nước vôi có pH=12.

– Ủ nguyên liệu: dùng ni-lông che xung quanh để nhiệt độ đống ủ trên 70oC, ủ 3-5 ngày thì đảo lại và ủ tiếp 2-3 ngày. Nguyên liệu sau khi ủ phải đảm bảo yêu cầu sau: độ ẩm 65-70% (vắt chặt 1 nắm nguyên liệu chỉ thấy ướt vân tay), có mùi thơm dễ chịu, màu vàng sáng, mềm. Băm rơm rạ thành từng đoạn 5-7cm để chuẩn bị đóng bịch, cấy giống.

– Bịch ni-lông đã được gấp đáy vuông có kích thước 30x40cm, cứ 1 lớp nguyên liệu 3-4cm thì rải meo nấm quanh thành bịch phôi, tiếp tục đóng tương tự như thế cho đến lớp thứ 4 và rải đều meo nấm trên bề mặt bịch phôi. Dùng một lượng bông bằng miệng tách uống nước để làm nút. Bịch đã cấy nấm phải căng tròn, độ nén vừa phải. Trọng lượng mỗi bịch phôi 30x40cm khoảng 2-2,5kg rơm rạ.

Nếu nguyên liệu là mạc cưa hay bã mía, sau khi làm ướt và ủ như rơm rạ thì phối trộn thêm 3% bột cám và 5% bột bắp, cho nguyên liệu vào bịch ni-lông chịu nhiệt, dùng bông không thấm làm nút, cổ nút bằng nhựa chịu nhiệt. Sau đó hấp khử trùng ở nhiệt độ 95-100oC trong 18 giờ. Để nguội, cấy 10-15g meo giống nấm vào bề mặt bịch nguyên liệu.

– Chuyển bịch nguyên liệu đã cấy giống vào nhà ươm. Thời gian ươm sợi tơ khoảng 17-22 ngày, khi thấy sợi tơ ăn kín đáy thì chuyển sang khu vực nuôi trồng. Tháo bỏ nút bông, cột chặt miệng bịt, tiến hành rạch 4-8 vết xung quanh bịch phôi và treo lên chăm sóc. Khi nấm hình thành quả thể chỗ vết rạch, dùng bình phun sương tưới ẩm đều cánh nấm. Chăm sóc, vài ngày sau thì có thể thu hái nấm. Trong giai đoạn này, độ ẩm quyết định năng suất, chất lượng của nấm. Tùy theo lượng nấm ra nhiều hay ít, to hay nhỏ, độ ẩm không khí cao hay thấp để điều chỉnh số lần tưới và lượng nước tưới trong ngày. Nên thu hái nấm tốt nhất khi cánh nấm có đường kính 3-5cm và hái cả cụm. Sau khi thu nấm đợt 1 thì ngừng tưới nước trực tiếp, khoảng 5-7 ngày sau nấm sẽ ra tiếp lần 2. Mỗi đợt nuôi trồng có thể thu hái 3-5 lần nấm.

Nấm bào ngư cho năng suất khá cao, khoảng 60-70% so với nguyên liệu khô. Một bịch nấm bào ngư kích thước 30×40 thì cho khoảng 600-700g nấm tươi. Thời gian từ khi tiến hành trồng nấm bào ngư đến thu hái xong từ 2-2,5 tháng.

* PGS. TS. Nguyễn Bảo Vệ – Trưởng Khoa NN & SHƯD, Trường ĐHCT.

* ThS. Ông Tài Thuận – PGĐ Trung tâm Nghiên cứu và Ứng dụng KHCN tỉnh Sóc Trăng.

* Ks. Tiêu Minh Tâm – Trưởng Phòng Chuyển giao kỹ thuật, Công ty CP BVTV An Giang

– Đại diện cho đơn vị phối hợp thực hiện chương trình Nhịp Cầu Nhà Nông

Báo Cần Thơ, 9/10/2006

Trồng nấm theo công nghệ mới, giảm chi phí, đảm bảo chất lượng nấm sạch

Trung tâm ứng dụng chuyển giao tiến bộ khoa học và công nghệ tỉnh Vĩnh Phúc vừa ứng dụng thành công biện pháp sản xuất nấm theo công nghệ mới đưa năng suất nấm tăng từ 30-40%, giảm 60% chi phí lao động, đảm bảo chất lượng nấm sạch. Mô hình được ứng dụng thành công trên 3 loại nấm rơm, nấm sò, nấm mỡ với diện tích 120 mét vuống. Đối với nấm rơm duy trì nhiệt độ nguyên liệu trồng nấm từ 30-420C, độ ẩm nguyên liệu nuôi trồng từ 60-70%, ánh sáng đạt mức 80lux cho, sử dụng dung dịch Anolyte trong vệ sinh môi trường thường xuyên năng suất đạt 264kg nấm tươi/ 1 tấn nguyên liệu, tăng 100-120kg so với cách trồng thông thường. Đồng thời sử dụng công nghệ tưới phun bán tự động tiết kiệm được 7 công lao động so với phương pháp tưới thủ công.

Đối với nấm sò duy nhiệt độ thấp hơn từ 20-28 C, giữ nguyên độ ẩm nguyên liệu nuôi trồng từ 63-65% và ánh sáng giữ ở mức 80lux, kết hợp sử dụng dung dịch Anolyte trong vệ sinh môi trường trồng năng suất đạt tới 621,4kg nấm tươi/ 1 tấn nguyên liệu, cao hơn trên 200kg so với cách trồng thông thường. Sử dụng công nghệ tưới phun bán tự động tiết kiệm được 11 công lao động so với phương pháp tưới thủ công.

Riêng đối với phương pháp trồng nấm mỡ giảm nhiệt độ xuống từ 12-18 C, độ ẩm duy trì ở mức từ 60-75%, ánh sáng chỉ đạt mức 3-8lux, kết hợp sử dụng dung dịch Anolyte trong vệ sinh môi trường trồng nấm, cho năng suất năng suất năng suất đạt 310kg nấm tươi/ 1 tấn nguyên liệu cao hơn so với khi chưa điều chỉnh từ 70-100kg. Sử dụng công nghệ tưới phun bán tự động tiết kiệm 4 công lao động so với phương pháp tưới thủ công.

Theo tính toán sản xuất liên tục trong 1 năm với 3 loại nấm trên diện tích nhà xưởng 120m2 cho hiệu quả: nấm rơm 1 vụ với 6 chu kỳ (2,5 tháng) lãi 1.190.783 đ, tổng trong 6 tháng sản xuất liên tục lãi 7.144.698đ; nấm sò 1 vụ kéo dài 2,5 tháng, lãi thu được 1.176.858 đ. Đối với nấm mỡ một vụ kéo dài 2,5 tháng, lãi thu được 2.186.476 đ. Tổng thu trong năm đối với sản xuất 3 loại nấm từ mô hình là 10.508.032đ, lãi gấp hai lần so với cách trồng nấm thông thường.

Xây dựng mô hình trông nấm theo công nghệ mới này chi phí rất thấp. Nhà xưởng chỉ cần dùng lá cọ lợp mái, lắp đặt hệ thống ánh sáng nhân tạo bằng bóng đèn tiết kiệm điện compac, sử dụng hệ thống tưới phun bán tự động thuận tiện cho việc điều chỉnh độ ẩm. Trung tâm đang tập huấn hướng dẫn người dân kỹ thuật trồng nấm bằng phương pháp mới nhằm giảm chi phí, năng suất, hiệu quả kinh tế cao.

ICARD, 25/3/2008

Ứng dụng tiến bộ kỹ thuật sản xuất và sơ chế, bảo quản nấm trên nguồn nguyên liệu rơm và lục bình

Tận dụng nguồn phế phẩm dồi dào ở khu vực ĐBSCL sau thu hoạch như rơm rạ, bã mía, lục bình, bắp… để trồng nhiều loại nấm như nấm rơm, nấm bào ngư, nấm mèo, linh chi…

Nhằm tạo thêm thu nhập đáng kể cho nhiều nông dân sản xuất tại gia đình và nguồn bã nấm sau khi thu hoạch xong làm thức ăn nuôi trùn quế, ủ phân hữu cơ bón cho cây trồng, vừa tiết kiệm chi phí trong sản xuất nông nghiệp vừa giải quyết vấn nạn ô nhiễm môi trường.

Dưới sự tư vấn và hướng dẫn kỹ thuật của chuyên gia nấm – ông Lê Duy Thắng, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên Tp.HCM, Sở Khoa học Công nghệ Long An và Trung tâm Khuyến nông đã phối hợp thực đề tài “Ứng dụng tiến bộ kỹ thuật xây dựng mô hình sản xuất và sơ chế, bảo quản nấm trên nguồn nguyên liệu rơm và lục bình” từ tháng 8/2009 đến tháng 12/2010. Với 6 nông hộ chuyên canh trồng nấm đại diện cho 6 huyện, Tp: ông Nguyễn Văn Dũng (ấp 5, xã Nhị Thành, huyện Thủ Thừa), Trần Bá Dũng (Kp. Nhơn Hậu 2, phường Tân Khánh, Tp. Tân An), Lê Văn Mười (ấp Bình Thủy, xã Bình Quới, huyện Châu Thành), Nguyễn Văn Nhiều (ấp Ông Nhan Đông, xã Bình Hiệp, huyện Mộc Hóa), Nguyễn Thị Diệu Ngân (ấp Kinh Mới, xã Vĩnh Thuận, huyện Vĩnh Hưng), Huỳnh Văn Nhựt (ấp 4, xã Vĩnh Châu B, huyện Tân Hưng). Mô hình tiến hành gồm 6 nghiệm thức (NT) trên nấm rơm và 4 NT trên nấm bàu ngư cho kết quả như sau:

Đối với nấm rơm, NT1: Rơm (100%) không khử trùng nhiệt, NT2: Rơm (70%) + lục bình (30%) không khử trùng, NT3: Rơm (100%) khử trùng nhiệt, NT4: Rơm (70%) + lục bình (30%) khử trùng; NT5: Rơm (100%) thực hiện ngoài trời, NT6: Rơm (50%) +lục bình (50%) thực hiện ngoài trời. Qua thống kê năng suất bình quân của 6 mô hình nông hộ (tính cho 100 bịch phôi), đối với nấm rơm trong nhà NT4 cho năng suất cao nhất 19 kg, NT2 và NT3 năng suất như nhau 17 kg, NT1 là 15 kg. Đối với nấm rơm ngoài trời NT6: 85 kg, NT5: 71 kg. Tuy nhiên tỷ lệ nhiễm tạp nấm rơm NT2 và NT6 chiếm cao nhất (16%).

Đối với nấm bào ngư, NT1: Rơm không khử trùng, NT2: Rơm (70%) +lục bình (30%) không khử trùng, NT3: Rơm khử trùng, NT 4: Rơm (70%) + lục bình (30%) khử trùng. Tính bình quân từ 6 mô hình (dựa trên 100 bịch phôi), NT4 cho năng suất cao nhất là 42 kg, NT 2 và NT3 năng suất bằng nhau 38 kg, NT1 thấp nhất 31 kg. Tỷ lệ nhiễm tạp NT2 cao nhất (20%) và thấp nhất là NT3 và NT4 (5%).

So sánh về giá cả còn tùy thuộc thời điểm, tuy nhiên nấm rơm có thị trường tiêu thụ rộng và giá bán bình quân của 6 mô hình là 22.000 đồng/kg, đối với 100 bịch phôi giống sử dụng trồng nấm rơm, sau khi trừ chi phí đối với nấm rơm trong nhà NT4 lời 175.000 đồng, đối với nấm rơm ngoài trời NT6 lời 988.000 đồng. Còn đối với nấm bào ngư, giá bình quân 16.000 đồng/kg, sau khi trừ chi phí NT4 lời 447.000 đồng. Xét về hàm lượng dinh dưỡng trồng nấm rơm trên nguyên liệu rơm và lục bình: cacbohydrate và protein trên lục bình cao hơn trên rơm; tuy nhiên hàm lượng lipid trên rơm cao hơn trên lục bình. Kết quả phân tích trên nấm bào ngư trồng trên nguyên liệu rơm và lục bình: Lượng Cabohydrate, đạm tổng số, protein trên rơm cao hơn trên lục bình.

Tại điểm tổng kết đánh giá các mô hình tại nhà chị Nguyễn Thị Diệu Ngân, ấp Kinh Mới, xã Vĩnh Thuận, huyện Vĩnh Hưng vừa qua. Nhiều bộ kỹ thuật và nông dân trồng nấm thuộc Khu vực Đồng Tháp Mười, huyện Thủ Thừa, Châu Thành, Tp.Tân An đã tham quan mô hình trồng nấm của chị Ngân và tìm hiểu các trang thiết bị lò hấp bịch phôi, dụng cụ sơ chế nấm, máy ép bịch mũ, máy cuốn rơm, máy cắt rơm và lục bình. Chị cho biết có nhiều tiện ích khi sử dụng trang thiết bị: Máy cắt rơm và lục bình giúp dễ đóng bịch phôi nhanh, nguyên liệu dễ phơi và hạn chế nấm bệnh, lò hấp phôi giúp bịch phôi ít bị nhiễm nấm bệnh, khi hấp khử trùng tơ bung nhanh, mạnh hơn không hấp; trồng nấm trong nhà ít tốn nguyên liệu và diện tích đất trồng hơn so với ngoài trời và năng suất cao hơn do ít bị ảnh hưởng bởi thời tiết.

Theo ý kiến của lãnh đạo nông nghiệp tỉnh Long An, đối với Long An là tỉnh sản xuất nông nghiệp là chính yếu và nguồn nguyên liệu trồng nấm rơm luôn dào dồi, sẽ thuận lợi cho nhà nông tăng thu nhập, cải thiện kinh tế gia đình sau mỗi vụ mùa. Ngoài việc sản xuất nấm rơm theo lối truyền thống, bà con phải tiếp tục “hiện đại hơn” trong sản xuất nấm, sử dụng nhiều nguồn nguyên liệu và trang thiết bị máy móc phục vụ; đồng thời đa dạng nguồn nấm.

Bình Minh – Long An, 27/11/2010

Các loại nấm quý

Xin giới thiệu một số loài nấm quý đã được Trung tâm Nghiên cứu Linh chi & Nấm dược liệu (Công ty TNHH Linh chi VINA) nhân giống và nuôi trồng thành công.

Nấm Tâm Trúc

Nấm Tâm Trúc là loại thực phẩm cao cấp có nhiều đặc tính chữa bệnh. Đây là một loài nấm thường mọc trên đất, dọc bờ ruộng, tên thông dụng là Tâm Trúc hay Nữ Hoàng, tên tiếng Anh là Stinkhorn, tên khoa học là Dictyophora indusiata.

Hiện nay Trung Quốc là nước sản xuất nấm Tâm Trúc lớn nhất thế giới dưới dạng nấm sấy khô (bán trong các cửa hàng đông dược hoặc thực dược). Ở Việt Nam, loại nấm này được phát hiện mọc hoang tại tỉnh Long An từ năm 2004. Sau đó, mẫu nấm được phân lập, lưu trữ giống và nuôi trồng tại Trung tâm Nghiên cứu Linh chi & Nấm dược liệu.

Tháng 10 năm 2005, trung tâm đã trồng ra quả thể loài nấm này. Đây là công trình trồng thành công nấm Tâm Trúc đầu tiên ở Việt Nam. Thời gian từ khi cấy hệ sợi vào bịch mạt cưa đến khi đầy bịch là 2 tháng, sau đó phối trộn bịch phủ đất.

Sau khoảng 1 tuần, những nụ nhỏ xuất hiện trên mặt đất phủ, 4 ngày sau lớn nhanh đến 5-6cm đường kính, dạng hình trứng và nứt ra để cuống nấm màu trắng xốp mọc lên, cao khoảng 8-10cm, phần cổ có lưới trắng bao quanh rất đẹp giống khăn voan che mặt của công chúa, nữ hoàng nên nấm mới có tên gọi là nấm Nữ Hoàng.

Phần đầu phía trên của nấm hình chóp có màu đen, nhầy, có mùi đặc biệt nên thu hút rất nhiều côn trùng, nhất là ruồi. Nấm sẽ tàn trong vòng 3 ngày nếu không thu hái kịp thời.

Nấm Thái dương

Nấm Thái dương có tên khoa học là Agaricus brasiliensis, tên thông dụng là Sun Agaricus hay Sun Royal Agaricus, Mushroom of God; có nguồn gốc ở Brazil; là một trong những loài nấm ăn ngon và có giá trị dược tính rất quý. Nấm có màu nâu hồng ở mũ, cuống trắng, đường kính mũ khi còn búp là 3-4cm, khi nở có thể đến 8cm, có vòng bao. Cuống nấm có đường kính 1cm, cao 6-7cm.

Thành phần dinh dưỡng rất phong phú. Trong 100g nấm khô (theo thống kê của Paul Stamets, 2005) chứa: calorie: 362g, protein: 35,19g, chất béo: 3,39g, vitamin B1: 0,26mg, vitamin B2: 2,40mg, vitamin B3: 58,5mg, vitamin D: 731mg…. Ngoài ra, nấm còn hỗ trợ điều trị ung thư. Agaricus brasiliensis trồng được ở nhiệt độ 25-27oC, cơ chất là các chất hoại sinh phân hủy thứ cấp như rơm rạ, phân trâu, bò, ngựa…

Trung tâm đã nuôi cấy nấm trong bịch mạt cưa cao su với công thức đất được phối trộn đặc biệt phủ lên mặt bịch sau khi hệ sợi đã sinh trưởng đầy đủ. Sau 15 ngày phủ đất, các hạt nhỏ hình trứng li ti xuất hiện, kết lại và lớn dần thành mầm quả thể, 3 ngày tiếp theo thì thành tai nấm hoàn chỉnh và có thể thu hoạch. Nấm có mùi thơm, vị ngọt, ngon, năng suất ban đầu đạt 60g/400g cơ chất, hiệu suất sinh học là 15%.

Nấm Thượng Hoàng

Nấm Thượng Hoàng, hay còn gọi là nấm Hoàng sơn (Sang Hwang), là tên gọi các loài gần nhau như phellinus linteusP. igniarius, P. baumi, P.robustus, P. pini… trong chi Phellinus, họ Hymenochaetaceae, ở Nhật Bản loại nấm này được gọi là Meshimakobu; ở Hàn Quốc gọi là Sang Hwang.

Đây là các loài nấm mọc lâu năm, lớp thụ tầng năm sau chồng lên lớp thụ tầng năm trước, tuổi nấm có khi đến vài mươi năm. Nấm thường mọc ở những vùng rừng sâu, núi cao hiểm trở hay trong các khu rừng nguyên sinh.

Các loại nấm trong chi Phellinus đang được các nhà nấm học thế giới quan tâm vì đặc tính chống khối u của nó. Theo phân tích của nhóm nghiên cứu của tiến sĩ Chihara tại Trung tâm Nghiên cứu Ung thư quốc gia Tokyo, Nhật Bản từ năm 1976, dịch chiết nước nóng nấm Thượng Hoàng tác dụng chống khối u lên tới 96,7%, cao nhất trong các loại nấm (nấm hương: 80,7%; nấm vân chi: 77,5%…).

 Do việc trồng tương đối khó và kéo dài nhiều năm nên cho đến nay nấm Phellinus chủ yếu được thu hái từ thiên nhiên với giá bán rất đắt. Việt Nam là nước có khá nhiều loài Phellinus mọc, tuy nhiên đợt sốt “Cổ Linh chi” vài năm trước đã làm các loài nấm Phellinus chịu “vạ lây”, bị tận thu và giờ còn rất ít trong các vùng rừng nguyên sinh.

Từ nhiều năm qua, các cán bộ khoa học của Trung tâm Nghiên cứu Linh chi & Nấm dược liệu đã sưu tầm khá nhiều loài Phellinus, lưu giữ được giống các loài này. Đến nay, trung tâm đã trồng thành công một loài nấm Thượng Hoàng. Đây là công trình trồng nấm Thượng Hoàng đầu tiên ở Việt Nam. Thời gian từ khi cấy nấm vào bịch đến khi thu hoạch là 9 tháng.

Nấm Linh Chi vàng

Linh chi vàng (hoàng chi) là một trong lục bảo linh chi (đỏ, vàng, tím, đen, trắng và xanh). Cho đến nay, loài nấm này không còn thấy ở Trung Quốc và các nước Đông Nam Á khác. Vào cuối mùa mưa năm 2002 tại TPHCM, các chuyên gia của Trung tâm Nghiên cứu Linh chi & Nấm dược liệu đã thu được mẫu vật nấm hoàng chi là một tai nấm mọc ra từ thân cây dừa (Cocos nucifera L.) đã được chặt hạ một năm trước đó.

Khi non, mặt trên tán nấm màu vàng chanh và khi già, màu vàng sậm, có ít vòng đồng tâm và vòng này thể hiện rõ rệt, toàn bộ tán nấm đều có màu vàng, không cuống, mặt dưới có các lỗ thụ tầng to có màu kem khi non và hơi bạc khi già, có 3- 4 lỗ thụ tầng.

Thịt nấm màu trắng kem, xốp, dày khoảng 20mm, lớp sắc tố vàng bên trên rất mỏng, dễ bể khi khô, lớp thụ tầng này dày khoảng 10mm… Bào tử đảm khá lớn so với các loài linh chi khác, hình trứng thuôn, kích thước từ 15-18m m x 8-10m m, lớp vỏ bào tử sần sùi… Đây được xác định là loài Ganoderma colossum.

Mẫu vật sau khi thu hái đã được phân lập, nhân giống và nuôi trồng thành công từ năm 2003. Kết quả cho thấy hệ sợi nấm mọc rất mạnh trên môi trường agar cũng như trên mạt cưa và sau 3 tháng đã thu hoạch được. Các đặc điểm hình thái và cấu trúc đều giống như mẫu chuẩn. Khi nấu, nấm ra nước có màu vàng trà lợt và có vị đắng nhẫn như ở Linh chi đỏ Ganoderma lucidum.

Nấm hầu thủ

Nấm hầu thủ tươi khi nấu có vị ngọt thơm; nấm khô có vị nhẫn đắng, hậu ngọt, có thể hãm thành một loại nước uống thay trà. Hầu thủ khô có thể phối hợp với nấm linh chi theo tỷ lệ 1:1 (5g mỗi loại), nấu nước uống trị viêm loét dạ dày, tiêu hóa kém, kén ăn…

Nấm hầu thủ hay nấm đầu khỉ có tên khoa học là Hericium erinaceus, tên tiếng Anh thông dụng là Monkey’s Head, Lion’s Mane, Houtou; tên tiếng Nhật là Yamabushi-take; tên tiếng Trung Quốc là Shishigashida.

Quả thể hầu thủ thường hình cầu hoặc hình ellip, mọc riêng rẽ hoặc thành chùm, có tua nấm dày đặc, rũ xuống như đầu khỉ, lúc già tua dài và chuyển sang màu vàng trông như bờm sư tử.

Quả thể khi non có màu trắng đến trắng ngà, thịt màu trắng, khi già nấm ngả sang màu vàng đến vàng sậm, các tua nấm chính là lớp bào tầng, dài từ 0,5-3cm, trên bề mặt tua có các đảm màu trắng mang bào tử đảm hình cầu, giữa bào tử có một giọt nội chất tròn.

Trong 100g nấm hầu thủ khô trồng ở TPHCM thì lượng protein chiếm gần 24%, chất béo gần 2%, có mặt hầu hết những vi lượng thiết yếu như sắt, phospor, calcium, kalium…

Đặc biệt, theo các nghiên cứu khoa học trên thế giới, nấm hầu thủ có tác dụng tốt đối với bệnh nhân Alzheimers; ngăn chặn quá trình lão hóa và phục hồi các neuron thần kinh; hoạt chất Polysaccharide tan trong nước của hầu thủ làm tăng hệ miễn dịch, chống lại ung thư phổi di căn, ung thư dạ dày, thực quản và ung thư da. Hệ sợi nấm và quả thể chiết từ nước nóng là chất căn bản có trong thức uống thể thao có tên là Houtou đã được vận động viên Trung Quốc sử dụng nhiều.

 Nấm hầu thủ là loại nấm ôn đới, chỉ trồng được những vùng khí hậu mát mẻ, nhiệt độ thích hợp cho nấm sinh trưởng là 16-200C, nhiệt độ cao nhất có thể trồng là 19-220C. Hiện nay, loại nấm này được trồng nhiều ở Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc…

Sau thời gian 2 năm khảo sát thử nghiệm từ nguồn giống hầu thủ Nhật trồng tại Đà Lạt, Cty TNHH Linh chi VINA đã tạo được dòng chịu nhiệt, ra quả thể bình thường tại trại nấm thuộc Trung tâm ở TPHCM. Điều đáng mừng là nấm sinh trưởng ổn định với nhiệt độ bình quân từ 30-330C và cao hơn mà không cần phải dùng bất kỳ biện pháp đặc biệt nào và hiệu suất sinh học bước đầu là 40%-50%, tức là thu hoạch được 160g-200g nấm tươi/400g cơ chất khô.

Điều này mở ra một triển vọng hết sức to lớn trong việc nuôi trồng đại trà một loài nấm ăn mới, thơm ngon và có dược tính quý ở TPHCM và các tỉnh miền Đông Nam bộ.

Thạc sĩ  Cổ Đức Trọng – Châu Trúc (Tổng hợp), SGGP, 23/01/2007

Phát hiện và điều trị một số bệnh ở nấm trồng

I. BIỂU HIỆN CỦA MỘT SỐ BỆNH Ở NẤM TRỒNG

Thường bệnh xảy ra ít có cách nào điều trị thật hiệu quả. Chủ yếu làgiảm bớt tác hại của nó và nhất là ngăn chặn nguồn bệnh lây lan khôngchỉ trong một đợt nuôi trồng mà có thể nhiều đợt tiếp theo.

Tùy theo biểu hiện của bệnh mà có phương pháp khắc phục (bảng 1).

Bảng 1 : Một số biểu hiện bệnh trong trồng nấm và biện pháp khắc phục

STTHiện trạngNguyên nhânBiện pháp khắc phục
1Tơ không mọc hoặc không bám vào cơ chất– Nguyên liệu quá ẩm– Nguyên liệu bị ngộ độc do mạt cưa có chất đầu, chất thơm. Bổ sung đạmkhông đúng cách, nồng độ amoniac (NH4) cao trong cơ chất. Nhiễm tạptrước khi cấy giống– Giống yếu, già hoặc chết– Nhiệt độ không thích hợp (nóng hoặc lạnh quá)– Xem lại độ ẩm ban đầu– Kiểm tra nguyên liệu và quá trình chế biến– Thay giống tốt hơn– Che ủ (nếu lạnh) thông thoáng (nếu nóng)
2Tơ mọc chậm và thưa hoặc rối nùi. Một số trường hợp ngừng nửa chừng– Nguyên liệu không đạt yêu cầu (pH acid (chua) hoặc kiềm, độ ẩm cao, đọng nước ở đáy. Đôi khi cũng do hơi khô)– Nguyên liệu bị nhiễm khuẩn– Giống thoái hóa (ít xảy ra so với 2 lý do trên)– Kiểm tra khâu chế biến nguyên liệu– Xem lại khâu khử trùng– Thay giống tốt hơn
3Tơ mọc đều nhưng không ra nấm– Giống thoái hóa– Nhiệt độ không thích hợp (cao quá hoặc đôi khi thấp quá)– Tơ chưa đủ trưởng thành (ra nấm)  – Độ ẩm không đủ hoặc hơi khô – Thiếu thông thoáng– Thay giống tốt hơn– Theo dõi nhiệt độ, tạo điều kiện cho nấm kết nụ– Để thêm một thời gian (sau khi tơ nấm đầy), rồi mới đem ra tưới– Giữ độ ẩm không khí trên 85% bằng cách phun nước.– Xem lại điều kiện nhà trồng (tăng độ thoáng khí)
4Quả thể kết nụ nhưng không lớn hoặc chết non– Giống thoái hóa– Nguyên liệu bó (rơm) hoặc nén (mạt cưa hay cơ chất khác) không chặt. Tai nấm dễ mất rễ và tàn lụi.– Thiếu dinh dưỡng– Nhiều tai nấm cùng xuất hiện và cạnh tranh nhau.– Dinh dưỡng giảm qua quá trình thu hái nhiều lần– Thay giống mới– Tăng độ nén cho mô– Bổ sung dinh dưỡng– Hạn chế số tai nấm phát triển cùng lúc (rạch hoặc mở túi một phần)– Tưới dinh dưỡng hoặc kết thúc quá trình thu hoạch
5Tai nấm bị nhũn trước khi thu hái– Nhiễm bệnh (nấm mốc, vi khuẩn hoặc côn trùng…)– Tưới nước trực tiếp và quá mạnh lên tai nấm (nhất là nấm rơm và bào ngư)– Cách ly nguồn bệnh, sử dụng thuốc để trị– Tránh tưới nước thành giọt lên tai nấm.
6Cuống nấm dài và nhỏ ; mũ nấm không phát triển– Nơi nuôi trồng bị ngộp (nồng độ thán khí CO2 cao)– Thiếu ánh sáng– Thông thoáng, nhất là chân nhà trồng– Cung cấp đủ ánh sáng cho nấm (ánh sáng khuếch tán)
7Tai nấm dị dạng (bông cải, teo đầu, khô cứng, chết non…)– Nhiễm bệnh (nấm mốc, côn trùng, nhện nấm…)– Nước tưới bị phèn, mặn– Ẩm độ không khí hơi khô– Nhiệt độ thay đổi đột ngột (lạnh quá hoặc nóng quá)– Xác định bệnh, cách ly và xử lý thuốc– Kiểm tra nước tưới bằng giấy pH (độ phèn) hoặc cảm quan (độ mặn)– Nâng độ ẩm bằng cách phun tưới nước– Che chắn thích hợp nhất là nơi có sự thay đổi nhiệt độ nhiều giữa ngày và đêm.
8Sản lượng kém– Cơ chất thiếu dinh dưỡng– Nhiễm bệnh– Giống yếu hoặc thoái hóa– Thời tiết thất thường, nhiệt độ thay đổi đột ngột– Thu hái không đúng cách (tách tai nấm hay hái không cẩn thận ảnhhưởng đến các tai nấm bên cạnh hoặc thừa gốc gây nhiễm cho nấm đợt 2hoặc 3…)– Thêm dinh dưỡng đầy đủ– Vệ sinh môi trường kỹ hơn trước và sau mỗi đợt nuôi trồng– Thay giống tốt hơn– Che chắn thích hợp – Xem lại cách thu hái

Việc sử dụng thuốc không phải là biện pháp tối ưu, nó thường dẫn đến các hậu quả xấu như :

– Gây độc cho người tiếp xúc trực tiếp với thuốc.

– Ảnh hưởng đến nấm trồng, làm tơ yếu dễ nhiễm bệnh hơn. Trong nhiều trường hợp tơ bị chết hoặc quả thể ngừng tăng trưởng.

– Giảm chất lượng sản phẩm: nấm có thể tích lũy các chất độc của thuốcvà sản phẩm của nó hoặc tai nấm trở nên độc cho người sử dụng.

– Làm mất cân bằng sinh thái: thuốc diệt mầm bệnh nhưng đồng thời cũngdiệt cả các sinh vật có lợi, bao gồm những “thiên địch” của đối tượnggây bệnh hay những kẻ thù của chúng. Thí dụ: kiến ăn nhện mạt (mites).Vì vậy khi bệnh phát triển trở lại, thì lan truyền rất nhanh và hậu quảnghiêm trọng hơn gấp nhiều lần.

– Sự lờn thuốc: việc sử dụng thường xuyên thuốc diệt khuẩn, diệt côntrùng, nhất là tình hình lạm dụng thuốc trong trồng nấm hiện nay có thểdẫn đến hậu quả là vi trùng, nấm mốc hoặc côn trùng quen dần với thuốc(lờn thuốc). Đến khi dịch bệnh phát triển khó chặn đứng.

Tuy nhiên, vì thuốc vẫn là cách dập dịch bệnh nhanh và hữu hiệu nhất,nên trong trồng nấm vẫn phải dùng một số thuốc để phòng ngừa và điều trịcác bệnh ở nấm. Những thuốc thường dùng được trình bày ở bảng 2.

Bảng 2 :  Một vài loại thuốc được dùng trong phòng bệnh ở nấm trồng

STTTên thuốcĐặc trịCách dùngLưu ý
1*Bennomyl (Benlate– C)Nấm mốcPha 12g/10 lít nước phun cho 10m2Thường diệt mốc trong đất (đất phủ nấm mỡ)
2*Bordeaux(sulfat đồng)Nấm mốcThêm sulfat đồng (CuSO4) cho đến khi bão hòa trong nước vôi 1%. Quét lên vết bệnh (thuốc pha xong dùng ngay, không để lâu)Theo Kijgman (1950) thuốc ít có giá trị thực tiễn (không diệt triệt để và đại trà)
3Formalin(Formol hay Formaldehyd)Nấm mốc, vi khuẩn, tuyến trùng– Phun giữa hai đợt trồng với nồng độ 0,2–0,3%– Xông hơi : đối với những phòng có thể đóng kín lại. Sử dụng 100ml cho thể tích khoảng 50m3– Tẩm giấy báo phủ lên mô nấm bệnh. Nồng độ 0,5% (2 lần)Hơi độc ảnh hưởng qua hô hấp, tránh hít thở trực tiếp
4Mancozeb (Dithane,Maneb)Nấm mốcPha nước rải 1g cho 1m2, giữa hai đợt nuôi trồng (ngay sau khi hái xong)Vón cục khi gặp nóng và lửa, phân hủy ở môi trường kiềm.
5Pentachlorophenolate Na (Santobrite)Nấm mốcPhun nước hoặc tẩm gỗ dùng trong trồng nấm. Nồng độ sử dụng 2% (nên thêm Soda (carbonat Na)) 
6Zineb (Tritofboral)Nấm mốcPhun sau mỗi đợt nuôi trồng (ngay sau khi thu hái xong), nồng độ 7%Vón cục khi bị nóng và lửa. Bị hủy ở môi trường kiềm. Ít độc nhưng gây dị ứng da.
7*Azodrin 50DDCôn trùng nhện mạt (mites)Pha với nước, nồng độ 1% phun trước và sau các đợt trồngThuốc rất độc với người và gia súc. Ăn mòn kim loại.
8*Basudin10H               50ND(Diazinon, Dd Diazital)RuồiPha nước và phun. Nồng độ 20g/10 lít nước (bột), hoặc 1 : 500 – 800 (Nhũ dầu)Thuốc độc với người và gia súc. Dễ bị phân hủy bởi kiềm và acid.
9*DDVP2%         50ND (Diclorodivinyl phosphat) Côn trùng mitesPha một chai (650ml) với 30 lít nước, phun nơi có dịch bệnh. Trường hợpbị bệnh trứng, có thể dùng DDVP 2% (không pha nước) và phun ba lần vàcách ngày, tốt nhất vào chiều tối.Dễ phân hủy bởi kiềm. Ăn mòn kim loại. Độc cho người và gia súc.
10*Dipterex 96BHN (Trichlorvos)Côn trùngPha nước và phun trong phòng. Nồng độ 0,5%Dễ bị kiềm và ánh sáng phân hủy. Độc vừa đối với người và gia súc.
11*Kelthane (Dicofol)mitesRải (200g cho 100m2) hoặc phun (nồng độ 18,5%) 
12Endosulfan (thiodan)Ruồi, mitesPha nước (250 ml cho 10 lít nước), phun trong phòng và nơi có nguồn bệnh. 
13*Furadan 3HTuyến trùng, côn trùngRải trên đất trước và sau khi đưa bịch vào tướiDễ hủy bởi nhiệt và kiềm. Độc cho người và gia súc.
14*Malathion 50NDRuồi, mitesTương tự Basudin. Phun trong phòng và nơi có nguồn bệnh. Nồng độ 2,5%Dễ hủy bởi nhiệt, acid và kiềm. Độc với ong và cá.
15*Monitor 50DD (60, 70, 72)Côn trùng, mitesPha nước và phun diệt bệnh hoặc phòng ngừa trước và sau khi nuôi trồng. Nồng độ 0,1%Dễ hủy bởi kiềm. Ăn mòn thép, đồng. Rất độc với người và gia súc.
16Gama HCH (g Hexacloro–cyclohexan) (Lindane)Ruồi, nhệnXông hơi trong suốt thời gian ra quả thể (cũng có thể rắc bột nhưng không hiệu quả bằng)Độc cho động vật.
17*Methyl parathion 50NDRuồi nhệnXông hơi hoặc phun. Nếu phun phải tránh thời kỳ nấm đang raĐộc cho nấm.
18*Trebon 10NDSâu conPhun trực tiếp lên nguồn bệnh. 

    (x*) Sản phẩm do Công ty thuốc sát trùng (Vipesco) sản xuất  

II. MỘT SỐ BIỆN PHÁP PHÒNG BỆNH TRONG TRỒNG NẤM

Biện pháp tích cực nhất nhằm tránh những tổn thất do dịch hại gây ra làtổ chức phòng ngừa. Việc ngừa bệnh bao gồm nhiều vấn đề:

1. Chọn địa điểmNơi trồng nấm nên xa nguồn bệnh như cống rãnh, rác rưởi, lá cây mục, phếliệu trồng nấm, chuồng trại chăn nuôi… Ngoài ra, cũng nên tránh cácnơi có nhiều bụi, như nhà máy xay xát, chế biến nông sản, cưa xẻ gỗ…

2. Hợp lý hóa qui trình sản xuất

– Việc bố trí kho nguyên liệu, nơi dự trữ sản phẩm (nấm khô), phòng cấy,phòng ủ và nơi nuôi trồng cần tính toán để không lây nhiễm lẫn nhau.

– Người chăm sóc không nên đi từ phòng này sang phòng khác, nhất là sau khi vào phòng trồng.

– Phòng ủ cần thoáng và ánh sáng vừa phải, bịch phôi không chồng chấtlên nhau để tránh nấm mốc, côn trùng có điều kiện ẩn náu và phát triển.

– Nhà trồng nên tưới tập trung, tránh làm theo kiểu gối đầu thành nhiều đợt, bệnh đợt trước có thể lây sang đợt sau.  

3. Xử lý môi trường và nguyên liệu

– Trước và sau mỗi đợt nuôi trồng cần vệ sinh kỹ nhà trồng, như :nền đất, dàn kệ hoặc kèo cột. Việc xử lý nên tiến hành cùng lúc và trướckhi nuôi trồng ít nhất là hai ngày, như phun thuốc diệt côn trùng trênvách, rải thuốc diệt tuyến trùng trên nền (nền đất hoặc cát), quét vôicộng muối hoặc nhớt cặn lên các dàn cột (gỗ, tầm vông).

– Thu dọn nguyên liệu rơi vãi, không quét tấp vào một góc nào đó, lâu ngày sẽ gây nhiễm.

– Cơ chất đã không khử trùng thì thôi, còn ngược lại phải hấp thật kỹ,vì bên trong có nhiều thành phần thích hợp cho mầm bệnh mọc nhanh hơnbình thường.

4. Ngăn chặn bệnh lây lan

– Trường hợp bệnh đã xảy ra (bệnh lây lan) phải cô lập ngay khu vựcbệnh, như cách ly nguồn bệnh và phun thuốc diệt. Phun ngừa khu vực xungquanh, theo dõi kiểm tra thường xuyên hơn.

– Bình thường chưa thấy bệnh xảy ra cũng phải có kế hoạch chăm sóc địnhkỳ để có thể phát hiện sớm mầm bệnh, kịp ngăn chặn trước khi lây lan.

– Nhà trồng, nhà ủ hay cơ sở nói chung, càng ít người lạ ra vào càngtốt. Đặc biệt là đem giống lạ vào nuôi trồng chung với giống đang sảnxuất.

III. MỘT SỐ LƯU Ý ĐỐI VỚI NGƯỜI TRỒNG NẤM

Bên cạnh vấn đề phòng bệnh cho nấm, người tham gia vào ngành trồng nấmcũng cần quan tâm đến việc bảo vệ sức khỏe cho mình và mọi người xungquanh, bao gồm:

1. Bào tử và nấm bệnh

Ngoài bào tử của nấm trồng, tất nhiên sẽ không tránh khỏi bào tử củanhiều loại nấm mốc khác. Người trồng có thể hít phải các loại bào tử nàyvà lâu ngày sẽ ảnh hưởng đến đường hô hấp (suy hô hấp hoặc viêm nhiễm).Bào tử bào ngư được xem là nguy hiểm nhất vì gây dị ứng đường hô hấp.Người bệnh mệt mỏi như bị lao phổi. Bào tử một số nấm mốc, như: Aspergillus niger có thể ký sinh trong phổi người… Do đó, cần cẩn thận khi chăm sóc nấmcũng như tiếp xúc với các nguồn nhiễm mốc. Tốt nhất nên có mặt nạ chemặt (loại phòng chống hơi độc) hoặc khẩu trang. Các loại nấm mốc lạ cũngnguy hiểm không kém, chúng có thể là những nhóm ký sinh ở da, móng tay,móng chân… rất khó trị. Thường khi phải tiếp xúc với các nguồn có thểgây bệnh, nên mang bao tay cao su hoặc giày ống. Thí dụ : lúc di chuyểngỗ khúc, trộn phế liệu nấm mèo trồng nấm rơm.

2. Thuốc diệt côn trùng

Phần lớn thuốc diệt côn trùng đều có hại, nhiều hay ít. Do đó, cần cẩn thận khi sử dụng :

– Tìm hiểu kỹ tính năng của thuốc và liều lượng dùng.

– Thời gian phân hủy và khả năng gây độc cho người.

– Tránh tiếp xúc trực tiếp với thuốc, tốt nhất nên mang khẩu trang khi phun thuốc.

– Hạn chế việc sử dụng thuốc trực tiếp lên nấm (cả tơ và quả thể).

Lê Duy Thắng, ĐH Khoa Học Tự Nhiên TP.HCM, CLB Nấm VIệt, 08/06/2008

Các tin có liên quan