Kỹ thuật trồng cỏ Ruzi
Ruzi thuộc họ hoà thảo, là giống cỏ lâu năm, thân bò. Cỏ có khả năng chịu dẫm đạp cao nên có thể trồng để làm bãi chăn thả gia súc. Cũng giống như cỏ Ghinê, cỏ Ruzi có khả năng chịu khô hạn tốt nhưng phát triển mạnh nhất vào mùa mưa. Thời gian trồng cỏ Ruzi là mùa mưa, nhưng tốt nhất là vào đầu mùa mưa (tháng 4 – tháng 5) để bảo đảm tỷ lệ sống cao và cây phát triển tốt.
• Chuẩn bị đất
Yêu cầu chuẩn bị đất trồng cẩn thận, cày và bừa hai lần. Lần đầu cày vỡ với độ sâu 20 cm, rồi bừa vỡ. Lần thứ hai cầy đảo lại và bừa tơi đất, đồng thời vơ sạch cỏ dại và san phẳng đất. Nên kéo dài thời gian chuẩn bị đất nhằm hạn chế cỏ dại. Sau khi đã san phẳng đất, tiến hành rạch hàng cách nhau 40 – 50 cm và sâu 15 cm (nếu trồng bằng thân khóm) hoặc sâu 5 – 10 cm (nếu gieo bằng hạt).
• Phân bón
Cần sử dụng cả phân vô cơ và phân hữu cơ. Mỗi hecta cần: 10 – 15 tấn phân chuồng hoai mục; 200 – 250 kg supe lân; 100 – 200 kg sulphat kali; 300 – 350 kg đạm urê. Các loại phân chuồng, supe lân, sulphat kali dùng bón lót theo hàng trồng cỏ. Lượng đạm urê được chia đều cho các lần cắt cỏ và dùng để bón thúc sau khi cỏ đã đâm chồi và ra lá.
• Cách trồng và chăm sóc
Có thể trồng bằng thân khóm hoặc trồng bằng hạt. Trường hợp trồng bằng thân khóm: cách chuẩn bị thân khóm như sau: các khóm cỏ Ruzi dùng làm giống được cắt xén bỏ phần trên cách mặt đất khoảng 25 – 30 cm. Dùng cuốc đánh cả khóm cỏ lên, rũ đất và phạt xén bớt rễ, chỉ để lại còn 4 – 5 cm. Sau đó dùng dao chia tách thành những cụm khóm nhỏ, mỗi cụm khóm gồm 4 – 5 thân nhánh. Sau khi đã chuẩn bị đất và bón lót phân như nêu trên, đặt các khóm cỏ giống vuông góc với thành rạch, khóm nọ cách khóm kia 35 – 40 cm. Dùng cuốc lấp kín 1/2 thân cây giống, tiếp theo, dùng chân dậm thật chặt đất để tạo độ ẩm, bảo đảm cỏ chóng ra mầm và đạt tỷ lệ sống cao. Mỗi hecta cần 4 – 6 tấn khóm.
Trường hợp trồng bằng hạt: cần xử lý hạt trước khi gieo bằng cách ngâm hạt vào nước nóng 80 độ C trong vòng khoảng 10 – 15 phút. Sau đó vớt hạt ra, rửa sạch bằng nước lã và ngâm thêm khoảng 60 phút, rồi vớt ra và đem gieo.
Gieo rải đều hạt theo hàng rạch. Dùng tay khoả đều và lấp một lớp đất mỏng lên trên. Mỗi hecta cần 4 -5 kg hạt cỏ giống.
Sau khi trồng khoảng hai ba tuần tiến hành kiểm tra tỷ lệ mọc mầm, những cây bị chết thì trồng dặm lại. Trong trường hợp gieo hạt, cần lưu ý phân biệt mầm cỏ Ruzi với mầm cỏ dại. Tiến hành trồng tỉa bổ sung vào những nơi cỏ không nảy mầm. Xới xáo nhẹ cho đất tơi xốp và làm sạch cỏ dại. Khi thảm cỏ nảy mầm xanh và sau khi làm cỏ lần hai thì bón thúc bằng đạm urê.
• Thu hoạch và sử dụng
Thu hoạch lứa đầu sau khi trồng được 60 ngày bằng cách cắt trên mặt đất (để lại gốc) 10 cm. Các lứa thu hoạch tiếp theo tiến hành khi thảm cỏ cao khoảng 45 – 60 cm.
Nếu trồng cỏ làm bãi chăn thả thì hai lứa đầu vẫn thu cắt bình thường, đến lứa thứ ba mới đưa gia súc vào chăn thả. Hợp lý nhất cho chăn thả là khi thảm cỏ có độ cao 35 – 40 cm. Thời gian chăn thả mỗi đợt trên cùng một thảm cỏ không quá 4 ngày và thời gian nghỉ giữa hai đợt chăn thả khoảng 25 – 35 ngày.
Cỏ Ruzi mềm và ròn hơn cỏ Ghinê nên gia súc có khả năng lợi dụng rất tốt. Là loại cây thức ăn cho bò sữa, bò thịt, trâu, dê… Ngoài việc sử dụng cho ăn tươi (cắt cho ăn tại chuồng hoặc chăn thả) có thể phơi khô và làm thức ăn dự trữ trong vụ đông xuân, bởi vì khi phơi khô, cỏ khô đều, nhanh cả lá và cuộng.
Hoa Thông, Khuyến nông VN, 4/2014
Kỹ thuật trồng cỏ Stylo
Cỏ Stylo là loại cây bộ đậu, lưu niên, thân đứng hoặc bò. Cỏ Stylo có khả năng thích ứng rộng và dễ nhân giống. Thời gian gieo trồng tuỳ thuộc vào dùng cành giâm hay dùng hạt. Nếu gieo hạt, tốt nhất vào đầu mùa mưa (tháng 3 – tháng 4, đối với miền Bắc và tháng 5 – tháng 6, đối với miền Nam). Nếu dùng cành giâm thì trồng vào giữa mùa mưa (tháng 7 – tháng 8). Thu hoạch từ tháng 6 – tháng 12. Chu kỳ kinh tế 4 – 5 năm.
• Chuẩn bị đất
Yêu cầu làm đất kỹ như trồng cỏ voi (cầy, bừa hai lần), cầy sâu 15 – 20 cm, bảo đảm đất tơi nhỏ, hạt đất có đường kính dưới 1cm chiếm 70 – 80%, hạt đất có đường kính 2 – 5 cm chỉ chiếm 20 – 30%. Làm sạch cỏ dại. Giữa hai lần cày bừa nên cách nhau 10 -15 ngày để diệt được nhiều mầm cỏ dại trước khi gieo trồng.
Lượng phân bón trên mỗi hecta là: 10 – 15 tấn phân chuồng hoai mục – bón lót toàn bộ theo hàng rạch; 300 – 350 kg super lân – bón lót toàn bộ theo hàng rạch; 100 – 150 kg clorua kali – bón lót toàn bộ theo hàng rạch; 50 kg urê – bón thúc khi cây đạt độ cao 5 – 10 cm; Nếu đất chua thì bón lót thêm vôi (0,5 tấn vôi/ha khi pH < 5 và 1,0 tấn vôi/ha khi pH = 5,0 – 5,5). Cách bón: rải đều khi cầy bừa.
• Cách trồng và chăm sóc
Có thể trồng cỏ theo hai cách:
+ Trồng bằng cành giâm: cắt cành dài 30 – 40 cm, có 4 – 5 mắt. Sau khi làm đất kỹ, rạch hàng sâu khoảng 15 cm, hàng cách hàng 45 – 50 cm. Trồng theo khóm, mỗi khóm 5 – 6 cành và các khóm cách nhau 25 cm. Lấp đất dày 5 – 6 cm để cành ngập trong đất 20 cm.
+ Gieo bằng hạt: sử dụng 5 – 6 kg hạt giống cho 1ha. Rạch hàng sâu khoảng 10 cm và hàng cách hàng 45 – 50 cm. Gieo hạt theo hàng rạch. Sau đó lấp lớp đất mỏng. Để cho cây chóng mọc, có thể ủ hạt trong nước nóng 60 – 700C, khi hạt nứt nanh thì đem gieo.
Cũng có thể gieo hạt trong vườn ươm và khi cây mọc cao 20 – 25 cm thì nhổ ra trồng theo rạch với khoảng cách cây cách cây 15 – 20 cm .
Khi cây mọc cao khoảng 5 – 10 cm thì tiến hành xới xáo cho đất tơi xốp và làm sạch cỏ dại, đồng thời bón thúc bằng urê. Khoảng 2 tháng tuổi xới cỏ một lần nữa, tạo điều kiện cho cỏ phát triển tốt.
• Thu hoạch và sử dụng
Thu hoạch cỏ Stylo lứa đầu khoảng 3 tháng sau khi trồng, tức là lúc cỏ cao khoảng 60 cm và thảm cỏ che phủ kín đất. Khi thu hoạch cắt cách mặt đất 15 – 20 cm. Thu hoạch các lứa tiếp theo cứ sau 2 – 2,5 tháng, lúc cây cao 35 – 40 cm.
Cũng như các loại cây bộ đậu khác, cỏ Stylo là nguồn thức ăn tươi xanh giàu protein, là nguồn đạm lá quan trọng để bổ sung và nâng cao chất lượng khẩu phần thức ăn cho gia súc nhai lại. Ngoài ra, có thể dùng phối hợp cỏ Stylo với một số cây hoà thảo như cỏ voi, cỏ Xu đăng, cây ngô… làm nguyên liệu ủ ướp, nhằm nâng cao giá trị dinh dưỡng của thức ăn ủ xanh. Cũng có thể phơi khô thân, lá cỏ Stylo, nghiền thành bột cỏ và sử dụng như nguồn bổ sung protein có giá trị, thay thế một phần thức ăn tinh.
Có thể sử dụng làm bãi chăn thả gia súc nhai lại. Tuy nhiên, do khả năng chịu dẫm đạp của cỏ Stylo kém hơn so với các cỏ hoà thảo khác như Pangola, Ghinê… nên thời gian chờ đợi giữa hai chu kỳ chăn thả sẽ dài hơn.
Hoa Thông, Khuyến nông VN, 4/2014
Kỹ thuật trồng cỏ Stylo
Cỏ Stylo: Là loại cây họ đậu, lưu niên, thân đứng hoặc bò. Là loại cây thích nghi tốt với khí hậu nhiệt đới, ít bị sâu bệnh, có khả năng thích ứng rộng (chịu được khô hạn và úng ngập tạm thời) và dễ nhân giống. Ngoài tác dụng làm nguồn thức ăn cho gia súc chất lượng cao do giầu protein (cho ăn xanh, ủ với các loại cỏ hoặc chăn thả) nó còn được trồng xen với cây ăn quả, chè, cà phê để cải tạo đất, che phủ đất và chống xói mòn.
Có thể trồng cỏ Stylo bang hạt hoặc trồng bằng cành giâm. Năng suất trên một ha từ 40 đến 50 tấn mỗi năm.
Thời gian gieo trồng: từ tháng 3 đến tháng 6. Thu hoạch tháng 6 đến tháng 12. Trồng một lần, có thể thu hoạch 4 – 5 năm.
Đất trồng và chuẩn bị đất trồng cỏ Stylo
Cỏ Slylo phù hợp với nơi cao, ngay cả vùng đất đồi cao, mọc trên nhiều loại đất khác nhau (đất chua, đất nghèo dinh dưỡng,…)
Làm đất kỹ như trồng cỏ Voi (cày, bừa hai lần), cày sâu 15 – 20 cm, bảo đảm đất tơi nhỏ. Làm sạch cỏ dại giữa hai lần cày bừa (cách nhau 10 – 15 ngày), để diệt được mầm cỏ dại (trước khi gieo trồng). Làm đất kỹ rồi rạch hàng sâu khoảng 15cm (nếu trồng bằng cành giâm), và 10cm (nếu gieo bằng hạt) hàng cách hàng 45 – 50 cm.
Phân bón
Mỗi ha, bón: 10 – 15 tấn phân chuồng hoại mục – bón lót toàn bộ theo hàng rạch; 300 – 350kg super lân – bón lót toàn bộ theo hàng rạch; 100 – 150kg clorua ka li – bón lót toàn bộ theo hàng rạch; 50kg urê – bón thúc khi cây đạt độ cao 5 – 10 cm. Đất chua, thì bón lót thêm vôi (rải đều khi cày bừa – 0,5 – 1 tấn cho một ha).
Trồng và chăm sóc cỏ Stylo
+ Trồng bằng cành giâm. cắt cành dài 30 – 40 cm, có 4 -5 mắt. Trồng theo khóm, dọc theo rãnh, mỗi khóm 5 – 6 cành và các khóm cách nhau 25 cm. Lấp đất dày 5 – 6 cm để cành ngập trong đất 20 cm.
+ Gieo bằng hạt: sử dụng 5 – 6 kg hạt giống cho một ha; gieo theo hàng rạch. Sau đó lấp lớp đất mỏng. Để cho cây chóng mọc, có thể ủ hạt trong nước nóng 60 – 700C, khi hạt nứt nanh thì đem gieo.
Có thể gieo hạt trong vườn ươm, và khi cây mọc cao 20 – 25cm, thì bứng trồng theo rạch, khoảng cách cây này đến cây kia 15 – 20 cm.
Cây mọc cao khoảng 5 – 10cm, tiến hành xới xáo cho đất tơi xốp và làm sạch cỏ dại, đồng thời bón thúc (bằng urê). Khoảng 2 tháng tuổi, xới cỏ một lần nữa, tạo điều kiện cho cỏ phát triển.
Thu hoạch cỏ Stylo lứa đầu khoảng 3 tháng sau khi trồng, lúc cỏ cao khoảng 60 cm và thảm cỏ che phủ kính đất. Thu hoạch: cắt cách mặt đất 15 – 20 cm; thu hoạch các lứa tiếp theo cứ sau 2 2,5 tháng, lúc cỏ cao 35 – 40 cm.
Phùng Vũ, Chăn nuôi số 7 [49] – 2002 – Kỹ thuật chăn nuôi bò sữa ở các hộ nông dân và trang trại tại các tỉnh phía Bắc
Trồng cỏ Stylo plus
Giống cỏ Stylo họ đậu (nguồn gốc Australia) giàu đạm (24%), thích nghi và phát triên tốt với khí hậu nhiệt đới, cải tạo đất rất tốt đã được trồng và phát triển ở Việt Nam từ nhiều năm nay. Giờ đây, các nhà khoa học Viện Nghiên cứu đồng cỏ Australia lại cho ra đời thế hệ Stylo mới (Stylo plus).
Giống cỏ Stylo thế hệ mới này có đầy đủ những đặc tính vốn có của giống, ngoài ra còn có những ưu điểm: chu kỳ giống sử dụng dài hơn, khoảng 3 – 4 năm tuỳ thuộc vào chế độ chăm sóc; khả năng kháng bệnh cao hơn; tính thích nghi cao hơn. Stylo plus được coi là nguồn thức ăn bồi dưỡng cho bò gầy, bò mang thai…
Kỹ thuật trồng loại cỏ này:
– Làm đất, xuống giống: làm đất mịn, cào bằng, gieo hạt, khoả lấp nhẹ, 10kg/ha. Giữ ẩm ướt trong suốt quá trình trồng. Phải có hệ thống tưới để cây phát triển tốt nhất. Từ 8 – 9 tuần sau khi gieo thì tiến hành thu hoạch lứa đầu tiên, cắt cách gốc 30cm.
– Bón phân, tưới nước: ngoài phân chuồng bón lót, cứ 10 ngày bón phân NPK 0-10-15. Số lượng phân tuỳ theo tình trạng đất của mỗi trang trại. Tưới nước thường xuyên để giữ ẩm.
Sau lần cắt đầu tiên, cứ 50 ngày sau cắt một lần. Năng suất lứa cắt đầu tiên khoảng 4kg/m2. Năng suất các lứa tiếp theo tăng dần do cây đẻ thêm nhiều nhánh, có thể đạt 7kg/m2.
Lưu ý, với cỏ Stylo plus không dùng phân đạm (không cân thiết), vì bản thân cây đã sản xuất ra đạm để phát triển. Bón vi lượng có chứa Molydenum, bón calcium sẽ góp phần nâng cao năng suất, chất lượng khi trồng cỏ Stylo plus.
Theo NTNN – WAG, 13/7/2005
Trồng cỏ ‘vua’ VA06
Cỏ VA06 còn được gọi là “cỏ vua” vì có năng suất cao, dễ trồng, hàm lượng dinh dưỡng rất cao, được đánh giá là loại thức ăn tươi tốt nhất cho gia súc ăn cỏ, gia cầm và cá trắm cỏ…
Tại hội chợ triển lãm “Nhịp cầu hợp tác phát triển kinh tế, thương mại, du lịch – Long An 2008” vừa qua, ngành nông nghiệp tỉnh Long An giới thiệu loài cỏ vua VA06 nhiều ưu điểm đã được đông đảo bà con nông dân trong, ngoài tỉnh thích thú tìm hiểu.
Cỏ VA06 vừa có thể chế biến làm thức ăn tươi, làm thức ăn ủ chua, thức ăn hong khô hoặc làm bột cỏ khô dùng để nuôi bò thịt, bò sữa, dê, cừu, thỏ, gà tây, cá trắm cỏ… mà về cơ bản không cần cho thêm thức ăn tinh vẫn đảm bảo nuôi phát triển bình thường. 14 kg cỏ tươi VA06 có thể sản xuất 1 kg cá trắm cỏ hoặc 18 kg cỏ tươi có thể sản xuất 1 kg thịt ngỗng. Ngoài ra, giống cỏ này có thể chế biến làm nguyên liệu cho công nghiệp giấy và ván gỗ nhân tạo.
Về đặc tính sinh trưởng của cỏ VA06, đây là loại thực vật có tính thích ứng rộng, được lai giữa giống cỏ voi và cỏ đuôi sói của châu Mỹ, có thể trồng ở bất cứ loại đất nào kể cả đất khô hạn và đất phèn (nếu lên liếp).
Kỹ thuật trồng: dùng cách tách chồi hoặc cắt mắt để trồng thì chỉ sau 40 ngày là có thể thu hoạch lứa đầu tiên. Ở nước ta cỏ có thể thu hoạch quanh năm, năng suất đạt trên 480 tấn/ha. Khả năng lưu gốc và tái sinh của VA06 là rất tốt, trồng một năm có thể thu hoạch liên tục 6 – 7 năm, từ năm thứ hai cho đến năm thứ sáu là thời kỳ cỏ cho năng suất cao nhất.
Trước khi trồng cỏ cần cày, bừa kỹ. Trên đất bằng nên lên luống để tiện cho việc chăm sóc và tưới tiêu nước. Trồng trên đất dốc, phải trồng theo đường đồng mức, hoặc trồng theo hốc. Do tỷ lệ hạt nảy mầm thấp, nên khâu chọn giống chủ yếu dùng cách nhân giống vô tính. Lấy cây đã thành thục cắt ra từng mắt hoặc tách chồi đem giâm, có thể giâm trong bầu hoặc trong vườn ươm.
Giâm hom: đặt hom nghiêng 450, mầm hướng lên phía trên, lấp đất phủ lên mầm 3 cm, khoảng cách hom 57 cm, sau đó dùng đất lấp hom rồi tưới ẩm hoặc tưới nước phân loãng. Cũng có thể giâm hom trong bầu có chứa phân mục, mầm sẽ phát triển tốt. Mật độ trồng, khoảng cách giữa cây và hàng là 50 x 66 cm hoặc 33 x 66 cm, trung bình khoảng từ 30.000 đến 45.000 cây/ha.
Cỏ VA06 rất dễ trồng, có thể trồng nhiều cách khác nhau nhưng vẫn cho hiệu quả tốt (trồng dưới rãnh, trồng theo hốc, tách chồi…). Cách trồng bằng cây thì tốc độ sinh trưởng nhanh hơn, sau 2 tháng có thể thu hoạch.
Sau khi trồng nên tưới phân loãng giúp cây mọc rễ nhanh, nếu gặp hạn tưới đều cho đến khi cây có màu xanh. Khi khuyết cây phải chú ý dặm bổ sung bảo đảm mật độ trồng trên 98%. Trong thời gian ban đầu, phải chú ý làm cỏ 1 – 2 lần. Lần làm cỏ đầu tiên sau khi trồng là 1 tháng, kết hợp bón mỗi gốc 10 g urê. Lần làm cỏ thứ hai sau khi trồng 2,5 tháng, là thời kỳ cỏ phát triển nhanh nhất, mỗi cây bón 25 g urê, vun gốc để cây khỏi đổ ngã.
ĐẠI LÂM – KHPT, 02/05/2008
Trồng cỏ Vetiver chống xói mòn, giảm nhẹ thiên tai, làm thức ăn GS
Theo Cục QLĐĐ-PCLB thì việc trồng Vetiver dễ làm, tốn ít công sức tiền của nhưng mang lại hiệu quả, do có nhiều công dụng cản lũ, chắn sóng bảo vệ mái đê, dùng làm vật tư cứu hộ đê khi cần thiết, chống xói mòn mái đê, xói lở bờ sông, mặt bãi sông, tạo cảnh quan, môi trường khu vực có tuyến đê đi qua. Cỏ Vetiver được đánh giá đa mục tiêu như vậy, nên trong năm 2004-2005 đã xây dựng kế hoạch đầu tư kinh phí 40 tỷ đồng để trồng cỏ trên hệ thống đê điều ở nước ta.
Năm 2000 loại cỏ này đã được trồng ở một số trọng điểm đê kè phía Bắc có nguy cơ sạt lở, đạt hiệu quả cao như Cao Đức, Cáp Thủy (Bắc Ninh) với chiều dài tuyến kè 1km, đê biển vùng cát Xuân Thủy, Hải Hậu (Nam Định) với chiều dài vài km. Hiện nay cỏ phát triển rất tốt, không còn hiện tượng sạt lở mái đê như trước đây. Ở điểm kè Quỳnh Lâm (trên sông Luộc, Thái Bình) sau 8 tháng trồng cỏ phát triển tốt, bảo vệ không kém những khu vực được kè mái đá trước đây, với chiều dài trồng cỏ 300 m, kinh phí 17 triệu đồng, chỉ bằng 1/30 so với đầu tư làm kè đá. Từ kinh nghiệm thực tế trên, 15/19 tỉnh thành có đê ở khu vực phía Bắc đã tham gia trồng cỏ Vetiver và hiện đã có thể tự túc được giống để nhân rộng trồng cỏ theo chương trình lớn của Cục QLĐĐ-PCLB. Tuy nhiên, theo các chuyên gia, việc trồng cỏ Vetiver tuy kinh phí thấp, dễ trồng , hiệu quả cao nhưng vẫn phải chăm sóc bảo vệ, nếu không sẽ không tránh khỏi hiện tượng cỏ chết như việc trồng tre chắn sóng ở một số địa phương. Trong giai đoạn đầu trồng cỏ, trước 3 tháng cỏ phát triển nhanh, lá non có thể làm nguồn thức ăn rất tốt cho chăn nuôi dê, trâu bò, vì thế phải bảo vệ vùng trồng cỏ không để gia súc phá hoại. Sau tháng thứ 3, nếu cắt lứa cỏ này thì sẽ kích thích cỏ mọc nhanh và tốt hơn, vì thế có thể giao việc trồng cỏ cho nông dân địa phương chăm sóc, kết hợp với khai thác cỏ sau các lứa cắt để chăn nuôi trâu bò. Theo Cục QLĐĐ-PCLB, tới đây sẽ triển khai rộng trồng cỏ trên các tuyến đê có nguy cơ sụt lở mái và các bờ sông sụt lở như tuyến kè Cáp Điền , Cáp Thủy, Cao Đức (bờ hữu sông Thái Bình), kè Phi Liệt (Hưng Yên), kè Hồng Long (tả sông Lam Nghệ An), các tuyến đê, bờ sông thuộc vùng sạt lở Phú Thọ, Hà Tây, Hưng Yên, Hà Nội , Vĩnh Phúc…sẽ được đầu tư lớn để trồng cỏ bảo vệ tránh sạt lở.
Ngoài 15 tỉnh thành phía Bắc đã tham gia trồng cỏ Vetiver theo vốn đầu tư của Cục QLĐĐ-PCLB, Viện Nghiên cứu Địa chất và khoáng sản (RIGMR) cũng đã tổ chức trồng thử nghiệm cỏ Vetiver tại 2 tỉnh Quảng Bình và Đà Nẵng, với mục đích trồng ổn định các cồn cát. Đây là dự án có kết quả khả quan, có thể áp dụng trồng trên phạm vi lớn 22.000 ha ở các đụn cát phía nam thị xã Đồng Hới, sẽ kiểm soát được sự xói lở trong khu vực. Một dự án trồng cỏ Vetiver cũng được áp dụng khá phổ biến ở vùng ĐBSCL, bà con nông dân tỉnh An Giang đã trồng loại cỏ này bảo vệ có hiệu quả vùng bờ bao chống lũ. Còn ở vùng ven biển miền Trung nông dân đã trồng cỏ bảo vệ bờ ao nuôi trồng thủy sản; một số tỉnh miền núi phía Bắc đã thử nghiệm trồng để chống xói lở sườn đồi núi dốc ruộng bậc thang. Theo RIGMR, sau khi đánh giá cao kết quả trồng cỏ Vetiver tại Quảng Bình và Đà Nẵng một số tổ chức và dự án trong nước có sự hỗ trợ của các tổ chức quốc tế phi Chính phủ, dự định áp dụng trồng cỏ Vetiver để giảm nhẹ thiên tai tại huyện Triệu Phong, Vĩnh Linh (tỉnh Quảng Trị). Đồng thời tại Quảng Ngãi, dự án Giảm nhẹ thiên tai do AUSAID tài trợ có kế hoạch trồng cỏ thửã nghiệm ở 4 điểm ngăn mặn trên các tuyến đê sông và kênh tưới tiêu. Được biết một vài tổ chức phi Chính phủ như OXFAM Hong Kong, Hội Chữ thập đỏ Đan Mạch, Nhật Bản, cũng có mong muốn được giúp Việt Nam áp dụng trồng cỏ Vetiver trong việc giảm nhẹ thiên tai. Dĩ nhiên là cần có thêm thời gian để đi đến kết luận cuối cùng về tác dụng chống sạt lở đê, kè… của loại cỏ này.
NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM – 14/11/2003
Trồng cỏ vetiver chống xói mòn
Xói mòn đất đã gây nhiều nguy hại cho môi trường và tài nguyên ở nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam. Cỏ vetiver (Vetieveria zizanioides – tên Việt Nam là cỏ Hương bài) tỏ ra lý tưởng bảo vệ đất, giữ nước trong đất.
Mặc dù có nhiều loại cỏ, cây được thử nghiệm làm biện pháp chống xói mòn, nhưng chỉ có cỏ vetiver chịu được thử thách. Chưa có loại cây cỏ nào khác đã biết chịu được điều kiện khó khăn, có tính đa dạng như cỏ vetiver.
Khi trồng đúng cách, vetiver nhanh chóng hình thành hàng rào dày đặc, lâu bền, có bộ rễ nhiều sợi ăn sâu trong đất, ôm đất đến độ sâu 3 m, chịu được tác động của đường hầm, nứt nẻ.
Loại cỏ này sống được ở tất cả các loại đất, bất kể đất bạc màu, độ pH cao hay thấp hoặc mặn, trong đó có cát, đá phiến, sỏi, thậm chí đất có độc tính của nhôm. Cỏ vetiver chịu được nhiều vùng khí hậu, có thể mọc ở khu vực lượng mưa hằng năm trung bình từ 200 đến 6.000 mm, nhiệt độ từ -9 độ C đến 45 độ C.
Gốc vetiver ở dưới mặt đất, được bảo vệ an toàn khi cháy hoặc gia súc ăn quá mức. Lá sắc, rễ thơm đẩy lùi các loài gặm nhấm và các loài phá hại khác. Nó không cạnh tranh với cây trồng, không tác động hại đến (trái lại còn tăng) năng suất cây trồng.
Lấy cây con để trồng thường lấy từ vườn ươm vetiver, vườn ươm này rất dễ tạo ra. Lối vào của đập nhỏ hoặc hồ chứa nước là địa điểm tốt nhất cho vườn ươm, vì trên đường nước chảy về đập hoặc hồ thì nước sẽ tưới cho vetiver, còn vetiver lọc ra phù sa trong nước để phù sa khỏi vào hồ. Muốn đạt kết quả cao thì cành giâm vetiver nên trồng 2-3 hàng thành hàng rào song song qua đường nước chảy, mỗi hàng cách nhau 30 – 40 cm.
Muốn nhổ cụm vetiver ở vườn ươm nên đào bằng xẻng, mai vì bộ rễ quá lớn và dai, không thể nhổ bằng tay, sau đó xé ra thành nắm nhỏ, kể cả rễ. Mỗi nắm sẽ trở thành một cây trồng bảo vệ đất.
Trước khi đem trồng, cắt ngọn cây khoảng 15 – 20 cm, cắt rễ 10 cm để tăng khả năng tồn tại của cành giâm sau khi trồng, nhờ giảm mức thoát hơi nước và từ đó cây không bị khô. Không nên trồng chồi đơn vì phải mất quá nhiều thời gian mới trở thành hàng rào.
Bón phân DAP vào từng hốc ở luống trồng trước khi giâm cành để kích thích đâm chồi nhanh. Nên trồng cành giâm vào đầu mùa mưa để tận dụng nước mưa.
Trồng cành giâm vetiver tương tự như cấy mạ lúa, nhất thiết phải trồng thành hàng rào mới phát huy tác dụng bảo vệ đất. Chọc lỗ ở luống cày đánh dấu đường đồng mức, giâm cành vào lỗ, chú ý không để rễ bị bẻ lên, lấp đất chặt, cứ cách 10 cm trồng một khóm. Chỉ cần trồng thành một hàng, cành giâm có thể chịu khí hậu khô một tháng. Nếu có khóm chết, dặm lại bằng khóm khác hoặc uốn thân của khóm bên cạnh, vùi xuống đất. Thân cây sẽ sinh rễ, ra lá như khóm mới.
Sau khi hàng rào vetiver hình thành tốt, tỉa cây đến độ cao 30 – 50 cm để kích thích đâm chồi và ngăn che các cây lương thực. Cày dọc theo mép hàng rào để cắt bỏ chồi mọc lấn vào ruộng, nương, ngăn chặn hàng rào phát triển quá rộng.
Ngoài tác dụng là hệ thống bảo vệ đất, giữ nước, cỏ vetiver còn được sử dụng trongviệc ổn định địa hình và các công trình thủy lợi như đập, kênh, đê điều và đường giao thông. Hàng rào vetiver giá thành tương đối rẻ, dễ trồng thành hàng rào, dễ chăm sóc và có thể nhổ bỏ khi không muốn trồng nữa.
Muốn tìm hiểu thêm về cỏ vetiver, xin liên hệ với Viện Thổ nhưỡng nông hóa, Đông Ngạc, Từ Liêm, Hà Nội.
MINH TRANG – ND, 2/4/2004
Trồng thử nghiệm thành công cỏ Alfalfa
Kỹ sư Lê Quang Minh (Hội Khoa học Việt Nam) đã trồng thử nghiệm thành công giống cỏ Alfalfa tại huyện Thuận An (Bình Dương). Cỏ Alfalfa (tên khoa học là Lucerna) là giống họ đậu giàu dinh dưỡng, chứa nhiều protein, 10 loại đậu axít amin không thay thế được và 11 loại vitamin với hàm lượng rất cao. Cỏ này đã được ngành chăn nuôi thế giới mệnh danh là “nữ hoàng” trong thức ăn chăn nuôi. Trong khẩu phần ăn của bò sản xuất tinh, cỏ Alfalfa chiếm tỷ lệ 50%; bò sữa, lợn gà…chiếm 10%. Cỏ này có thể sử dụng dưới dạng tươi, khô và bột.
Năm 1986, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã cho nhập giống cỏ Alfalfa. Tuy nhiên đến năm 1999, cỏ Alfalfa mới được trồng thành công ở khu vực phía Bắc.
TN – 29/3/2003
Ý kiến: Tuy nhiên tôi chưa hề thấy cỏ này trồng thành công ở Phía Bắc – và từ năm 1999 cũng chưa thấy cuộc thí nghiệm nào tiến hành tại Viện Chăn nuôi – nơi mà có Bộ môn NC Đồng cỏ) Nếu trồng đuợc giống cỏ này thì đây là một thành công rất lớn trước tiên về mặt khoa học. ( Võ Văn Sự – Viện Chăn nuôi)
Hai loại cỏ mới cho chăn nuôi
Công ty cổ phần Giống cây trồng miền Nam vừa nhập từ Australia 2 giống cỏ mới có tên là Sweet Jumbo và Superdan để phục vụ cho chăn nuôi gia súc. Cả 2 giống cỏ này đều có độ ngọt cao hơn cỏ sả, cỏ voi, lại dễ để dành, nên rất thuận tiện cho đàn bò vỗ béo và các vùng có thời gian nắng kéo dài trong năm.
Cả 2 đều là giống cỏ lai F1 nên tăng trưởng mạnh, thu hoạch sớm, lần đầu thu hoạch 5 tuần sau gieo, sau đó cứ 4 tuần cắt một lần. Cỏ trổ hoa muộn nên dinh dưỡng dồn hết cho lá. Cứ 12kg hạt cỏ gieo được cho 1 ha đất. Năng suất 1 ha khoảng 50 – 55 tấn cỏ tươi, rất thích hợp cho gia súc. Nếu trường hợp cần dự trữ, với cỏ Sweet Jumbo ủ chua rất tốt, còn giống cỏ Superdan lại có lợi thế trong chế biến sấy hoặc phơi khô.
Cả 2 giống cỏ đều có cách trồng như nhau và cùng dùng để vỗ béo bò, dê, cừu thịt hoặc lấy sữa… Gieo cỏ theo hàng với khoảng cách 60-80cm. Vườn ươm chuẩn bị thật tốt bằng cách bón lót 60 – 80kg urê/ha hay 50kg DAP + 50kg urê ngay trước khi trồng hoặc sau mỗi lần cắt, để cỏ cho thời gian thu cắt mỗi đợt ngắn, năng suất cỏ tươi cao hay tái sinh nhanh, chất lượng dinh dưỡng cao. Do các loại cỏ này có bộ rễ phát triển mạnh ở tầng đất mặt nên sau mỗi đợt cắt và bón phân, cần xới xáo, lấp phân và vun gốc để tạo bộ rễ mới thật tốt. Điều này sẽ giúp tăng năng suất cỏ và số lần cắt.
Chỉ bắt đầu cắt hay thả gia súc vào đồng cỏ khi thấy cỏ cao khoảng 80cm, vì sớm quá cỏ còn non, năng suất giảm, dinh dưỡng kém; còn cỏ già quá, chất dinh dưỡng cũng mất đi.
Người trồng cỏ cần lưu ý: đây là những giống cỏ lai nên không được để giống trồng đợt 2, bởi năng suất, và chất lượng cỏ không đảm bảo. Sau 5 – 6 đợt cắt, nếu thấy sức tái sinh của cỏ yếu đi (dưới 50 tấn/ha) thì phải cày xới, gieo trồng lại đợt mới.
P.V, Báo nông thôn, 31/3/2003
Công ty cổ phần giống cây trồng miền Nam: Hai giống cỏ lai mới Sweet Jumbo & Superdan phục vụ chăn nuôi bò, dê, cừu…
Giống cỏ lai F1 nhập từ úc, sinh trưởng mạnh, thu hoạch sớm (5- 6 tuần sau gieo), cây cao 1 – 1,2m, thâm canh tốt, năng suất đạt 50 – 70 tấn cỏ tươi/ha/lần cắt, tái sinh nhanh (4-5 tuần cắt một lần), khả năng tái sinh 5 – 6 lần mới gieo hạt lại, tỷ lệ đạm 12 – 18%.
Mỗi ha chỉ cần 10 – 12kg hạt giống, giá giống hợp lý 60.000đ/kg.
Báo nông nghiệp, 2/4/2003
Cách trồng cỏ voi, cỏ sả để nuôi bò
Quy trình và cách thức trồng và chăm sóc cỏ, cỏ sả để chăn nuôi bò? có thể liên hệ ở đâu để mua cỏ giống?
Trả lời: Các giống cỏ thích hợp với điều kiện sinh thái Việt Nam có thể trồng để chăn nuôi bò gồm có 4 loại chính:
– Loại cỏ hòa thảo thân đứng, sống nhiều năm, trồng để cắt ăn tươi hoặc ủ xanh như cỏ voi, cỏ Su đăng…
– Loại hòa thảo thân đứng sống hằng năm (mỗi năm trồng 2-3 vụ) trồng để ăn tươi hoặc ủ xanh như cây ngô, cây cao lương…
– Loại hòa thảo thân bò hay thân bụi trồng để cắt ăn tươi hoặc chăn thả, hoặc có thể cắt phơi khô làm cỏ khô dự trữ như cỏ Ghi nê (cỏ sả), cỏ Păng- gô la, cỏ Béc mu đa, cỏ lông Pa ra.
Cỏ voi và cỏ sả là hai giống cỏ hòa thảo có năng suất cao, trồng rất phổ biến hiện nay để chăn nuôi gia súc nhai lại như bò, dê, trâu. Sau đây là phương pháp trồng và chăm sóc hai giống cỏ nói trên:
Cỏ voi (tên La tinh: Panisetum Purpurcum). Các giống cỏ voi hiện được trồng Phổ biến cho năng suất cao là Kingrass, Selection 1. Cỏ voi có thể cao tới 3-4m. Đây là cây cỏ thuộc vùng nhiệt đới xích đạo, do vậy nó cần đủ độ ẩm và nhiệt độ. Nhiệt độ thích hợp tà từ 25-30oC. Cỏ voi ưa đất tốt, có tầng canh tác sâu, giàu mùn, không ưa đất cát và nơi bị ngập úng.
Thời vụ trồng từ tháng 4 đến tháng 7, thu hoạch từ tháng 6 đến tháng 11. Chu kỳ sử dụng 3-4 năm.
– Trước khi trồng phải cầy, bừa kỹ, làm sạch cỏ dại , bón lót 1 5-20 tấn phân chuồng/ha; 200-300 kg supe lân/ha; 100-200 phân kali/ha. Nếu đất bị chua, có thể bổ sung 500-1000 kg vôi/ha.
– Trồng bằng hom. Chọn hom bánh tẻ từ 2,5 tháng trở lên, chặt hom thành từng đoạn ngắn có từ 2-4 mắt, trồng theo khoảng cách hàng cách hàng 60 cm, rạch hàng sâu 1 5-20 cm.Đặt hom gối đầu nối tiếp nhau rồi lấp đất dầy 7-10 cm. Một năm cỏ voi có thể cho từ 4-6 lứa cắt. Khoảng 45- 50 ngày cắt một lứa. Cắt làm thức ăn xanh khi cỏ đạt độ cao 80-120 cm.
Chăm sóc cỏ voi: Sau mỗi lần cắt, bón phân đạm (nếu bón phân urê thì từ 60-100 kg/ha/1 lần bón; nếu bón phân đạm sun phát thì liều lượng gấp đôi) hoặc bón thêm phân NPK hoặc nước phân chuồng.
-Cỏ voi cho năng suất chất xanh rất cao 1 50-200 tấn/ha. ở những ruộng được chăm bón tốt, năng suất cỏ có thể đạt từ 250-300 tấn/ha. Vì năng suất cỏ rất cao do tốc độ tăng trưởng nhanh nên khi trồng với diện tích lớn nên bố trí trồng rải vụ thành nhiều đợt, mỗi đợt cách nhau 1 0-1 5 ngày, đề phòng khi thu hoạch không kịp cỏ sẽ bị già.
Nếu thâm canh để cỏ đạt năng suất 250 tấn/ha thì trồng 1 ha cỏ voi có thể cơ bản đủ cỏ xanh cho 1 8-20 con bò cái sinh sản nội hoặc có thể nuôi được 1 2-1 4 bò cái vắt sữa.
Cỏ Ghi-nê hay còn gọi là cỏ sả (tên khoa học là Panicum mai-mum): Là loại cỏ chịu hạn và nóng, chịu dẫm đạp khi chăn thả bò. Cỏ mọc thành bụi, thân lá mềm, bò thích ăn.
Có hai loại cỏ sả: Cỏ sả lá nhỏ và cỏ sả lá to cỏ sả lá nhỏ trồng để xây dựng các bãi chăn thả, bảo vệ đất. Cỏ sả lá lớn trồng đề cắt cho ăn tại chuồng hoặc ủ xanh.
– Thời vụ trồng: Từ tháng 4 đến tháng 6, thu hoạch từ tháng 6 đến tháng 11 . Chu kỳ sử dụng 4-5 năm.
– Yêu cầu đất trồng thuộc loại đất cát pha, tránh nơi ngập nước, đất cày sâu 1 5-20 cm. Bón lót phân chuồng 1 5 tấn/ha, 200 kg lân, 1 00 kg kali/ha.
– Trồng bằng gốc tách ra từ các cụm lớn. Mỗi khóm có 3 4 dành, xén bớt lá và đem trồng ngay. Lượng giống cần cho 1 ha khoảng 2-2,’5 tấn. Khoảng cách trồng’ khóm cách khóm 30 cm, rạch hàng cách hàng 40-60 cm, sâu 1 5 cm. Đặt gốc rồi lấp đất dầy 10 cm, để hở phần ngọn và dẫm chặt.
Chăm sóc cỏ: Sau 1 -2 lứa thu hoạch, bón thêm 100-200 kg sun phát đạm hoặc 60-1 00 kg urê. Cỏ sả có thể trồng để chăn thả bò hoặc cắt cho bò ăn. Số lần chăn thả luân phiên trong năm đạt 8-10 lần.
Nếu chăn thả, năng suất có thể đạt 50-60 tấn/ha. Nếu cắt cho ăn tại chuồng, năng suất có thể đạt 70-80 tấn/ha.
Xin cung cấp một số địa chỉ ở phía Nam để ông có thể liên hệ mua cỏ giống hoặc tư vấn chi tiết thêm về kỹ thuật canh tác và chăm sóc cỏ:
1. Khoa Nông lâm, Trường ĐH Tây Nguyên – TP Buôn Mê Thuột.
2. Trung tâm Nghiên cứu và phát triển đại gia súc thuộc Viện KHNN miền Nam tại Bến Cát – Bình Dương.
3. Trung tâm Nghiên cứu và huấn luyện chăn nuôi bò sữa thuộc Viện KHNN miền Nam, Thủ Dầu Một, Bình Dương
4. Cty Bò sữa TP.HCM, Củ Chi, TP.HCM
Nông nghiệp Việt Nam, 12/4/2001
Kỹ thuật trồng cỏ voi
Cỏ voi thuộc họ hoà thảo, thân đứng, là giống rất thích hợp cho chăn nuôi bò thịt theo quy mô trang trại. Thời gian trồng thích hợp là từ tháng 2 đến tháng 5, thu hoạch từ tháng 6 đến tháng 11. Nếu mùa khô chủ động được nước tưới thì có thể thu hoạch quanh năm. Chu kỳ kinh tế của cỏ voi là 3 – 4 năm (tức là trồng một lần thu hoạch được 3-4 năm). Nếu chăm sóc tốt có thể cho năng suất cao trong 10 năm liền.
• Chuẩn bị đất
Có thể trồng cỏ voi theo hướng chuyên canh và thâm canh hoặc trồng cỏ voi vừa làm hàng rào vừa lấy thức ăn cho gia súc. Trong trường hợp trồng chuyên canh và thâm canh, cần chọn loại đất phù hợp với yêu cầu của cây: loại đất có tầng canh tác trên 30cm, nhiều màu, tơi xốp, thoát nước, có độ ẩm trung bình đến hơi khô, pH của đất = 6 -7. Cần cầy sâu, bừa kỹ hai lượt và làm sạch cỏ dại, đồng thời san phẳng đất. Rạch hàng sâu 15-20 cm theo hướng đông tây, hàng cách hàng 60 cm. Cũng có thể trồng theo khóm với mật độ bụi nọ cách bụi kia 40 cm và hàng cách hàng 60cm.
* Phân bón
Tuỳ theo chân ruộng tốt hay xấu mà có thể sử dụng lượng phân bón khác nhau. Trung bình cho 1 ha cần bón: 15 – 20 tấn phân chuồng hoai mục; 300 – 400 kg đạm urê; 250 – 300 kg super lân; 150 – 200 kg sulphat kali. Các loại phân hữu cơ, phân lân, phân kali dùng bón lót toàn bộ theo lòng rãnh trồng cỏ. Riêng phân đạm thì chia đều cho các lần thu hoạch và bón thúc sau mỗi lần cắt. Nếu đất chua (pH <5) thì phải bón thêm vôi.
• Cách trồng và chăm sóc
Trồng bằng thân cây (hom), chọn cây mập và hom bánh tẻ (ở độ tuổi 80-100 ngày). Chặt vát hom với độ dài 25 – 30 cm/hom và có 3-5 mắt mầm. Mỗi hecta cần 8 -10 tấn hom. Đặt hom trong lòng rãnh, chếch 450, cách nhau 30-40 cm và lấp đất dầy khoảng 5 cm sao cho hom nhô trên mặt đất khoảng 10 cm và bảo đảm mặt đất bằng phẳng sau khi lấp. Sau khi trồng 10-15 ngày mầm bắt đầu mọc. Tiến hành kiểm tra tỷ lệ mọc mầm và nếu có hom chết, cần trồng dặm lại, đồng thời làm sạch cỏ dại và dùng cuốc xới xáo nhẹ làm cho đất tơi, thoáng (chú ý không chạm vào thân cây giống). Lúc được 30 ngày tiến hành bón thúc bằng100 kg urê cho mỗi hecta. Dùng cuốc làm sạch cỏ dại thêm vài lần, trước khi cỏ lên cao, phủ kín mặt đất.
• Thu hoạch và sử dụng
Sau khi trồng 80-90 ngày thu hoạch đợt đầu (không thu hoạch non đợt đầu). Khoảng cách những lần thu hoạch tiếp theo là 30-45 ngày, khi thảm cỏ có độ cao khoảng 80 – 120 cm. Mỗi lần thu hoạch lưu ý cắt gốc ở độ cao 5 cm trên mặt đất và cắt sạch, không để lại mầm cây, để cho cỏ mọc lại đều. Cứ sau mỗi lần thu hoạch và cỏ ra lá mới lại tiến hành bón thúc bằng đạm urê. Có thể dùng cỏ voi cho gia súc nhai lại ăn tươi hoặc ủ chua để dự trữ cho những thời điểm khan hiếm thức ăn thô xanh.
Hoa Thông, Khuyến nông VN, 4/2014
Trồng cỏ voi nuôi bò – Hấp dẫn nhưng…
Mô hình trồng cỏ voi nuôi bò đang phát triển mạnh ở Khánh Hòa. Tuy nhiên, do thiếu vốn đầu tư nên hiệu quả kinh tế từ mô hình chưa cao. Nếu giải quyết được những khó khăn này, mục tiêu phấn đấu 50 triệu đồng/ha đất canh tác ở Khánh Hòa sẽ trở thành hiện thực.
1 ha cỏ nuôi trên 30 con bò
Các tỉnh miền Tây Nam bộ, miền Trung như An Giang, Cần Thơ, Long An, Quảng Ngãi, Bình Định… phát triển mô hình trồng cỏ voi nuôi bò trên diện tích hàng nghìn ha, đã làm cho nhiều hộ gia đình vươn lên làm giàu. Khánh Hòa phát triển mô hình này quá chậm. Theo anh Võ Ngọc Thái, Giám đốc Trung tâm Khuyến nông – Khuyến lâm tỉnh, mô hình trồng cỏ voi nuôi bò mới xuất hiện ở Khánh Hòa được hơn 1 năm. Theo anh Thái, cái khó để phát triển đàn bò là phải chịu ảnh hưởng nhiều yếu tố, thứ nhất là đầu ra sản phẩm, sau đó là vốn đầu tư mua bò giống không phải là nhỏ, muốn phát triển đàn bò theo mô hình kinh tế trang trại (KTTT) cũng phải đầu tư từ 100 triệu đồng trở lên. Tiếp đó mới là thức ăn tươi cho bò. Thấy được những khó khăn này, năm qua, Trung tâm đã mạnh dạn lấy cỏ voi giống ở miền Nam, hướng dẫn kỹ thuật trồng, chăm sóc, trồng thử nghiệm 2,2 ha cỏ cho các địa phương: Vạn Ninh, Ninh Hòa, Cam Ranh, Diên Khánh. Kết quả, cỏ phát triển rất tốt, mướt lá, bò ăn cỏ lớn rất nhanh. Anh Đào Văn Lương, Trưởng phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Vạn Ninh cho biết: “Huyện trồng thử nghiệm 1 ha cỏ voi, đến khi thu hoạch, năng suất đạt rất cao, cắt mỗi lứa được khoảng 40 tấn. Một năm cỏ voi được cắt từ 8 – 10 lứa, nên trung bình mỗi ha đất trồng cỏ thu hoạch khoảng 350 tấn. Sản lượng cỏ tươi như vậy sẽ là điều kiện thuận lợi cho việc phát triển mô hình chăn nuôi bò sữa, bò thịt ở địa phương trong thời gian tới”.
Hiện nay, tỉnh ta đã có khoảng 100 hộ trồng cỏ voi nuôi bò. Xã Diên Xuân (Diên Khánh) có gần 30 hộ trồng cỏ, gia đình anh Nguyễn Văn Quý trồng nhiều nhất. Do đặc trưng là đất gò đồi, nguồn nước tưới ít, trồng các loại cây ngắn ngày hiệu quả kinh tế thấp, gia đình anh quyết định chuyển trên 3 ha đất xung quanh vườn sang mô hình trồng cỏ voi. Anh cho biết: “Trồng cỏ voi vốn đầu tư rất ít nhưng hiệu quả kinh tế rất cao, cao hơn nhiều so với trồng lúa nước. Như gia đình tôi, với trên 3 ha đất trồng cỏ, mỗi năm thu về khoảng 1.000 tấn, mà vốn đầu tư chưa đến 1 triệu đồng tiền phân bón. 1 ha đất trồng cỏ có thể nuôi trên 30 con bò. Tính ra, cánh đồng cỏ của tôi có thể nuôi một lúc trên 100 con bò. Năm qua, do vốn đầu tư ít, chưa đến 200 triệu đồng, gia đình tôi chỉ mua được 20 con bò, trong đó 18 con là bò cái. Hiện nay, số bò cái của tôi đã có chửa, chuẩn bị đẻ 5 con. Nếu không có gì thay đổi, từ nay đến cuối năm, tôi sẽ có 18 con bê con, thu lãi trên 40 triệu đồng”.
Trồng cỏ để phát triển đàn bò
Theo số liệu thống kê, năm 1990, tổng đàn bò toàn tỉnh là 59.151 con, nhưng đến năm 2001 đã giảm đáng kể, chỉ còn 46.795 con. Vì sao tổng đàn bò trong tỉnh ngày càng giảm trong khi nhu cầu tiêu thụ thịt bò trên thị truờng ngày càng tăng? Anh Võ Ngọc Thái cho biết, do cơ giới hóa nông nghiệp nên số lượng đàn trâu bò dùng cho cày kéo ngày càng giảm đi. Hơn nữa, kể từ khi chuyển sang kinh tế thị trường, sản xuất nông nghiệp dần chuyển sang sản xuất hàng hóa, từ đó ngành chăn nuôi đại gia súc cũng phát triển theo hướng nuôi lấy thịt thay vì nuôi để sử dụng cho cày kéo. Ngoài ra, việc mở rộng diện tích đất canh tác và chuyển một phần đất nông nghiệp sang mục đích khác nên diện tích đồng cỏ để chăn nuôi trâu bò ngày càng bị thu hẹp. Qua khảo sát ở Ninh Hòa, Diên Khánh, Vạn Ninh, Cam Ranh, do nguồn cỏ tự nhiên và phụ phẩm trồng trọt sử dụng làm thức ăn cho trâu, bò ngày càng khó khăn nên phần lớn người dân có xu hướng nuôi bò lai Sind nhiều hơn là nuôi bò lấy thịt. Vậy là, nguồn cỏ tươi đã có ảnh hưởng không nhỏ đến việc phát triển đàn bò. Khánh Hòa rất có điều kiện trong việc phát triển các đồng cỏ để nuôi bò trên những khu vực đất bạc màu, đất xấu, khó canh tác. Nếu chăn nuôi bò tốt, 1 ha đất canh tác mỗi năm lãi ròng không dưới 50 triệu đồng.
Các chủ trang trại cho rằng, trồng cỏ voi nuôi bò hiệu quả hơn trồng lúa, tính ra 1 ha lúa thâm canh 3 vụ, với năng suất khoảng 60 tạ/ha, giá lúa thị trường 1.200 đồng/kg, người sản xuất giỏi lắm thu lãi khoảng 10 triệu đồng. Biết vậy, nhưng nhiều chủ trang trại đành bó tay, chỉ vì một điều duy nhất là họ thiếu vốn. Nhiều chủ trang trại cho biết hiện nay vốn đầu tư phát triển KTTT rất lớn. Ngoài tiền thuê, mua đất với diện tích lớn, họ còn phải đầu tư cơ sở hạ tầng, cây trồng vật nuôi khác, do vậy ít nhất cũng phải tốn hết vài trăm triệu đồng tiền đầu tư. Chính từ những lý do này, nhiều chủ trang trại chưa mạnh dạn trồng cỏ nuôi bò. Còn các hộ chuyên trồng cỏ voi nuôi bò thì sao? Trồng cỏ rất dễ, nhưng để có vốn nuôi bò khoảng vài chục con thì khó quá! Vốn vay từ ngân hàng ít, không thấm vào đâu, nên phát triển đàn bò chủ yếu là vốn tự có. Giá bò đang cao, hiện mỗi con bò đẻ, bò đến tuổi trưởng thành giá khoảng 8 – 10 triệu đồng. Vốn đầu tư hạn hẹp, do vậy các hộ trồng cỏ nuôi bò lấy phương châm “lấy ngắn nuôi dài” là chính.
Trồng cỏ voi nuôi bò đang có xu hướng phát triển mạnh, mang lại hiệu quả kinh tế cao. Việc tạo điều kiện thuận lợi cho các hộ nông dân, các chủ trang trại vay vốn trung và dài hạn để phát triển đàn bò là vấn đề hết sức cấp bách. Nếu giải quyết được những vấn đề này, từ mô hình trồng cỏ voi nuôi bò, không xa, con đường 50 triệu đồng/ha đất canh tác sẽ nằm trong tầm tay của bà con nông dân.
VŨ TRUNG HÙNG, Báo Khánh Hoà, 20/9/2003
Kỹ thuật trồng cỏ Voi, Keo dậu, cỏ Stylo, cỏ Sả để nuôi bò sữa
1. Cỏ Voi
Thuộc họ hoà thảo, thân đứng, có nhiều đốt, rậm lá, sinh trưởng nhanh. Khi nhiệt độ hạ xuống thấp không bị cháy lá. Thời gian trồng thích hợp là từ tháng 2 đến tháng 5, thu hoạch từ tháng 6 đến tháng 11. Nếu mùa khô chủ động được nước tưới, thì có thể thu hoạch quanh năm. Chu kỳ kinh tế của cỏ Voi là 3 – 4 năm (tức là trồng một lần thu hoạch được 3 – 4 năm); tuỳ theo trình độ thâm canh, năng suất chất xanh biến động từ 100 tấn đến 200 tấn/ha/năm
Đất và chuẩn bị đất trồng cỏ Voi
Cỏ Voi ưa đất mầu và thoáng, không chịu được ngập và úng nước. Loại đất trồng cỏ Voi yêu cầu có tầng canh tác trên 30cm, có độ ẩm trung bình đến hơi khô, pH của đất = 5 – 7. Cần cày sâu, bừa kỹ 2 lượt và làm sạch cỏ dại, đồng thời san phẳng đất. Rạch hàng sâu 15 – 20cm theo hướng đông – tây, hàng cách hàng 60cm. Cũng có thể trồng theo khóm với mật độ bụi nọ cách bụi kia 40 cm và hàng cách hàng 60cm.
Phân bón
Trung bình cho 1ha cần 15 – 20 tấn phân chuồng hoại mục – bón lót toàn bộ theo hàng trồng cỏ; 300 – 400kg đạm – bón thúc và sau mỗi lần cắt; 250 – 300kg super lân – bón lót toàn bộ theo hàng cỏ; 150 – 200kg sunphat ka li – bón lót toàn bộ theo hàng trồng cỏ. Nếu đất chua (pH<5), cần bón thêm vôi.
Trồng và chăm sóc cỏ Voi
Trồng bằng thân cây (hom), chọn cây mập và hom bánh tẻ (ở độ tuổi 80 – 100 ngày). Chặt vát hom với độ dài 25 – 30cm/hom và có 3 – 5 mắt mầm. Mỗi ha cần 8 – 10 tấn hom. Đặt hom trong lòng rãnh chếch 450, cách nhau 30 – 40 cm và lấp đất sao cho hom nhô tận mặt đất khoảng 10cm.
Sau khi trồng 10 – 15 ngày mầm bắt đầu mọc. Nếu có hom chết, cần trồng dặm, đồng thời làm cỏ và xới xáo nhẹ làm cho đất tơi, thoáng. Lúc được 30 ngày tiến hành bón thúc bằng 100kg urê. Sau khi trồng 80 – 90 ngày thu hoạch đợt đầu (không thu hoạch non đợt đầu). Cứ sau mỗi lần thu hoạch và cỏ ra lá mới lại tiến hành bón thúc. Khoảng cách những lần thu hoạch tiếp theo là 30 – 45 ngày. Cắt gốc ở độ cao 5cm trên mặt đất và cắt sạch, không để lại mầm cây, để cho cỏ mọc lại đều.
2. Keo dậu
Thuộc họ đậu, thân bụi hoặc thân gỗ lâu năm. Cây có khả năng chịu hạn rất tốt nhưng kém chịu lạnh và sương muối. Cây phát triển tốt tại những vùng nhiệt đới, mưa nhiều.
Năng suất chất xanh trung bình có thể đạt 40 – 45 tấn/ha/năm. Thời gian trồng tốt nhất vào tháng 4. Chu kỳ kinh tế 5 – 6 năm.
Đất trồng và chuẩn bị đất trồng cỏ keo đậu
Keo dậu có thể sinh trưởng trên nhiều loại đất khác nhau, nhưng thích hợp nhất là đất nhiều mùn, dễ thoát nước, với pH = 5,5 – 7,5.
Có thể trồng keo dậu ở ruộng tập trung, trên bờ bụi, bờ mương máng hoặc trong vườn, làm hàng rào. Nếu trồng tại ruộng thì chuẩn bị đất như khi trồng các loại đậu đỗ khác. Sau khi cày bừa và làm đất tiến hành lên luống rộng 3m, rạch các hàng trên luống cách nhau 70 – 80cm, sâu khoảng 10cm.
Phân bón
Mỗi ha cần 10 tấn phân chuồng, 300kg phân lân nung chảy và 150kg clorua kali. Các loại phân này dùng bón lót toàn bộ trước khi bừa lần cuối. Từ năm thứ hai trở đi mỗi năm bón các loại phân này một lần vào vụ xuân.
Trồng và chăm sóc keo dậu
Trước khi gieo, cần xử lý hạt như sau: làm ướt bằng nước lã, sau đó đổ nước nóng 90 – 1000C vào và ngâm trong vòng 5 phút. Bước tiếp theo là gạn hết nước nóng và đổ nước lã vào cho ngập hạt, ngâm tiếp 5 – 10 giờ, rồi lại gạn hết nước và để hạt thật khô ráo, trước khi đem đi gieo.
Gieo hạt theo hàng rạch, trung bình 1m dài gieo 20 hạt (lượng hạt khô cần cho mỗi ha khoảng 20kg), lấp đất sâu khoảng 5cm.
Cũng có thể gieo hạt vào bầu đất hoặc vườn ươm, sau đó, khi cây mọc cao khoảng 45cm bứng đi trồng (trong trường hợp trồng làm hàng rào) như các loại cây gỗ khác, trồng cây cách cây 50cm.
Sau khi trồng khoảng 10 ngày, kiểm tra tỷ lệ nảy mầm, nếu cần thiết thì gieo hoặc trồng dặm lại. Dùng cuốc xới xáo nhẹ theo hàng và làm sạch cỏ dại hai đợt: lúc 15 ngày và lúc 40 ngày sau khi trồng; khoảng 4 – 5 tháng, có thể thu hoạch lứa đầu (thu hoạch xong cắt gốc cách mặt đất 70cm). Với lứa tiếp theo cắt chừa lại cành mới tái sinh 5cm, và cứ sau khoảng 45 ngày cắt một lần. Có thể sử dụng keo dậu như nguồn thức ăn tươi xanh (cắt về cho gia súc ăn tại chuồng và chăn thả trên bãi trồng keo dậu). Cũng có thể phơi sấy khô, nghiền thành bột keo dậu.
3. Cỏ Stylo
Là loại cây họ đậu, lưu niên, thân đứng hoặc bò. Là loại cây thích nghi tốt với khí hậu nhiệt đới, ít bị sâu bệnh, có khả năng thích ứng rộng (chịu được khô hạn và úng ngập tạm thời) và dễ nhân giống. Ngoài tác dụng làm nguồn thức ăn cho gia súc chất lượng cao do giầu protein (cho ăn xanh, ủ với các loại cỏ hoặc chăn thả) nó còn được trồng xen với cây ăn quả, chè, cà phê để cải tạo đất, che phủ đất và chống xói mòn.
Có thể trồng cỏ Stylo bang hạt hoặc trồng bằng cành giâm. Năng suất trên một ha từ 40 đến 50 tấn mỗi năm.
Thời gian gieo trồng: từ tháng 3 đến tháng 6. Thu hoạch tháng 6 đến tháng 12. Trồng một lần, có thể thu hoạch 4 – 5 năm.
Đất trồng và chuẩn bị đất trồng cỏ Stylo
Cỏ Slylo phù hợp với nơi cao, ngay cả vùng đất đồi cao, mọc trên nhiều loại đất khác nhau (đất chua, đất nghèo dinh dưỡng,…)
Làm đất kỹ như trồng cỏ Voi (cày, bừa hai lần), cày sâu 15 – 20 cm, bảo đảm đất tơi nhỏ. Làm sạch cỏ dại giữa hai lần cày bừa (cách nhau 10 – 15 ngày), để diệt được mầm cỏ dại (trước khi gieo trồng). Làm đất kỹ rồi rạch hàng sâu khoảng 15cm (nếu trồng bằng cành giâm), và 10cm (nếu gieo bằng hạt) hàng cách hàng 45 – 50 cm.
Phân bón
Mỗi ha, bón: 10 – 15 tấn phân chuồng hoại mục – bón lót toàn bộ theo hàng rạch; 300 – 350kg super lân – bón lót toàn bộ theo hàng rạch; 100 – 150kg clorua ka li – bón lót toàn bộ theo hàng rạch; 50kg urê – bón thúc khi cây đạt độ cao 5 – 10 cm. Đất chua, thì bón lót thêm vôi (rải đều khi cày bừa – 0,5 – 1 tấn cho một ha).
Trồng và chăm sóc cỏ Stylo
+ Trồng bằng cành giâm. cắt cành dài 30 – 40 cm, có 4 -5 mắt. Trồng theo khóm, dọc theo rãnh, mỗi khóm 5 – 6 cành và các khóm cách nhau 25 cm. Lấp đất dày 5 – 6 cm để cành ngập trong đất 20 cm.
+ Gieo bằng hạt: sử dụng 5 – 6 kg hạt giống cho một ha; gieo theo hàng rạch. Sau đó lấp lớp đất mỏng. Để cho cây chóng mọc, có thể ủ hạt trong nước nóng 60 – 700C, khi hạt nứt nanh thì đem gieo.
Có thể gieo hạt trong vườn ươm, và khi cây mọc cao 20 – 25cm, thì bứng trồng theo rạch, khoảng cách cây này đến cây kia 15 – 20 cm.
Cây mọc cao khoảng 5 – 10cm, tiến hành xới xáo cho đất tơi xốp và làm sạch cỏ dại, đồng thời bón thúc (bằng urê). Khoảng 2 tháng tuổi, xới cỏ một lần nữa, tạo điều kiện cho cỏ phát triển.
Thu hoạch cỏ Stylo lứa đầu khoảng 3 tháng sau khi trồng, lúc cỏ cao khoảng 60 cm và thảm cỏ che phủ kính đất. Thu hoạch: cắt cách mặt đất 15 – 20 cm; thu hoạch các lứa tiếp theo cứ sau 2 2,5 tháng, lúc cỏ cao 35 – 40 cm.
4. Cỏ Sả (còn có tên cỏ Sữa, cỏ Ghinê, cỏ Tây Nghệ An).
Cỏ Sả là cây hoà thảo, lâu năm, thân cao tới 2-3m, chỉ sinh nhánh và mọc thành bụi. Có đặc tính quý sinh trưởng mạnh, năng suất cao, khả năng chịu hạn, chịu nóng và chịu bóng cây tốt, dễ trồng.
Trồng thâm canh, mỗi năm thu hoạch 8 – 10 lứa và trên một ha đạt 100 – 200 tấn.
Thời gian trồng tốt nhất là vào đầu mùa mưa (bảo đảm tỷ lệ sống cao). Thu hoạch tháng 5 đến tháng 11, trồng một lần, thu hoạch trong 4 -5 năm hoặc dài hơn.
Đất trồng và chuẩn bị đất trồng cỏ Sả
Cỏ Sả sống được trên nhiều loại đất khác nhau, tốt nhất là ở loại đất phù sa và đất có nhiều mầu, pH = 6; chịu được đất mặn nhẹ, không chịu được đất ẩm kéo dài.
Cày vỡ đất ở độ sâu 20cm, sau đó, bừa và cày đảo (cày 2 lần), làm sạch cỏ dại và san phẳng đất. Dùng cày rạch thành hàng cách nhau 40 – 50 cm, sâu 15cm (nếu trồng bằng khóm) hoặc sâu 10cm (nếu gieo bàng hạt).
Phân bón
Mỗi ha cần: 10 – 15 tấn phân chuồng hoại mục – bón lót toàn bộ theo hàng rạch; 200 – 250kg super lân – bón lót toàn bộ theo hàng rạch; 150 – 200kg sun phát kali – bón lót toàn bộ theo hàng rạch; 200 – 300kg sunphát đạm – chia đều để bón thúc sau mỗi lần thu hoạch.
Cách trồng và chăm sóc cỏ Sả
Có thể trồng bằng hạt, hoặc dùng khóm thân rễ, trồng theo bụi. Mỗi ha cần lượng khóm 5 – 6 tấn, lượng hạt 5 – 6kg.
Cách chuẩn bị khóm giống như sau: cắt bỏ phần ngọn các khóm cỏ sả giống trên ruộng và để lại chiều cao khóm khoảng 25 – 30cm. Dùng cuốc đánh gốc cỏ lên, rũ sạch đất, cát, cắt phạt bớt phần rễ già. Sau dó tách thành những khóm nhỏ, mỗi khóm 3 – 4 nhánh đem trồng.
Đặt các khóm vào rãnh, ngả cùng một phía và vuông góc với thành rãnh, cách nhau 35 – 40cm, lấp đất sâu khoảng 10 – 15cm (1/2 độ dài của thân cây giống) và lưu ý dậm chặt đất, tạo điều kiện có độ ẩm, cây chóng nảy mầm và có tỷ lệ sống cao.
Nếu trồng bằng hạt thì gieo rải đều theo hàng rạch và dùng đất nhỏ mịn lấp đầy 5cm.
Trong trường hợp trồng xen với cây ăn quả, trồng ven đường hoặc xung quanh bờ ao thì đào hố sâu 15cm, với khoảng cách hàng 40 – 50 cm và hố nọ cách hố kia 15 – 20 cm.
Sau khi trồng 15 – 20 ngày kiểm tra khả năng ra mầm chồi và nếu cần thiết thì trồng dặm lại. Đồng thời lúc này xới xáo qua, làm cỏ dại và bón thúc bằng đạm urê. Nếu gieo bằng hạt thì chỉ tiến hành chăm sóc và trồng tỉa bổ sung khi cây mọc và có thể phân biệt rõ để tránh nhầm lẫn với cỏ dại. Sau mỗi lần cắt và khi thảm cỏ nảy mầm xanh lại làm sạch cỏ dại rồi dùng phân đạm bón thúc. Trồng được 60 ngày, thì thu hoạch lứa đầu, cát phần trên, cách mặt đất 10cm. Các lứa thu hoạch cách nhau 40 – 45 ngày. Mỗi năm cắt dọn gốc già một lần.
Phùng Vũ, Chăn nuôi số 7 [49] – 2002 – Kỹ thuật chăn nuôi bò sữa ở các hộ nông dân và trang trại tại các tỉnh phía Bắc
